Trương Công Án

Chương 49



Trần Trù ngây ra: “Việc này…” Theo bản năng gã quay lại nhìn Trương Bình, vừa đúng lúc chạm phải ánh mắt của Trương Bình. Ánh mắt hắn tĩnh lặng không hề có ý phản đối, gương mặt cũng chẳng biểu lộ cảm xúc gì.

Cao Tri phủ trên nội đường lại nói: “Chuyện ăn uống ngủ nghỉ không cần phải lo, tự phủ nha sẽ sắp xếp. Bổng lộc cũng đủ cho ngươi dùng.”

Trần Trù choáng váng nói: “Nhưng học trò…”

Cao Tri phủ lại cất tiếng: “Sau ba năm ngươi lại có thể đi thi, nếu như không đậu vẫn có thể tiếp tục ở lại làm việc. Nếu trong quá trình làm việc có công trạng, bản phủ sẽ tiến cử ngươi, không cần phải lo lắng về chuyện tiền đồ.”

Trần Trù cảm thấy trước mắt có rất nhiều ngôi sao nhỏ đang nhảy múa, toả sáng lấp lánh: “Học trò…học trò không thể…”

Thiệu Tri huyện vội vàng chặn đứng lời nói của gã: “Trần sinh, Tri phủ đại nhân thực sự quý trọng tài hoa của ngươi, đừng cứ khiêm tốn chối từ, bằng không đến cả bản huyện và Trương đại nhân cũng phải lên tiếng khuyên ngươi đấy.”

Trần Trù lại nhìn về phía Trương Bình, Trương Bình cúi đầu đứng đó, cũng không nhìn gã. Nhất thời đầu óc Trần Trù hỗn loạn như đám rừng, chỉ có thể lắp bắp nói: “Học trò, học trò đa tạ sự yêu thương cất nhắc của đại nhân. Học trò có được ân điển này, nhất thời không biết như thế nào cho phải, đại nhân có thể cho học trò qua mấy ngày rồi trả lời không?”

Thiệu Tri huyện vẻ mặt đau xót nói: “Ngươi thật là…”

Cao Tri phủ ngậm cười nói: “Cũng được, bản phủ không thích miễn cưỡng người khác, chỉ là nói thế thôi, ngươi nên tự mình cân nhắc, ngày mai đến trả lời bản phủ.”

Sau khi Trần Trù lui xuống, nhanh như chớp trở về tiểu trạch, đóng cửa đi vòng vòng trong phòng. Đến tối, do Tri phủ đại nhân và các bậc trưởng lão trong huyện tán gẫu với nhau, cùng dùng bữa tối, những người không quan trọng không cần phải tháp tùng, nên Trương Bình bèn trở về phòng. Trần Trù xông vào phòng hắn: “Trương huynh, huynh nói tôi phải từ chối Tri phủ đại nhân thế nào đây mới không lộ liễu làm mất mặt ông ấy, lại không liên luỵ đến huynh?”

Trong ánh mắt Trương Bình có thứ gì đó loé sáng lên, hắn cụp mắt xuống: “Huynh nên đồng ý.”

Trần Trù vội nói: “Trương huynh, huynh nghĩ tôi không nhìn ra sao. Chẳng biết Tri phủ đại nhân không vừa mắt huynh chỗ nào mà lại mượn tay tôi, nâng tôi lên để dìm huynh xuống. Nếu tôi muốn thừa dịp này để bẻ măng thì tôi thành ra loại người gì?”

Trương Bình lại nhìn gã chằm chằm: “Nhưng, đây là một cơ hội.”

Trần Trù giậm chân: “Cơ hội con khỉ! Trần Trù tôi tuyệt đối không đạp lên bạn mình để lấy cơ hội này đâu! Kỳ thi ba năm sau, quang minh chính đại đề tên bảng vàng đó mới chính là cơ hội mà bản thân tôi muốn có.”

Trong mắt Trương Bình lại có gì đó loé sáng, giống như muốn nói điều gì nhưng lại nuốt vào không lên tiếng.

Trần Trù đi quanh cả ngày trời, nhìn thấy bộ dạng chẳng ra cái khỉ gì của Trương Bình lại càng thêm nóng nảy, dứt khoát tông cửa ra khỏi phòng.

Trời đã gần tối, nhìn như lại sắp có tuyết rơi. Trần Trù đi vào một tửu lâu, gọi ba đĩa thức ăn, một bình rượu nóng, ngồi trong góc của sảnh lớn ăn uống một mình. Uống hai ba ly xuống bụng, một nỗi phiền muộn lại thêm sầu, gấp một đũa bao tử thái sợi, không khỏi thổn thức. Lúc đang thất thần đột nhiên nghe thấy tiếng người nói: “Trần công tử? Tình cờ quá nhỉ.”

Trần Trù ngỡ ngàng đảo mắt, nhìn thấy vài Thư lại ở Hộ phòng, Công phòng trong huyện nha chắp tay với mình. Trần Trù vội vàng đứng dậy: “Các vị đại nhân cũng đến ăn uống à? Nếu không chê mời ngồi xuống bàn.”

Mấy người đó cười nói: “Không làm phiền Trần công tử chứ?”

Trần Trù đáp: “Sao có thể, mấy vị đại nhân chịu ngồi cùng là vinh hạnh của Trần mỗ mới phải.” Rồi cả hai bên lại khách khí với nhau thêm một hồi, có mấy người đó ngồi chung khiến bàn Trần Trù vừa vặn đủ bốn người. Trần Trù lại gọi tiểu nhị thêm vài món ăn, mấy người đó lại nói: “Không thể được, ba người bọn tôi sao có thể ăn của một mình Trần huynh?”

Trần Trù nói: “Người đến trước làm chủ là quy tắc trước giờ. Các vị đại nhân bình thường vẫn giúp đỡ Trần mỗ rất nhiều, nếu cứ tiếp tục từ chối chính là không nể mặt tôi rồi.” Rồi giành lấy thực đơn gọi món, lại gọi thêm rượu ngon. Mấy vị thư lại lại khách sáo bận nữa.

Sau khi gọi món xong, Trần Trù lại hỏi: “Các vị đại nhân không dùng bữa trong huyện nha à?”

Đường Thư lại của Lễ phòng thường ở trong kho hồ sơ giúp đỡ, là người quen với Trần Trù nhất, đáp: “Ầy, Tri phủ đại nhân dùng bữa tối, bọn chúng tôi làm sao có phúc phần nhập tiệc? Đành ra ngoài ăn vậy.”

Trần Trù vừa nghe đến hai chữ Tri phủ thần sắc liền u ám. May mà lúc này rượu được đem đến, vừa hay có thể đổi chủ đề. Tiểu nhị hầm rượu, lại bưng lên một nồi lẩu to tròn âm ấm, bên trong phân ra làm bốn ngăn, phía dưới than đá nhỏ tí tách, ùng ục ùng ục, hầm thịt dê, xí quách, mấy cục viên, nấm thái mỏng, đọt măng, rau quả… Nồi lẩu đã sôi, có thể ăn được rồi. Các vị Thư lại đều nói: “Cái này ngon đây, trời lạnh ăn vào mới đúng điệu.” Trần Trù lại kêu tiệm đem ra bốn quả trứng gà sống, đập vào chén trộn đều, thêm vụn hành ngò rí băm nhuyễn, bỏ vào trong nồi lẩu đang sôi sùng sục, nói: “Cái này là lúc tôi còn ở Kinh Thành với vài người bạn ven sông Hoài học được đấy. Lúc đó nghèo lắm, không có thịt ăn, thêm chút muối đổ nước sôi vào ăn vô cùng ấm người, đầu tiên ăn một bát cho ấm dạ dày rồi tiếp đó uống rượu mới là nhất.”

Các vị Thư lại thử hớp hai ba ngụm, quả thật rất thơm ngon, đều nói: “Trần công tử đúng là biết cách ăn, tâm tư lại tỉ mỉ. Trương Huyện thừa có được trợ thủ như Trần công tử đây đúng là như hổ thêm cánh.”

Trong lòng Trần Trù lại thêm căng thẳng.

Quả nhiên lại có người tiếp lời nói: “Đúng vậy, hôm nay Trần công tử có được duyên phận với Tri phủ đại nhân, cần phải chúc mừng mới đúng!”

“Tri phủ đại nhân luôn yêu mến quý trọng người có tài, Trần công tử nhất định có tiền đồ như gấm vóc lụa là rồi.”

“Vậy sẽ khởi hành cùng với Tri phủ đại nhân hay đợi nghỉ ngơi một thời gian rồi mới đi?”

Trần Trù không lên tiếng. Đường Thư lại nói: “Xem ra Trần công tử không nỡ chia tay với Trương đại nhân. Nhưng có được cơ duyên tốt thế này thì cũng nên nắm lấy đi. Nếu vì điều này mà Trần công tử bỏ lỡ, xem chừng Trương đại nhân sẽ cảm thấy áy náy trong lòng đấy.”

Hai vị Thư lại kia cũng nói: “Không sai, quận phủ cách Nghi Bình không xa lắm, nếu cưỡi khoái mã, một hai ngày là tới. Cơ hội tốt thế này, không nắm lấy thì thật uổng phí.”

“Hơn nữa, Tri huyện đại nhân lúc ở nội đường cũng đã nói rồi, nếu Trần công tử không đồng ý, thật khó tránh việc phụ tấm lòng bồi đắp nhân tài của Tri phủ đại nhân.”

Trong lòng của Trần Trù cũng hiểu, lần này là Tri phủ đại nhân mượn gã đe nẹt Trương Bình. Nếu quả thật từ chối, Trương Bình cũng chẳng sống dễ chịu gì. Gã cầm ly rượu lên, cười khổ một tiếng: “Cảm tạ các vị đại nhân chỉ điểm, nào nào, cạn ly.”

Tờ mờ sáng hôm sau, Trương Bình thức dậy đi mấy vòng trong sân, không thấy Trần Trù đâu bèn đẩy cửa bước vào phòng gã, chỉ nhìn thấy chăn gối đã được gấp lại ngay ngắn, trên bàn đặt quyển sách “Mị Mị truyện”, bên dưới có kẹp hai bức thư, trên thư đề gửi cho Trương Bình.

“Trương huynh: Những lời phức tạp xin nói sơ, tôi đã suy nghĩ rất nhiều, ở lại nơi này mãi thật không ổn, đêm khuya không tiện quấy nhiễu thanh mộng của huynh cho nên mới ra đi không lời từ giã. Tôi có mượn một con ngựa trong chuồng, coi như là mua đi vậy, tôi có để lại một ít tiền, không biết là đủ hay không. Nếu như không đủ, đợi khi huynh đến Kinh, tôi sẽ trả lại sau nhé. Tôi muốn đi thăm thú các nơi, gần nhất có lẽ, hoặc đợi đến gần kỳ thi lần sau sẽ trở lại Kinh Thành. Nếu tôi đến Kinh, chắc vẫn sẽ trọ lại chỗ ở hẻm Tiểu Hao Tử, như thế huynh sẽ dễ dàng tìm thấy tôi. Trước mắt tôi sẽ không đến Kinh Thành, đợi yên ổn đã rồi sẽ lại viết thư cho huynh. Bức thư từ chối Tri phủ đại nhân tôi cũng đã viết xong, chỉ nói là trưởng bối trong nhà bệnh nặng, phải vội vã quay về. Phiền huynh chuyển giúp tôi. Thời gian ở Nghi Bình, ăn chùa ở ké, cộng thêm ân tình cứu mạng lần trước, Trần Trù tôi nợ huynh lấy mạng này trả cũng không đủ, nói nhiều lại đâm ra cảm thấy tình giả sáo rỗng. Lần này không giúp được huynh gì cả, chỉ có thể đợi đến sau này gặp lại…”

Mấy tờ giấy mỏng, vì được viết một cách vội vàng nên chữ viết hơi ngoáy. Góc bàn vẫn còn đặt một túi tiền màu xanh, chính là cái túi Trần Trù thường hay dùng, bên trong là nửa túi bạc.

Trương Bình cầm bức thư, trước ánh mắt sợ hãi của gã sai vặt không nói gì cả bước ra khỏi phòng. Mây bụi dày đặc nặng nề tựa như chì, từng lớp bông tuyết rơi xuống trong thinh lặng.

Cao Tri phủ biết được Trần Trù đi rồi, chỉ hơi gật gật đầu: “Người nhà ôm bệnh nhẹ đã vội đội tuyết trở về, học trò này thật trọng hiếu đạo.”

Thiệu Tri huyện nói: “Đáng tiếc đại nhân đã mất đi một hiền tài.”

Cao Tri phủ ngậm cười nói: “Sĩ có tài triều đình tất trọng dụng. Không phải ba năm sau còn có kỳ thi nữa hay sao, bản phủ thấy tiền đồ học trò này rất khả quan.” Rồi lại liếc về phía Trương Bình, “Trần sinh đã đi, huyện chí ngài đang biên soạn như thế nào đây?”

Trương Bình đáp: “Hạ quan vẫn tiếp tục làm”

Thiệu Tri huyện vội nói: “Hạ quan sẽ lại tuyển người đến giúp Trương Huyện thừa, chỉ là sợ rằng học vấn sẽ không bằng Trần công tử.”

Cao Tri phủ khẽ gật đầu: “Vậy Trương Huyện thừa đi làm việc trước đi vậy, không cần phải đứng đây làm chậm trễ công vụ đâu.” Trương Bình bèn cáo lui.

Thiệu Tri huyện và các hạ quan cùng thư lại trong huyện nha đều cùng Cao Tri phủ đội tuyết đi xuống vùng quê tuần tra. Nha môn nhất thời trống huơ trống hoác, chỉ còn lại mấy lão nha dịch tay chân không tiện đi đứng nhìn Trương Bình như cô hồn chui ra chui vào trong kho hồ sơ.

Cao Tri phủ tuần tra xong, Thiệu Tri huyện tiếp đãi Tri phủ đại nhân dùng xong bữa tối, ngồi nghỉ ngơi trong quán. Lúc trở về nha môn đã nửa đêm, Thiệu Tri huyện cũng không quên hỏi thăm Trương Huyện thừa đang ở đâu, lão nha dịch bẩm báo, chạng vạng tối Trương Huyện thừa đã trở về trạch rồi. Hướng tiểu trạch tối om không có lấy một ánh đèn, Trương Bình luôn rất tiết kiệm, trước khi đi ngủ đều tắt hết đèn lồng trong sân và dưới hành lang. Xem chừng đã ngủ rồi.

Tuyết tích tụ rất dày. Tiếng gõ mõ canh ba đã qua, Cao Tri phủ đóng lại văn thư dưới ánh đèn, đang tính rút ra một tập khác thì ở cửa khẽ vang. Tuỳ tùng ngoài cửa thấp giọng nói: “Đại nhân, khách quý người đợi đã đến.”

Hạ nhân xung quanh lui xuống, chia nhau đứng gác xa xa ở trong sân. Một cái bóng đen lách vào trong phòng. Cao Tri phủ đứng dậy, cái bóng đen kéo cái khăn dày che mặt ra: “Tri phủ đại nhân thật biết cách làm việc. Đang yên đang lành bảo ngài quan tâm đến một người, kết quả người bị ngài doạ đến mức chạy trốn ngay trong đêm.”

Cao Tri phủ chắp tay: “Đặng đại nhân, hạ quan hoảng sợ. Thực sự là đã tuân theo lệnh của đại nhân, đặc biệt quan tâm rồi nhưng không biết tại sao hắn lại đột nhiên bỏ chạy. Mấy người trẻ tuổi ngày nay thật khó mà dò được tính tình.”

Đặng Tự cởi áo khoác dày sụ có mũ trùm đầu ra: “Lão Cao, bớt bớt lại đi. Ngài ở huyện nha làm chuyện tốt đẹp gì chẳng lẽ ta không biết? Ta chỉ nhờ ngài để mắt tới Trần Trù, chứ có bảo lấy hắn bắt chẹt Trương Bình đâu nhỉ? Ngài thì giỏi rồi, nâng bên này, giẫm bên kia, không chạy thì có thể làm gì chứ?”

Cao Tri phủ vuốt râu cười khà khà nói: “Việc này chẳng phải càng thêm hợp tình hợp lý hay sao, nếu không, hạ quan cũng chẳng tìm đâu ra được lý do để cất nhắc Trần sinh kia nữa.”

Đặng Tự rũ rũ tuyết trên áo khoác, vắt trên lưng ghế: “Cao đại nhân cười thật là vui vẻ, người chạy rồi, làm sao đây, ngài đền cho ta một người à?”

Cao Tri phủ nói: “Được, hạ quan lập tức đi dắt ngựa ra, học theo Tiêu Hà[1], không đem được người mà Đặng đại nhân xem trọng trở về tuyệt đối sẽ không bỏ cuộc.”

Đặng Tự khoát tay: “Được rồi, được rồi, chẳng chóng thì chày thôi, trước cứ thế này đi vậy. Ngài nghĩ ta đang giỡn với ngài à, quả thực có quan hệ trọng đại đấy.”

Cao Tri phủ gật đầu: “Học trò này lúc ở Kinh đã từng liên luỵ đến một vụ án được tam ti hội thẩm, mà vụ này lại có liên quan đến công tử của Vương Thái sư và Liễu đại nhân. Hạ quan cũng có nghe qua.”

Đặng Tự nhướn mày: “Xem ra Cao đại nhân đã bỏ khá nhiều công sức với Trương Bình ấy nhỉ.”

Cao Tri phủ cười nói: “Thánh thượng có mắt xem trọng người, phái người xuống huyện dưới sự cai quản của hạ quan, sao lại có thể lơ là? Hạ quan đã nói, ái đồ của Đào Thượng thư sao lại có thể được ngự chỉ ban cho làm Huyện thừa ở một huyện nhỏ nhoi này chứ, hoá ra là trợ giúp Đặng đại nhân tra án.”

Đặng Tự nói: “Chuyện bản tự muốn điều tra không liên quan gì đến hắn. Quả thật hắn đến đây để nhậm chức huyện thừa.”

Cao Tri phủ đáp: “Không hỏi nữa, hạ quan cũng không nhiều lời nữa. Chỉ là, tên Trương Bình đó sao lại dính tới Lan Giác? Lúc bản phủ gặp hắn, hắn hễ mở miệng ra đều là Lan Thị lang, giống như lấy việc này mà kiêu ngạo vậy. Đào Thượng thư và Lan Giác, khà khà, con đường này có chút phiêu đấy.”

Đặng Tự nói: “Yêu hận tình cừu giữa ngài và Lan Thị lang, bản tự cũng không nhiều lời.”

Cao Tri phủ chắt lưỡi: “Mấy từ Đặng đại nhân dùng thật khiến hạ quan phải toát mồ hôi giữa trời tuyết to đấy. Chỉ là lúc đó mọi người đều sung sức, nhìn nhau thấy gai mắt, ngài tố ta một tập, ta dâng ngài một sổ. Oán thì có thể có một chút nhưng mấy cái khác thì không dám dây đến.”

Đặng Tự ngồi dưới ánh đèn, cười nheo mắt nói: “Đúng vậy, nghe nói giữa Lan Thị lang và Lưu Ngự sử càng không hợp nhau nữa. Cao đại nhân có giao tình khá tốt với Lưu Ngự sử, đúng không?”

Cao Tri phủ làm bộ lấy ống tay áo lau mồ hôi: “Đặng đại nhân giơ cao đánh khẽ, hạ quan không dám dính đến hai chữ kết đảng đâu. Lưu Ngự sử và Lan Thị lang, hạ quan đều quen sao được, chỉ là lúc gặp Lưu Ngự sử có nói thêm vài ba câu, suy cho cùng hạ quan chưa từng liên quan đến chiết tự (sổ gấp) của Lưu Ngự sử… Lúc diễn ra kỳ thi năm đó, hai người này đều không qua lại hay hoà hợp lắm với mọi người. Lan Thị lang năm ấy và bây giờ hoàn toàn là hai người khác nhau, còn tính tình của Lưu Ngự sử vẫn cứ như vậy. Những người đỗ cùng năm đều không thân thiết lắm với hai người họ.”

Đặng Tự rờ rờ ria mép bên miệng: “Đúng vậy, ta nghe nói năm đó, hai người này đều từng có giao tình khá tốt với một người họ Cô. Ngài có quen người này không?”

Cao Tri phủ nói: “Cô Gia Trang Huyện Nghi Bình, những cái không nên hỏi hạ quan không hỏi, chuyện của Cô Gia Trang, có lẽ Đặng đại nhân rõ hơn hạ quan nhiều.”

—–

Chú thích:

[1] Tiêu Hà cùng với Trương Lương, Hàn Tín là “tam kiệt nhà Hán”, là một trong những thuộc hạ Lưu Bang tin cẩn nhất. Lưu Bang là vị vua đầu tiên của nhà Hán. Ngôi báu của ông được dựng lên với sự phò tá của các bậc kỳ tài, trong đó có Tiêu Hà.