Thánh Địa Vùi Thây

Chương 63







Sương mù ở nghĩa trang Cổ Cồng có mật độ hạt nước dày đặc, khả năng phản chiếu khúc xạ rất tốt.

Vậy nên mặc dù khoảng cách từ chỗ chúng tôi đứng tới lớp sương chỉ hơn ba mươi mét nhưng mọi loại đèn mà ông Lâm đem theo đều không thể chiếu xuyên xuống được, việc cho người đi thăm dò bởi vậy có tính nguy hiểm cao.


Nhưng khi ông Lâm phân tích kế hoạch tôi lại thấy hóa ra cũng không quá mạo hiểm.“Đầu tiên chúng ta chia làm bốn đội, mỗi đội có hai thành viên.

Một thành viên trên và một thành viên dưới, triển khai chế độ hai lớp bảo hiểm.”Ông Lâm vừa hút xì gà vừa vạch trên giấy.Thành viên dưới sẽ là người vào trong sương mù thăm dò, còn thành viên trên ở bên ngoài, đóng vai trò như chốt an toàn.

Dây thừng sẽ được thắt thành một cái dòng dọc đơn giản, nếu gặp vấn đề gì thành viên trên có thể mượn sức dòng dọc lập tức kéo thành viên dưới ra khỏi sương mù, đấy là bảo hiểm lớp một.Thành viên trên và thành viên dưới được nối với nhau bởi một sợi dây tĩnh buộc trên móc khóa ở đai lưng.

Riêng thành viên dưới được buộc thêm một dây thừng có tính năng động dòng trực tiếp từ trên đỉnh núi xuống.

Như vậy trong trường hợp thành viên trên không có khả năng cứu thành viên dưới thì chỉ cần mở khóa ở đai lưng, hai người sẽ tách rời nhau, lúc đó nhiệm vụ kéo thành viên dưới sẽ do đội trên đỉnh núi thực hiện, đấy là bảo hiểm lớp hai.Với kế hoạch hai lớp bảo hiểm, chúng tôi bắt đầu leo xuống.


Đội của tôi gồm tôi đóng vai trò thành viên trên và anh Bảy, người nhỏ con ngồi cùng tôi trước đó, đóng vai trò thành viên dưới.

Nhiệm vụ đầu tiên của chúng tôi là kiểm tra chất lượng không khí.

Như ông Lâm đã nói:“Tôi nghĩ tới ba giả thiết có thể đã xảy ra với đội của chị Diêu khi tiếp cận lớp sương mù.”Giả thiết thứ nhất là khí độc.

Có thể đây không phải lớp sương mù bình thường mà là sương độc, khiến cho người của bà Diêu bị hạ ngay tại chỗ.Anh Bảy bật máy đo lường, bởi vì anh đang đeo mặt nạ phòng độc nên chỉ có thể giật dây với tôi ra dấu hiệu bình thường.

Tiếp theo tôi tuýt một hồi còi dài báo cáo, ba đội còn lại cũng lần lượt làm theo.


Vậy là giả thiết sương mù có độc được loại bỏ.Giả thiết thứ hai là có nguy hiểm ẩn nấp trong sương mù.

Có thể có một con vật gì (theo tôi nghĩ) hoặc có một yêu quái gì (theo sư béo dỏm nghĩ) hoặc có một bẫy gì (theo ông Lâm nghĩ) đã mượn tầm nhìn hạn chế trong sương mù để che đậy hành vi tấn công du kích của mình.Bốn đội chúng tôi bởi vậy được xếp song song, cách một khoảng cách đều và ngắn, bắt đầu giở đèn pin ra tuần tra.Công việc của tôi khá nhàn hạ, cứ đứng yên nhìn xuống đốm đèn vàng của anh Bảy lẫn trong biển sương dày dưới chân, thỉnh thoảng đảo mắt sang những đội khác, cảm giác như mình đang tham quan thủy cung cá đèn lồng vậy.Anh Bảy giật dây, tôi tuýt còi, một giả thiết nữa lại bị tạm thời loại bỏ.Nói là tạm bởi vì đây là một giả thiết cần thời gian kiểm chứng, có thể bây giờ chúng tôi không thấy gì nhưng một lúc nữa thì sao.

Vậy nên ông Lâm đã ra lệnh cho chúng tôi tuần tra liên tục, nếu mọi việc bình thường thì cứ cách hai mươi phút tuýt một hồi còi báo hiệu.

Đến khi nào ông cảm thấy ổn sẽ cho chúng tôi lên.Tôi cứ tưởng sẽ phải chờ đến vài tiếng ai dè còn chưa đến hồi còi thứ ba ông Lâm đã gọi bộ đàm cho tôi.“Chú Bảy đâu?”“Vẫn đang tuần tra.”“Cậu giật dây ba lần thử xem, xem chú ấy có trả lời không.”Tôi vừa giật dây vừa tiện mồm hỏi “Sao bác không gọi thẳng cho anh ấy.”“Tôi không gọi được.” Ông Lâm trầm giọng đáp “Thế nào có trả lời không?”Chiếc dây dưới chân tôi vẫn rung rất bình thường, trái tim đang nảy lên của tôi vì vậy nhẹ nhàng hẳn.“Có trả lời.” Tôi đáp.“Có trả lời à?!”Ông Lâm bỗng cất cao giọng, một mệnh lệnh như tiếng gầm truyền vào tai tôi:“Tháo khoá ngay! Mau!”.