Ngược Về Thời Minh

Chương 420-4: Đấu trí (4)



Dương Lăng cởi bao gấm đó ra, bên trong là một chiếc hộp đựng kiếm màu mực, da cá sấu. Hắn mở chiếc hộp đó ra, bên trong có đặt một thanh bảo kiếm cùng màu với bao kiếm. Đôn kiếm và bộ phận đỡ tay đều nạm bạc trạm khắc tinh xảo, bên trên có khắc hai chữ Mạnh Đức bằng vàng, thôn khẩu màu đồng tía, hình dáng đậm chất cổ xưa.

Dương Lăng nâng thanh kiếm trong tay, rút nó ra khỏi bao. Thanh kiếm dài ba thước sáu tấc, rộng chừng một tấc năm phân, nặng hơn một cân. Thanh bảo kiếm được cất giữ rất tốt, ánh kiếm sáng loáng, soi rõ được cả những vật thể li ti nhất.

- Thanh kiếm tốt lắm, tốt lắm!

Dương Lăng nắm thanh kiếm trong tay, không ngớt lời tán dương.

Kỳ thực thì thanh kiếm đó nói là tốt thì không đúng lắm mà nên nói là thanh kiếm quý. Dương Lăng không tin rằng một thanh kiếm quý từ thời thượng cổ lại có thể sắc bén hơn đao kiếm của thời nay. Kỹ thuật đúc luyện ngày càng được phát triển hơn trước. Một thanh bảo kiếm được coi là sắc bén nhất thời thượng cổ thì nếu xét về độ dẻo, độ sắc bén của thanh kiếm thì chỉ e chỉ bằng một thanh kiếm chất lượng bậc trung trong thời hiện tại này mà thôi. Nhưng trước giờ đâu có ai nỡ dùng thành bảo kiếm để đi chém giết cơ chứ? Loại kiếm này, giá trị của nó đã không còn đơn thuần chỉ là một binh khí thông thường nữa rồi.

Dương Lăng tra kiếm vào trong bao, mỉm cười đưa kiếm cho Trương Dần và nói:

- Trương đại nhân tặng cho ta những món quà vô cùng giá trị như vậy, ta nào dám nhận cơ chứ. Hai món đồ này, bất kể là Tiêu Vĩ Cầm hay Mạnh Đức Kiếm đều là những bảo vật vô giá, Dương mỗ vô công bất hưởng lộc, không thể nhận được, không thể nhận được đâu.

- Ồ! Bảo kiếm tặng dũng sĩ, Phấn hồng tặng giai nhân. Quốc công gia tường đàn rành kiếm như vậy, lại là trụ cột quan trọng của triều đình. Nay hai món báu vật này ngoại trừ Quốc công gia ngài ra thì còn ai xứng đáng để nhận nó hơn chứ? Đây là tấm lòng của Trương mỗ, mong Quốc công gia đừng từ chối.

Hai người bọn họ nhường qua nhường lại, chính vào lúc đang hàn huyên cao trào đó thì đột nhiên Dương Lăng đột nhiên lại nhìn xuyên về đằng sau vai Trương Dần, tiếp theo đó thì vừa cười vừa nói:

- Việc này... thịnh tình khó chối, nếu như Trương đại nhân đã có lòng thì... Dương mỗ ta xin được nhận, ha ha.

- Nên vậy mới đúng, nên làm vậy mới đúng.

Trương Dần liên tiếp đáp lời, trong lòng y thầm cười nhạt: muốn gạt đôi pháp nhãn của Lý Phúc Đạt ta hay sao, hừm! Tên Giáo Úy đó... nhất định chính là Chính Đức rồi!

Mặt trời lặn xuống phía Tây, từ đằng xa là những ngọn núi xanh thẫm một màu trong ánh hoàng hôn, chỉ có duy nhất đỉnh núi còn lưu lại chút ánh sáng mà thôi. Một vài con chim ưng đang kêu réo, giang rộng đôi cánh của nó phá vỡ đi những khoảnh trời màu xanh thẫm, lao bay vun vút lên.

Dưới núi là đường núi quanh co và những bụi rậm um tùm. Đỉnh núi cô độc này được ánh sáng hoàng hôn nhuộm lên một lớp vàng đỏ. Hồng Nương Tử và lão Trình đang ngồi lên hòn đá trên đỉnh núi, toàn thân hai người bọn họ dường như cũng được nhuốm một màu vàng đỏ rực.

- Cháu biết đó, thúc không biết bơi, bản lĩnh đầy mình của ta đến khi rớt xuống nước cũng chẳng có tác dụng gì hết. Lúc đó ta chỉ đành nắm chặt lấy tấm gỗ mà theo dòng trôi đi thôi. Sau đó thì khó khăn lắm mới có thể trèo lên được tới bờ, coi như may mắn giữ được cái mạng này. Quan phủ truy đuổi ráo tiết, cũng may là nhị thúc đã lớn tuổi rồi, tướng mạo là tầm thường nên mới có thể lẩn mình vào trong đám lưu dân và ăn mày để trốn tránh được. Ta không dám về Nam Kinh mà chỉ đành đi lên phía Đông, đi tới Triết Giang...

Lão ta ngừng một lúc rồi nói tiếp:

- Haizz, bên trong này đánh nhau trời long đất lở, nhưng ở Triết Giang thì tình hình lại hoàn toàn bình lặng. Lão bách tính trong thôn đều hăng say trồng trọt, hái trà, thu tằm kéo tớ, nung sứ dệt vải để mang vào trong thành buôn bán, giao thương sầm uất vô cùng.

Còn có rất nhiều thương buôn đến từ các Phiên quốc, Đông Doanh, Triều Tiên, Lưu Ly, Lã Tống, còn có cả những người tới từ những nới rất xa, họ tóc vàng mắt xanh, tất cả đều giao thương với nhau hết sức nghiêm túc. Có rất nhiều những hộ gia đình nhỏ đều khá giả vô cùng. Đàn ông ra bên ngoài làm ăn buôn bán, phụ nữ ở trong nhà xe tơ dệt vải, mỗi ngày bọn họ đều kiếm được mấy chục văn tiền cơ đấy.

- Thúc ở đó một thời gian, đợi cho sự việc lắng xuống thì mới băng qua sông để nghe ngóng tình hình của cháu, nghe nói Bạch Y quân đã về Thái Hành rồi, ta bèn từ Sơn Đông tìm đường trở về. Oanh Nhi, bách tính ở nói đó sống rất yên ổn. Dương Lăng cho vận chuyển một lượng lớn lương thực tới đó, rồi lại chuyển tới một bộ phận nạn dân đến Liêu Đông sinh sống. Cuộc sống của người dân nơi đó bây giờ yên bình hơn rất nhiều. Dọc đường đi ta đã chứng kiến thấy rất nhiều điều. Ta cảm thấy Đại Minh chưa biết chừng quả thật đã có thể trở nên thái bình rồi.

- Vâng!

Hồng Nương Tử liên tục gật đầu tán đồng. Đôi mắt của nàng sáng rực lên, Dương Lăng trong lòng Oanh Nhi ắt hẳn là một vị anh hùng toàn năng. Một người phụ nữ có giỏi giang đến cỡ nào đi chăng nữa thì cũng đều mong mỏi người đàn ông của mình là một vị đại anh hùng được tất cả mọi người ngưỡng mộ. Hồng Nương Tử há chẳng phải cũng nằm trong số đó.

Tình yêu nam nữ tuy chẳng phải là tất cả trong cuộc sống của một người, nhưng ít nhất nó cũng chiếm lấy một bộ phận quan trọng nhất trong cuộc sống của họ. Đặc biệt là đối với một người phụ nữ đã phải kìm nén tình cảm trong thời gian dài hoặc chưa từng bao giờ được nếm trải những dự vị ngọt ngào của tình yêu thì quả thật điều đó càng chính xác hơn bao giờ hết.

Những người trong Huyền Môn Tu Chân muốn đắc đạo thành tiên, bọn họ chỉ một lòng tu luyên đan dược, kết quả là Hợp Hoan Tán chính là phát minh cao đạo nhất của bọn họ; tăng lữ từ bỏ thất tình lục dục tu thành chính quả, nhưng kỹ thuật phòng the nổi tiếng nhất, Hoan Hỉ Thiền cũng xuất phát từ những tăng nhân. Dục vọng và tình cảm càng bị đè nén thì chỉ cần được phóng thích nó sẽ trở nên vô vùng mãnh liệt hơn bao giờ hết.

Hồng Nương Tử vướng bận vào thứ tình cảm ái tình đó khiến cho tâm tư lúc này ngọt ngào hơn bao giờ hết, khiến cho trong đầu nàng chỉ có duy nhất một hình bóng của Dương Lăng. Từng câu nói nụ cười của hắn đều hoàn toàn không giống với đám đàn ông trong sơn trại mà từ nhỏ nàng đã nhìn thấy, cách hắn suy tính sự việc lại càng khiến cho Hồng Nương Tử bái phục si mê.

Những gì mà lão Trình kể lại đều được Hồng Nương Tử coi tất cả đó là công lao của Dương Lăng. Nàng vui mừng khôn xiết, mặt ửng đỏ cả lên. Trình Lão Thực nhìn thấy bộ dạng đó của Hồng Nương Tử thì không còn muốn thốt ra những gì vừa mới định nói ra nữa, lão ta lặng lẽ quay đầu qua một bên khẽ thở dài.

Lão ta đã biết bí mật là chính Dương Hổ đã giết chết nghĩa đệ của mình, ban nãy khi truy hỏi sự việc kết liên minh với Dương Lăng, Thôi Oanh Nhi đã trần thuật lại toàn bộ sự việc cho Nhị thúc, người đã chứng kiến nàng trưởng thành như thế nào, đồng thời cũng là người yêu thương nàng nhất. Trình Lão Thực đã hoàn toàn nắm được sự tình. Nhìn bộ dạng lúc này của Oanh Nhi thì rõ ràng nó đã trao trọn trái tim cho tên Dương Lăng đó rồi. Hiếm thấy có lúc Oanh Nhi vui mừng đến như vậy, Trình Lão Thực đâu đành lòng làm mất hứng của nàng.

Nhưng Dương Lăng là ai chứ? Người ta xuất thân là thư sinh đọc sách thánh hiền nay lại là Quốc công gia. Oanh Nhi cho dù có chưa từng được gả cho ai đi chăng nữa thì chỉ riêng việc nàng là một nữ hiệp giang hồ không biết chữ thì có làm thiếp của hắn thôi cũng còn cảm thấy không xứng. Hơn nữa Oanh Nhi đã từng được gả cho Dương Hổ, lại còn là sơn tặc. Dương Lăng sau này liệu có đối xử tốt với nàng hay không? Chỉ tính riêng mệnh phụ phu nhân thôi thì Dương Lăng đã có đến ba người rồi. Lòng tự tôn của Oanh Nhi lại cao như vậy, nếu phải chịu cảnh cả ngày bị người khác bắt nạt, đề phòng người khác...

Nghĩ tớ đó thôi thì Trình Lão Thực đã cảm thấy nhói lòng, quả thực có chút buồn bực. Thôi Oanh Nhi cũng cảm thấy lão ta có chút gì đó khác thường, nàng đang định mở miệng hỏi thăm thì bỗng có một tên cận binh phi tới, từ đằng xa chắp tay bẩm báo:

- Bẩm báo đại tiểu thư, Trình nhị gia, có một lão đạo xông vào núi cầu kiến.