Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên

Chương 5: Phong tình cổ trấn



Có lẽ chúng ta đều lànhững người tin vào tiền duyên, cho nên, thân sống giữa phồn hoa, vẫnkhông quên kiếm tìm những tháng ngày xưa cũ đó. Chuyện xưa trôi qua nhưmây khói tản mát, giữa bóng đêm của năm tháng âm thầm đổi thay, vừa bannãy vẫn còn phong trần cuộn sóng, bây giờ đã không còn lại dấu vết gì.Năm tháng không biết đã đổi dung nhan bao lần, chỉ có cổ trấn là vẫn giữ lời thề ước năm xưa, không dám thay đổi dáng vẻ ban đầu. Tường việnxanh rêu âm ẩm, ngõ nhỏ sâu dài hun hút, lầu gỗ cổ kính, hành lang quanh co, sân khấu loang lổ, tuy đã phủ đầy bụi bặm của dĩ vãng, nhưng vẫn là mối tâm tình trong giấc mộng. Đẩy cánh cửa bị thời gian khép hờ, nhữngtình cảm cảnh cũ người xưa còn lưu giữ nơi cổ trấn đó, vẫn bình yên êm ả như thế…

Tây Đường như mộng

Cho dù là người đã từng haychưa từng đến Tây Đường đều sẽ cảm thấy, Tây Đường là một giấc mộng, một giấc mộng thuộc về Giang Nam. Nó nên thơ cổ kính, thuần phác tĩnh lặng, đã từng bị người đời quên lãng, đến nay lại được người ta tìm kiếm. Tôi luôn cho rằng những người đến Tây Đường là những người không từ bỏ được quá khứ hữu tình. Bởi vì mỗi phong cảnh nơi đây đều có thể dễ dàng, nhẹ nhàng lay động sự mềm yếu trong bạn. Giữa phong cảnh sự vật yên tĩnhcủa Tây Đường, có thể mơ một giấc mơ dài, khi tỉnh lại, cũng sẽ có những tháng ngày không lưu giữ được.

Trước khi đến Tây Đường, tôi cũng chỉ là một khách bộ hành ngẫu nhiên, mà không biết rằng từ ngàn nămtrước đó, mình đã từng có duyên phận với nó. Thời Xuân Thu, Ngũ Tử Tưcủa nước Ngô đã khơi thông thủy lợi, vận hành chuyển muối, khai vét NgũTử đường, dẫn nước từ phía Bắc núi Tư chảy về trong vùng, vì thế từ đóTây Đường cũng được gọi là Tư Đường. Cũng chính là một chữ “Tư” này,khiến tôi cho rằng, mình và Tây Đường có nhân quả định mệnh[1]. Cho dùchỉ là cảm xúc đơn phương, nhưng vì trong lòng chất chứa cảm xúc này,nên trước mỗi cảnh mỗi vật ở Tây Đường, tôi đều không kìm được xiết baolưu luyến.

[1] Tác giả Bạch Lạc Mai tên thật là Tư Trí Tuệ.

Tháng năm yên tĩnh, khe khẽ dập dềnh giữa sóng nước. Dưới ngói xanh tườngxám, dường như chớp mắt đã có thể nhìn thấy lịch sử xa xăm của TâyĐường. Thực ra Tây Đường không có một chiều dài lịch sử lớn lao thâmtrầm, cũng không có nhiều nhân vật hô mưa gọi gió. Năm tháng cũng nhưdòng sông nơi đây, cứ từ từ chảy miết, không có sóng to gió lớn hãihùng, chỉ bình dị yên ổn. Tòa cổ trấn ngàn năm này, từ khi bắt đầu đã có dáng vẻ cổ kính, đơn sơ như thế. Ung dung bước qua bốn mùa thay đổi,ung dung nhìn hợp hợp tan tan của đời người, cũng ung dung tiếp nhậnnhững khách qua đường vãng lai và những tình cảm khác nhau mà họ đemtới.

Tây Đường ven sông, tựa như luôn có một làn sương mỏng nhưlụa bao bọc, chỉ cần như vậy đã có thể làm nổi bật được phong vận củamiền sông nước Giang Nam. Nước chảy reo ca, khỏa chèo nhẩm hát, nhữngnhà dân cổ kính hai bên bờ là cảnh tượng nguyên sơ mà chân thực của tiểu trấn. Biết bao năm, con người nơi đây cũng đã kinh qua bao lần đổithay, chỉ là lại thêm một lần luân hồi, chứ không thể làm thay đổi ký ức xanh thẳm đó. Dưới bầu trời bao la, không nhìn thấy được lầu cao thànhthị, chỉ có những ngôi nhà cũ điểm tô năm qua năm tới kể lại những câuchuyện na ná như nhau.

Lầu gỗ đơn sơ có mấy cánh cửa trên máihiên đang hé mở, khiến tôi quên hết mệt mỏi của chuyến đi, thậm chí còntự tưởng tượng rằng, có một cánh cửa đã mở vì mình, có một người đangđợi mình. Mà tôi không biết phong cảnh Tây Đường xưa nay không dễ dàngbị người ta làm kinh động. Đây là miền sông nước trong mộng của rấtnhiều người, bạn có thể cảm nhận được hơi thở của nó từ rất xa, nhưngchẳng mấy người có thể lưu lại mãi mãi. Chỉ là có được trong khoảnhkhắc, để đổi lấy nhớ nhung một đời, Tây Đường cũng không phụ lòng bất cứ người nào đi ngang qua cuộc đời nó.

Những người đã từng đến TâyĐường nhất định sẽ không quên hành lang nghìn mét dài hun hút đó. ỞGiang Nam, những hành lang ven nước này đâu đâu cũng thấy, nhưng chỉ cóhành lang ở Tây Đường mới khiến bạn cả đời khó quên. Bởi vì độ dài ấynhư thể đi đến tận kiếp sau mới hết. Bạn có thể thoải mái mơ một giấc mơ ở nơi này, không cần lo lắng bị bất cứ cảnh tượng hiện thực nào đánhthức. Chỉ lắng lòng cảm nhận ngọn gió đang quét qua hành lang dài, lướtqua làm đáy lòng se se lạnh, mà bức tranh Giang Nam, câu chuyện đờingười, cứ thế từ từ mở ra.

Có người nói với tôi, con phố dài dằng dặc này có những ngọn nguồn tươi đẹp. Mà tôi lại không muốn biết cănnguyên của những chuyện xưa đó, chỉ muốn bình an có được cuộc gặp gỡ này – cuộc gặp gỡ với Tây Đường trên hành lang sinh mệnh. Sau khi quayngười, dù nó sẽ lãng quên tôi, tôi cũng sẽ hết sức trân trọng mối lưuluyến chẳng thể cắt rời này.

Tôi như một khách qua đường, đến bến đò Tây Đường, tôi đợi một chiếc thuyền, sắp xếp cuộc gặp gỡ trong cuộcđời. Ngay khoảnh khắc tương phùng này đã dự kiến một màn ly biệt, chỉ là cuộc đời của mỗi con người, đều vì quá trình này mà hối hả đuổi theo.Trong nhân quả đã định, không ai còn mải mê tính toán được mất. Xuôitheo dòng nước, thử quên đi hành lý nặng nề trên vai, giữa dòng chảy cứgặp đâu vui đấy. Cây cầu cổ ở Tây Đường giống như một cây cổ cầm bắcngang sông nước, cùng một dây đàn nhưng mỗi người lại có thể gảy nêntiếng nhạc và thanh điệu khác nhau.

Ký ức liên quan đến những cây cầu luôn khiến người ta nhớ đến bài “Đoạn chương” của thi nhân Biện Chi Lâm: “Em đứng trên cầu ngắm phong cảnh. Người ngắm phong cảnh trên lầungắm em. Trăng sáng tô điểm khung cửa của em. Em tô điểm cho giấc mộngngười khác.” Còn tôi luôn cho rằng, người đứng trên cầu chưa chắc biếtmình đã trở thành phong cảnh của người khác, người ngồi trên thuyền,cũng không biết anh ta đã tô điểm cho giấc mộng của kẻ nào!

Kỳthực, cuộc tương phùng xa lạ giữa người và người, đa phần chỉ là lướtqua nhau, cái họ có thể ghi nhớ là cây cầu kinh qua ngàn năm không đổi,chứ không phải là phong cảnh nơi họ đã dạo chân qua. Lại có lẽ, đa tìnhchỉ là những vị khách qua đường, vì mỗi cây cầu hàng ngày đưa tiễn biếtbao vị khách, chúng chẳng có lòng nào lưu ý đến những phù hoa đó. Nướcchảy róc rách chẳng ngừng, chở tôi đi về bờ bên kia, chỉ có cây cầu TâyĐường và những mái nhà miền sông nước lẳng lặng nhìn nhau mãi chẳng muộn phiền.

Ở Tây Đường, còn một nơi có thể cất giữ linh hồn, đó làThạch Bì lộng[2] được mệnh danh là “Giang Nam đệ nhất lộng[3]”. Trongmột góc nhỏ khuất tầm mắt, viết ba chữ giản dị “Thạch Bì lộng”. Một ngõnhỏ cũ kỹ chật hẹp, giống như một chuyện cũ lạc trong góc khuất của thời gian, giữa ẩn ẩn hiện hiện, tựa như không có điểm tận cùng. Người đếnTây Đường đều sẽ không từ bỏ cuộc tương phùng này, cho dù Thạch Bì lộngxưa nay chưa từng dành cho bất cứ người nào một lời hứa dù là giản đơn.Nhưng sự chất phác mang theo vẻ thần bí lại khiến người ta có thể thấyđược quá khứ chân thực.

[2] Thạch Bì lộng: Là một ngõ nhỏ hìnhthành giữa hai phủ đệ của con cháu Vương gia, được lát bằng 168 viên đá, dài 68 mét, rộng 0,8 mét.

[3] Lộng, lộng đường tức là ngõ, ngách.

Những bức tường cũ kỹ ghi đầy dấu vết tháng năm bị thời gian đẽo từng mảng,từng mảng một. Những ký ức rơi rụng này đã gom góp lại những lênh đênhsông nước tự cổ chí kim. Trên con đường lát đá mỏng, bước chân một sốngười âm thầm lại gần, bước chân một số người đã vội vã đi xa, chỉ cóthời gian trầm mặc là còn lưu lại nơi đây, chưa từng hỏi nhân quả.

Theo dòng suy tư mênh mang, hoàng hôn càng lúc càng xa, Tây Đường mới thấpthoáng đèn hoa lại mang một vẻ đẹp khác. Hành lang dài ven sông treo một hàng đèn lồng đỏ, ánh đèn dịu mắt tựa như tơ lụa Giang Nam, mang theobiết bao đa tình và thương mến. Đêm Tây Đường rất tĩnh lặng, tĩnh lặngđến mức có thể nhìn thấy chiếc bóng trong giọt nước đậu trên hai bờ ngói xanh. Đêm Tây Đường, dưới ánh đèn mờ tối có một vẻ hoa lệ không thể che mờ.

Sân khấu nổi trên mặt nước là khung cảnh sinh động nhấttrong màn đêm Tây Đường. Hý khúc Giang Nam truyền thống, khẽ hát tiếngNgô uyển chuyển[4], tựa như một ly rượu nhàn nhạt dưới trăng thanh giómát, chuốc say cả người trên, kẻ dưới sân khấu. Biết bao tháng năm đã bị sông nước nồng hậu nơi đây tưới ướt đẫm, mà họ cam tâm tình nguyện nhảy xuống nỗi ưu thương của nước, chỉ vì một nỗi xúc động dịu dàng trongtim. Mỗi người đều chất chứa trong mình một tình cảm tinh tế mà đẹp đẽ,trong phàm trần khói lửa, họ không dễ dàng bộc lộ bản thân. Là Tây Đường đã khiến họ dũng cảm bộc bạch, hơn nữa trong cuộc đời đầy gò bó, có thể có được niềm vui không thể nào quên như thế.

[4] Nguyên văn “Ngô nông nhuyễn ngữ”, tức chỉ giọng địa phương vùng Giang Nam ngữ điệu uyển chuyển dễ nghe.

Ở một quán trà nào đó của Tây Đường, gọi một bình trà, lặng lẽ nhìn người đi qua lại, giữa hơi nước mờ mịt, lòng người bình thản hiền hòa. Tôiđem tất cả ký ức về Tây Đường ngâm trong bình trà này, đến khi trà nhạt, tôi liền rời đi. Hai bên chưa từng hứa hẹn, cho nên cũng không cần lưulại dấu tích vấn vương. Ở Tây Đường, tôi chỉ là một hạt bụi bay quatháng năm như nước chảy, có lẽ quay người, nó sẽ quên mất tôi là ai.Nhưng tôi, trước sau sẽ lưu lại đôi mắt tâm hồn, cố giữ vẻ đẹp cổ kínhcủa nó.

Tây Đường đẹp như một giấc mộng, nhưng thực sự không phải là mộng. Có lẽ vào một ngày nào đó của nhiều năm sau, tôi sẽ đội gióvượt mưa trở về, hai bên đều đã nhạt nhoà dung nhan theo năm tháng,nhưng nó vẫn là nó, tôi vẫn là tôi.

Vụ Nguyên sắc màu

Nhiều khi chúng ta có thể đến một nơi mà không cần bất cứ lý do nào. Sau khiđến hãy nguyện tin vào cái gọi là duyên phận. Như thế có thể dễ dàngvượt qua lịch sử xuân thu, ngắm nhìn phong cảnh đủ khiến bạn cả đờinhung nhớ. Vụ Nguyên được mệnh danh là “làng quê đẹp nhất Trung Quốc”,khoảnh khắc tương phùng, tôi và bạn rũ bỏ lớp áo hoa lệ của thành thị,sóng bước cùng cuộc sống chất phác nơi này. Cho dù rất nhiều người vừagặp đã say Vụ Nguyên, nhưng không ai nghĩ phải cùng nó định lời thề ướcnào đó, mà chỉ muốn dừng chân lại chốn non nước bình lặng này, cảm ơncuộc gặp gỡ ấm áp, cùng chung hạnh phúc bình dị.

Giữa thẳm sâumây trắng, những thôn làng tường trắng ngói đen đó nằm hiền hòa giữanhững ngọn núi, yên ả tĩnh lặng biết bao, không đua tranh với đời. Nhưmột bức tranh thủy mặc đã định hình, khói mây trong tranh sẽ không tanbiến, thời gian trong tranh sẽ không lưu chuyển. Mà những người mếntiếng xưa nay sẽ không kìm được suy ngẫm, ở một nơi cách xa tiếng ngựaxe huyên náo này, có phải cũng ẩn chứa những câu chuyện bình dị nhấtnhân gian? Vậy mà, chính ở nơi không vướng bụi trần này lại chứa đựngnhiều mây khói đời thường, cất giữ nhiều dân tình chất phác, cũng là nơi bậc đại Nho như Chu Hy đời Tống cư trú.

Từ xưa tới nay, vì sựyên ổn này, biết bao tao nhân mặc khách đã cam tâm tình nguyện vứt bỏdanh lợi, rời xa đô thành, cưỡi một chú ngựa còm, ẩn cư điền viên. Giữcánh cửa đơn sơ, sửa mấy cành rào giậu, ngắm đôi hàng đào mận đua sắcđơm bông. Hoặc ngồi im lặng dưới ánh mặt trời, pha một bình trà nhạt,nghe chim én trên xà nhà lách chách gọi nhau. Hoặc là trồng sen giữaruộng, dắt một chú bò vàng, tha thẩn ngắm ráng chiều nơi chân trời. Sựyên bình của thôn xóm là an bài của thượng đế, tựa như một cái cây, mộtviên ngói xanh, một con kiến nhỏ, đều có số mệnh kỳ diệu của nó.

Nhất là mỗi độ tháng Tư, đầu thôn Vụ Nguyên tràn ngập sắc hoa cải dầu vàngrực. Những cành hoa nở bung, không hề giấu giếm giữa ngày xuân, khôngkhiếp sợ thiều hoa[5] ngắn ngủi, đem sinh mệnh giao cho ánh nắng mùaxuân đơn sơ giữa thôn xóm. Mỗi vị khách từ xa đến đều phải vòng qua biển hoa thơm ngát này mới có thể vào được thôn trang trong mộng.

[5] Thiều hoa, hay thiều quang chỉ ngày xuân, mùa xuân.

Rất nhiều thân long não cổ thụ mọc thẳng tắp ở đầu thôn và cạnh tường sân,có lẽ chúng có thể quên đi tuổi đời của mình, nhưng lại không thể quênđược mỗi cuộc gặp gỡ giữa khách qua đường với Vụ Nguyên, không thể quênđược mỗi một câu chuyện như câu chuyện cũ bình hoa mai và cơn gió mát.Con đường dịch[6] lát đá xanh, biết bao người đã đi lướt qua nhau, aicũng không thể nhớ nổi dung nhan của ai. Chỉ đứng giữa khói lửa của thếtục, để ngày tháng trôi qua nhàn nhạt như trà trong. Mùa ẩm ướt, giữakhe hở của đá mọc xanh rêu, tựa như cố ý cất giữ những phần không nênđánh mất. Có những tảng đá khắc chữ, giữ lại năm tháng mênh mông vô bờcủa thôn trang, lặng lẽ kể lại chuyện trước đây của mưa gió Vụ Nguyên.

[6] Đường dịch: Đường chuyển công văn, thư ngày xưa.

Thôn xóm Vụ Nguyên có thế đội sơn đạp thủy, trước thôn hầu hết đều là nhữngbến nước cổ. Bến nước bị cổ thụ, trúc xanh che khuất, toát lên sự tĩnhlặng và trầm mặc của tháng năm, nhưng không một ai ghi nhớ nổi lịch sửcủa chúng. Chỉ là năm này qua năm khác, chúng vẫn đậu lại nơi đầu thôntrang, bình thản mà trầm mặc ngắm nhìn khách đến khách đi. Nước sông vẫn trong vắt như xưa, y như con người Vụ Nguyên, ngày tháng giản đơn, sóng gió chẳng kinh sợ. Những chiếc bè tre đậu ngay ngắn, những chiếc ghếtre đơn sơ, những người lái đò đầu đội mũ rơm, dùng một cây sào dàichống xuống nước sông xanh biêng biếc, giữa dòng chảy khói mây bao phủđi tìm một bến đò. Những cô gái hái chè lưng đeo gùi tre, hát vang mấykhúc sơn ca, trên cổ tay đeo những chiếc vòng bạc mà bà nội để lại, vẻđẹp độc đáo của chúng bồng bềnh dưới ánh mặt trời.

Người trongthôn trang chèo bè tre đi lao động, đi họp chợ, giản dị đi ra ngoài, lại giản dị quay về. Nhưng sơn trang mộc mạc này không thay đổi dáng vẻ ban đầu, mấy mẫu ruộng ao, mấy thửa hoa màu, mấy ô giếng cổ, mấy gian nhàcũ, mấy làn khói bếp, tựa như một cuốn sách cổ ngàn năm, gió thổi khôdấu mực, gửi lại cho người đời sau tìm đọc. Bến nước không phải là nơiđịnh mệnh ép con người ta phải quay về, mà chỉ là trạm nghỉ của linhhồn, cho dù tôi hay bạn đi qua mấy chặng sông nước, nó vẫn im hơi lặngtiếng.

Cầu mái ngói[7] ván gỗ cũng là một phong cảnh không thểthiếu ở Vụ Nguyên, biết bao năm tháng, nó dùng chiếc xà chiếc cột đã già nua của mình vắt ngang giữa non xanh nước biếc, không oán không hận.Nói đến cầu mái ngói, không thể quên được giấc mộng xưa trên cầu máingói ấy, thứ mà cầu mái ngói Vụ Nguyên cất giữ chính là giấc mộng bìnhthường giản dị của người Vụ Nguyên. Cầu mái ngói gửi gắm những tâmnguyện tốt đẹp của họ, cho nên mỗi một cây cầu đều có một cái tên đẹp.“Lưỡng thủy giáp minh kính, song kiều lạc thái hồng” (Hai dòng nước sáng gương soi. Cầu cây mống đỏ rực ngời trên sông[8]) là hai câu thơ nóiđến cầu Thái Hồng (cầu Cầu Vồng) của trấn Thanh Hoa, cây cầu được tônvinh là “Cầu mái ngói đẹp nhất Trung Quốc”.

[7] Một loại cầu có mái ở trên để che chắn, bảo vệ thân cầu, là chỗ nghỉ ngơi, gặp gỡ của khách bộ hành.

[8] Hai câu thơ trong bài “Thu đăng Tuyên Thanh Tạ Dữu bắc lâu” của Lý Bạch (đời Đường), bản dịch Nhã Uyên.

Cầu mái ngói thân bằng gỗ, tạo hình tuyệt đẹp, phong cách cổ xưa mộc mạc,dài tít tắp như khiến người ta nhìn thấy thời Nam Tống xa xôi. Lịch sửtám trăm năm, vô số người đã dừng chân nghỉ ngơi ở đây, xây đắp nênnhững câu chuyện. Mưa gió tám trăm năm, từ kiếp trước đến đời này, cầuThái Hồng vẫn như năm nào, trấn tĩnh bình thản, chỉ già nua đi đôi chút. Ngồi nghỉ ngơi trên cầu, ngắm nhìn thôn xóm trong tranh, non xanh nướcbiếc. Một bè gỗ lững lờ trôi qua, bám vào đời người, cứ như thế, khônghỏi đường về, không nói trở lại.

Chính ở miền quê đẹp nhất này,còn lưu giữ những kiến trúc Huy phái mộc mạc, trang nhã. Tường trắngngói đen, mái cong góc lượn, nhà ở Vụ Nguyên đều có chung một bố cụcnày, tọa lạc trong sơn thôn sâu thẳm, đời đời nối truyền. Giống như mộttòa nhà cổ bị năm tháng bỏ quên, thu hút vô số người đến gõ cánh cửanặng nề nơi đình viện sâu hun hút, xem lại một quãng chuyện cũ của VụNguyên. Điêu khắc gỗ, điêu khắc đá tinh xảo, những hiên cửa sổ chạm trổhoa, tuy kinh qua xuân thu năm tháng, nhưng vẫn giữ được hoàn chỉnh vẹntoàn. Trên cửa còn treo chiếc gương đồng kiểu cũ, trên mặt bàn bày những bình hoa sứ men xanh, còn có chiếc đồng hồ quả lắc đang gõ nhịp, cho dù thời gian trôi qua bao lâu, chúng đều trầm tĩnh như thuở ban đầu.

Người dân trong núi thuần phác, sống cuộc đời bình thường nhất trong nhữngngôi nhà giản đơn. Muối một vại dưa chua, ủ vài vò rượu gạo, phơi mấycân trà xuân, trong nhà mùi cơm thơm ngát, mùi thơm ngậy của thịt sănbốc lên. Tháng năm trôi qua như bóng câu, đời người như một vở kịch trên sân khấu cũ kỹ, từ khi bắt đầu đến khi hạ màn, có viên mãn và cũng cónuối tiếc. Vụ Nguyên, là nơi trú ngụ của sinh mệnh, chốn về của linhhồn, dù số phận an bài thế nào, họ cũng cam tâm tình nguyện chìm sâu ởđó, cả đời không hối hận.

Đi xuyên qua ngõ phố quanh co tĩnhmịch, không hẹn mà gặp một tòa từ đường nào đó. Ở Vụ Nguyên, từ đường là một bức tranh cổ phơi giữa thôn trang, toát lên mùi thơm nồng của lịchsử. Từ đường cũng là gốc rễ của người Vụ Nguyên, cho dù họ có đi đến đâu cũng biết, có một nơi đại diện cho nguồn cội của mình là từ đường ở cốhương, hết năm này qua tháng khác đang đợi chờ họ. Từ đường đối vớinhững thương nhân Huy Châu xa quê đi làm ăn là một mảnh trăng sáng, treo ở nơi hút mắt nhất trong trái tim, khẽ chạm vào nó, liền cảm động đếnmức lập tức rớt nước mắt.

Thôn Uông Khẩu có một tòa từ đường củahọ Du, được mệnh danh là “Nghệ thuật điện đường”, được dựng từ giữanhững năm Càn Long thời Thanh với khí thế hùng vĩ, kỹ thuật tinh xảo, bố cục hoàn mỹ và phong cách độc đáo, đã làm rung động tâm hồn của ngànvạn người ghé thăm. Môn lầu, xà cột, góc hiên đều dùng thủ pháp nông sâu đậm nhạt, hư thực tương ứng, điêu khắc những hình vẽ tinh xảo như longphượng kỳ lân, nhân vật truyện kịch, chim bay thú chạy, hoa nở cỏ thơm…Từ đường nơi đây không chỉ là gốc rễ của người dân Vụ Nguyên, mà cònlắng kết văn hóa phong tục tập quán thâm hậu của chốn này. Đi xa tới tận chân trời, cuối cùng sẽ có một ngày phải quay về làng cũ, về từ đường,tưởng nhớ đức độ cha ông, ca ngợi công lao tổ tông.

Ở miền quêđẹp nhất Trung Quốc này có rất nhiều khung cảnh khiến người ta lưuluyến. Có thể chọn đến thác cao đệ nhất Hoa Hạ – thác Đại Chướng Sơn, để dòng chảy trong vắt xả trôi, tẩy rửa chút phù hoa cuối cùng trong tâmtưởng. Cũng có thể đến hồ Uyên Ương lớn nhất thế giới, ngắm uyên ươngthành đôi thành cặp đang quấn quýt đùa vui giữa đồng xanh bèo nước, dùng tháng năm đổi lấy nét dịu dàng. Còn có thể ở vườn nhà trò chuyện vớiđại nhạn, ngậm làn khói bếp của thôn xóm, nằm mộng mà bay.

Thôntrang có tên gọi “làng sách”, “làng trà” này, giống như một thân cổ thụ, năm này qua năm khác, dùng mãi một tư thế để đợi chờ ở đây. Chẳng ai để ý đến tuổi tác của nó, cũng không so đo sao nó mãi không thay đổi,người đến đây đều nguyện ý trao bản thân cho ánh sáng giản dị nơi này.

Giống như đã từng nhuộm mây trắng gió lành của Vụ Nguyên, cho dù đời ngườitrăm ngàn hồi chuyển cũng không thể xóa được đoạn duyên phận này. Vậythì, rời đi trước khi trà nguội, cắt một chút ký ức ấm áp khôn xiết bỏvào hành lý, hoặc là mua một nghiên mực cổ hình vuông đem về, vào mộtngày hoài niệm chuyện cũ nào đó, viết nên câu chuyện sắc màu Vụ Nguyên.Non nước nhàn nhạt sắc màu, trong những nét chấm phá vẽ thôn trang, cómột bóng hình, đó là chính chúng ta.