My Beloved

Chương 40



Tu viện thánh nhân từ là một nơi ảm đạm, Jerard nghĩ. Nhưng những khối đá màu xám của nó sinh động hơn nhờ màu xanh non của cỏ cây mọc xung quanh, thậm chí dù đã vào cuối năm. Lần đầu tiên đến đây, anh ta đã trông thấy những khu vườn xanh tốt phía bên trong cách cổng sắt cao ngất. Anh ta đã được cử đến tu viện để hỏi xem có cách nào giúp hai bàn tay của phu nhân Juliana bớt đau đớn và sơ Agnes đã nhận nhiệm vụ. Bà sơ là một người đồng hành kì lạ. Bất chấp sự gấp rút của chuyến đi, bà sơ cứ liên tục bình phẩm về mọi loại cây, bụi cỏ hay giống thực vật và các tác dụng chữa bệnh của chúng, và về sự khác biệt giữa tu viện và Langlinais.

Anh ta giờ đứng trước cổng, chờ bà tu viện trưởng đến. Anh ta chăm chú nhìn những khu vườn, không rực rỡ với những loại hoa nở rộ như lần trước song vẫn được chăm sóc cẩn thận như thể nó đang chờ đợi đến mùa đông một cách kiên nhẫn.

Một tiếng chuông vang lên, những tiếng chân đi dép có quai lạo xạo bước qua khu hành lang đến nơi làm lễ. Một giờ đã trôi qua. Nhưng anh ta vẫn phải đợi.

Cuối cùng, bà tu viện trưởng cũng xuất hiện, bóng dáng gầy gò của bà chứng thực cho sự thiếu thốn thực phẩm ở tu viện lẫn phương pháp rèn luyện quy củ của bà.

Bà sơ chào đón anh ta với sự dè dặt cho đến khi nhận ra anh ta. rồi, những đường nét trên mặt bà sắc lại vì lo lắng. “Juliana? Cô ấy có khỏe không?”

“Thưa sơ trưởng, phu nhân rất khoẻ.”

“Còn hai bàn tay cô ấy thì sao rồi?”

“Chúng đã bình phục. Phu nhân đang luyện tập viết lách mỗi ngày. Tôi nghĩ, cô ấy vẫn gặp chút khó khăn, nhưng cô ấy không hề e ngại.”

“Cô ấy là một cô gái bướng bỉnh.” Bà sơ nói, mỉm cười. “Nói với ta, cô ấy có thấy hạnh phúc khi ở Langlinais không?”

“Có chứ.” Anh ta nói đơn giản.

Phu nhân Juliana lúc nào cũng luôn miệng ngân nga và cười tươi tắn. Đôi lúc, trong khi đi dạo qua thung lũng, nàng sẽ nhảy nhót một lúc, nâng váy lên và nhảy chân sáo không khác gì một đứa trẻ. Và lãnh chúa của anh ta nữa. Jerard mỉm cười, cúi xuống nhấc cái rương mà anh ta đã đặt một cách cung kính trên mặt đất lên. Sebastian thì như một cậu trai, vểnh tai lên lắng nghe đầy khao khát và yêu thuơng.

Có một lỗ hổng hình vuông trên tấm phên sắt của cánh cổng. Thông qua đó anh ta chuyển cái rương cho bà tu viện trưởng. “có một lá thư trong đó sẽ giải thích mọi điều, thưa sơ trưởng. Nếu sơ không phiền, tôi xin phép được ra ngồi đợi đằng kia.” Anh ta chỉ về phía một cái cây toả bóng râm.

Bà sơ gật đầu, nhăn mày, sự chú ý của bà không dồn vào anh ta mà vào chiếc rương.

Anh ta đi về phía cái cây và ngồi bên dưới nó, co một chân lên. Vùng đất này được phác thảo thành những ngọn đồi trùng điệp và những khu thung lũng nông, nhưng anh ta gần như vẫn có thể trông thấy Langlinais.

Gertrude đặt chiếc rương lên cái bàn trong căn phòng nhỏ của bà. Bà là một người có tính hiếu kì, một cảm xúc mà bà luôn trải nghiệm hằng ngày. Có quá nhiều thứ trên thế giới không chỉ để xem cho vui, thậm chí nếu chỉ là tại sao những con ong lại chỉ bị hấp dẫn bởi một loại hoa nhất định hơn so với các loại khác. Bà cảm thấy cũng tương tự như thế lúc này khi bà mở nắp của cái rương gỗ giản dị và rút lá thư ra. Bà để nắp rương khép hờ lại, giờ để tâm đến bức thư từ Lãnh chúa của vùng Langlinais hơn là thứ đựng trong rương. Bà lướt qua lá thư của chàng thật nhanh. Sau một vài câu thể hiện hi vọng của chàng rằng bà vẫn khoẻ và chúc tu viện thịnh vượng, chàng tiếp tục. Câu tiếp theo của chàng khiến bà mỉm cười, và bà thề sẽ giúp đỡ chàng hết sức có thể. Tuy nhiên, sự thích thú của bà không được chuẩn bị cho phần thân lá thư.

Tôi vừa tìm được những vật trong rương, và mặc dù vẫn còn nhiều nghi vấn về giá trị đích thực của chúng, tôi tin chúng là thật. Giữ chúng tại Langlinais và che dấu chúng khỏi thế giới sẽ một việc làm kiêu ngạo. Juliana thường đề cập đến sơ với lòng yêu mến và bản thân tôi đã chứng kiến tâm hồn rộng lượng của sơ khi cử sơ Agnes tới giúp chúng tôi. Vì vậy, tôi tin rằng không có người nào xứng đáng hơn để gửi gắm những vật thiêng liêng này. Sẽ có những kẻ sẵn sàng lợi dụng những thứ giờ đang nằm trong tay sơ để đạt được quyền lực hơn là để củng cố lòng trunh thành. Vì lí do đó, tôi xin nhờ sơ đừng nhắc đến Langlinais trong bất cứ thư từ nào dính dáng đến những vấn đề này, và xin sơ đừng đề cập đến việc làm cách nào sơ có được tấm vải niệm và những mảnh của cây thánh giá sự thật.

Gertrude đặt lá thư sang bên và đưa hai bàn tay run run vào trong rương. Bà đứng đó nhìn chằm chằm vào tấm vải nằm bên dưới những ngón ta trong một lúc lâu. Bà không thể nghĩ được gì, những ý nghĩ đã bị chôn vùi dưới sự kính cẩn lẫn lo sợ.

Thực vậy, ngài lãnh chúa của Langlinais đã nói đúng. Bên dưới hai bàn tay bà là những thứ chứa đựng quyền lực lớn lao nhất, mà đến các vị vua và các giám mục cũng mong ước và thèm muốn. Song, cũng có tiềm năng dùng vào việc tốt trong chiếc rương, bênh vực cho đức tin, xây đắp cho lòng trung thành. Tu viện thánh nhân từ dường như là một nơi quá nhỏ nhoi và khiêm tốn cho những thứ như thế này. Những thánh tích này thuộc về thế giới. Nhưng ai sẽ bảo vệ và cất giữ chúng một cách thiêng liêng vì mục đích cao cả của toàn nhân loại?

Bà đóng rương lại một cách kính cẩn, rồi mang nó đến thánh đường. Nó sẽ được đặt ở đó cho đến khi bà có đủ thời gian để nghĩ cho thấu đáo. Có lẽ bà sẽ nhận được vài lời khuyên từ các vị thánh như nên gửi những thánh tích này đến đâu? hoặc có lẽ chúng nên lưu lại đây, trong một tu viện nhỏ bé của những người phụ nữ cống hiến hết mình cho những việc làm nhân đạo và những nhiệm vụ mang lại niềm vui. Chỉ có thời gian mới trả lời được.

Một giờ sau, một cô gái vận một chiếc áo choàng dành cho người mới tu mang đến cho Jerard một cái tráp lớn. Cô ta cũng đưa ra một gói đồ nhỏ bọc kín. “Thức ăn cho chuyến đi của ngài, thưa ngài. Và rượu nữa, phòng khi ngài thấy khát.”

Anh ta nhận cả hai, cười tươi khi nói lời cảm ơn.

“Tôi chuyển lời giúp sơ trưởng rằng sơ rất biết ơn ngài và những người sống tại Langlinais. Bà gửi lời chúc phúc đến các ngài và nói rằng bà sẽ tán thành những đề nghị của các ngài. Bà cũng muốn tôi nói lại với ngài rằng bà sẽ cầu nguyện cho các ngài luôn gặp nhiều may mắn.”

“ Chúng tôi đã thực sự gặp rất nhiều may mắn.” anh ta nói, vẫn tươi cười, rồi quay ngựa hướng thẳng về Langlinais.

* * *

Gregory giữ cho mặt mình không biểu lộ gì. Nhiều năm trời tỏ ra quỵ luỵ giờ đã phát huy tác dụng. Nụ cười của hắn thoái mái, mắt hắn nhìn xuống. Không có dấu hiệu nào để lộ rằng tay hắn đang run rẩy, không điều gì bên ngoài phản bội sự phấn khích ghê gớm đột ngột của hắn.

Ngài thống chế đang trổ tài hùng biện bóng bẩy với một vài đạo hữu khác. Họ, như thường lệ, lắng nghe một cách chăm chú, gật đầu ở những chỗ họ tán thành.

Không phải ngày nào ngài thống chế cao quý cũng đến thăm tu viện, mà ở một mình để chăm sóc thánh tích thiêng liêng. Ông ta dành nhiều thời gian để chiêm ngưỡng chiếc chén thánh, và giờ nó được đặt trên bàn trong căn phòng ngủ của riêng ông ta. Mặt trời rọi vào hòm đựng thánh tích và khiến nó lấp lánh màu vàng và đỏ. Nhưng mặt trời cũng toả sáng trên cái chén gỗ đặt bên trong cái bát vàng. Hắn đã tự hỏi liệu một vài tu sĩ thân quen có sụp gối xuống để tỏ lòng tôn kính khi nhìn thấy nó không nhỉ?

Hắn, bản thân hắn, không thể rời mắt khỏi chiếc chén. Như một người quan sát hững hờ, không phải vì hắn khúm núm trước sự hiện diện của nó, mà vì hắn đột nhiên rất chắc chắn rằng nó là một hình mẫu tuyệt vời cho một sự lừa đảo.

Tại Langlinais, có một người đàn ông có thể khắc được mọi thứ. Hắn và Sebastian đã cùng chơi đùa với những hiệp sĩ khắc bằng gỗ của ông lão Simon trong vô số những cuộc tập trận giả trên sàn đại sảnh. Mặc dù, ông lão có một thói quen là khoét một lỗ để cắm lưỡi dao của ông, nhờ thế mà ông lão có thể biết được nó ở đâu sau một đêm say mèm. Rất nhiều hiệp sĩ gỗ của họ cũng có những vết như thế.

Có một vết đục tương tự trên cái chén gỗ nằm trong hòm đựng thánh tích. Nó hầu như quá mờ nhạt để chú ý tới, hoặc có thể dễ dàng được giải thích là do tuổi tác của nó. Thậm chí một vật thiêng liêng như chiếc chén thánh cũng có thể ngẫu nhiên bị đánh dấu lắm chứ. Hoặc, có lẽ, nó đã như thế từ đầu rồi, một chiếc chén do một người thợ mộc hoàn thành vội để sử dụng ngay, không nghĩ đến việc trang hoàng hay thiếu sót của nó.

Song, anh ta vẫn biết rõ nó là giả. Khi nhìn thấy nó lần đầu trong ánh sáng, anh ta đã biết việc Sebastian làm. Hòm đựng thánh tích có lẽ là rất có giá trị, nhưng giờ anh ta nghi ngờ thậm chí cả tuổi tác lẫn tính xác thực của nó.

Anh trai hắn đã đánh lừa quân Templar. Anh ta đã tạo ra một trò cười vào mặt những người đàn ông mà đến các vị vua cũng phải run rẩy. Sự táo bạo của hành động này làm hắn choáng váng và sững sờ.

Tại sao Sebastian làm thế? Câu trả lời đơn giản như hành động càn rỡ này. Để bảo vệ cho Langlinais. Hắn đã trao cho ông anh trai một cơ hội hoàn hảo, đã bị đùa giỡn trong đôi tay của anh ta. Bằng việc suy đoán Sebastian có thể sẽ muốn trao đổi thứ anh ta đã tìm thấy ở Montvichet vì sự an toàn của quê hương, hắn đã gần như khuyến khích Sebastian thực hiện việc này. Ngay lúc đó, một đám mây che khuất mặt trời, và ánh sáng rực rỡ đỏ rực trở nên khuếch tán như thể thiên đường đã nghe được ý nghĩ của hắn.

Trong một vài ngày hắn và ngài thống chế sẽ đáp thuyền đến Cyprus, nơi chiếc chén thánh sẽ được lưu giữ. Quyền lực của quân Templar có thể sẽ được gia tăng chỉ với việc để mọi người biết rằng họ là những người nắm giữ chén thánh.

Đó quả là một sự mỉa mai nực cười nhất. Cơ hội của hắn sẽ đến, không phải vì phẩm chất can đảm của hắn, mà nhờ mánh khoé của Sebastian. Hắn đã tốn phần lớn quãng thời gian trưởng thành của hắn để cố vươn lên trong phẩm cấp quân Templar. Và giờ hắn sẽ len lỏi được vào những vị trí quyền lực cao nhất nhờ vào một thứ không phải đồ thật.

Đột nhiên, hắn biết rõ hắn phải làm gì.