Hậu Cung Chân Hoàn Truyện

Quyển 8 - Chương 16: Chương 09 - phần 01



ẢiHán đêm qua dậy gió thu[12]

[12]Trích Quân thành tảo thu của Nghiêm Vũ. Dịch thơ: Bùi Hạnh Cẩn, Việt Anh.Nguyên văn Hán Việt: Tạc dạ thu phong nhập Hán quan - ND.

Thời gian lặng lẽ trôi đi, mới thoắt đó đãlại tới giữa hạ, lũ ve sầu kêu ra rả suốt cả ngày. Thời tiết càng lúc càng nóngnực, Huyền Lăng thì cũng ngày một nóng tính hơn, hai ngày trước chỉ vì mấy việcnhỏ mà đã trách mắng Uông Phân nghi và Mục Lương viện một phen, ngay cả PhúcQuý tần vốn tính đôn hậu nhất cũng bị mắng cho mấy câu, mọi người trong hậucung không có ai là không sợ hãi.

Lý Trường khi tới chỗ tôi cũng từng kể khổ,rằng mới đây chỉ vì nước trà hơi nóng một chút thôi mà Huyền Lăng đã hắt chéntrà lên người y. Theo hầu bên cạnh Huyền Lăng mấy chục năm, đây có lẽ là lầnđầu tiên Lý Trường phải chịu nỗi ấm ức như vậy, tôi cũng chỉ đành ôn tồn khuyênnhủ một phen.

Tiếng ve sầu vang lên ra rả, dường như muốnđâm thủng màng nhĩ người ta. Hoa Nghi đứng một bên nhẹ nhàng phe phẩy quạt, tôilòng thầm phiền muộn nên đi vào hậu đường ngủ trưa, đồng thời dặn dò: “Mang sàodính keo đi bắt hết lũ ve sầu đó lại cho ta, cả ở Nghi Nguyên điện cũng thế.”

Làm sao mà có thể không phiền muộn đượcđây? Dịp cuối xuân, Ma Cách Khả hãn của Hách Hách đã nhân lúc cỏ cây tốt tươi,lương thảo đầy đủ mà dẫn theo hai mươi vạn thiết kỵ từ đô thành Tàng Kinh kéothẳng đến Nhạn Minh quan cách Thượng Kinh chỉ chừng tám mươi dặm.

Nhạn Minh quan tây gần sông Hỷ Lăng, namgiáp Thượng Kinh, bắc có Chỉ Tiên quan cùng sạn đạo ở núi Lạc Thiết, xưa nayvẫn luôn là vùng đất mà nhà binh ắt phải tranh đoạt. Núi Lạc Thiết là biên giớitự nhiên giữa Hách Hách và Đại Chu, còn Nhạn Minh quan thì giống như một bứcbình phong kiên cố, một khi bị Hách Hách phá tan thì cố đô Thượng Kinh sẽ khócó cách nào giữ được, ngay cả kinh đô hiện tại là Trung Kinh cũng sẽ lộ ra ngaytrước vó ngựa kiêu dũng của kỵ binh Hách Hách.

Sau hội thề Hà Trì giữa Anh Cách Khả hãncủa Hách Hách với Thái Tổ Đại Chu, Thái Tổ đã phong Mạo Thành Quận chúa làm KimSơn Công chúa rồi gả cho Anh Cách Khả hãn làm đại phi chính thất. Biên giớigiữa Hách Hách với Đại Chu đã nhiều năm không có chiến sự, hai bên còn thôngqua Hỗ Thị để trao đổi hàng hóa, tấp nập vô cùng, chủ yếu là Hách Hách dùng bò,ngựa để đổi lấy lá trà, tơ lụa cùng lương thực của Đại Chu, do đó dân chúng đaphần được an cư lạc nghiệp, đã bao năm rồi chưa gặp phải chuyện binh đao.

Ma Cách Khả hãn của Hách Hách bây giờ làcon trai của Anh Cách, bừng bừng dã tâm, bấy lâu nay vẫn luôn rèn binh luyệntướng, không ngừng thôn tính các bộ lạc nhỏ yếu xung quanh Hách Hách, từ đótăng cường thực lực. Còn Huyền Lăng những năm qua luôn đặt tinh lực vào chiếnsự ở phía tây nam, mong có thể thu hồi cương thổ, về sau lại phải dốc sức bìnhđịnh Nhữ Nam Vương, nên khó tránh khỏi có phần buông lỏng sự đề phòng với Hách Hách,do đó khi đại quân Hách Hách kéo tới thì các tướng sĩ nơi Nhạn Minh quan đềuluống cuống chân tay, không kịp ngăn cản, khó khăn lắm mới giữ được cửa ảikhông để bị đánh hạ. Huyền Lăng trong cơn giận dữ liền phái mười lăm vạn đạiquân viễn chinh kinh đô Tàng Kinh của Hách Hách, thế nhưng tướng sĩ Đại Chukhông quen với cái nóng khô hanh ở vùng sa mạc, thêm vào đó năm nay thời tiếtcòn nóng hơn mọi năm rất nhiều, nên còn chưa tới nơi thì đã có rất nhiều tướngsĩ cảm nắng ngất xỉu, Đại Chu coi như chưa đánh đã tự thua.

Huyền Lăng vừa nôn nóng vừa giận dữ, khôngkìm được cất tiếng than: “Trong quân chẳng có ai dùng được, nếu Tề Bất Trì còntại thế thì tốt biết bao!”

Đáng tiếc Tề Bất Trì chỉ có một, mà Đại Chubao năm nay vẫn luôn trọng văn khinh võ, trong triều chẳng có tướng tài, thựckhó mà vãn hồi được cục diện.

Trong cơn nguy ngập, ngay đến Thái hậu cũnglo lắng và sợ hãi vô cùng, bệnh tình lại càng trở nặng, rốt cuộc đã qua đời vàongày Hai mươi bảy tháng Năm ở tây điện của Di Ninh cung.

Cả Đại Chu đều đau buồn, mà ngày Thái hậuđược đưa vào quan tài, Tôn cô cô đã đập đầu vào cột tự vẫn, đi theo hầu Tháihậu.

Huyền Lăng đau xót vô cùng, để làm tròn đạohiếu đã đặt thụy hiệu cho Thái hậu là “Chiêu Thành”, toàn hiệu là “Chiêu ThànhHiếu Túc Hòa Duệ Thánh Hoàng Hậu”. Tiên đế sau khi phế bỏ Hoàng hậu Hạ thị thìkhông lập hậu nữa, cuối cùng chỉ có Chiêu Thành Thái hậu là được an táng trongLễ lăng chung với tiên đế. Sau đó Huyền Lăng lại sai đại thần tổ chức tang lễlong trọng, mình thì mặc đồ trắng để tang cho Thái hậu, đồng thời cho đình chỉcác buổi chầu ở chính điện trong vòng một tháng.

Đang trong thời điểm nội ưu ngoại hoạn thếnày, Huyền Lăng nóng tính hơn thường ngày thực ra cũng là lẽ đương nhiên.

Sau tang lễ, Huyền Lăng gầy đi rất nhiều,bờ môi thì vì nội hỏa quá vượng mà nứt nẻ cả ra. Tôi không khỏi có chút âu lonôn nóng, bèn mang canh bạc hà tim sen đã hầm cả buổi sáng tới Nghi Nguyên điệncho y.

Trên bàn, tấu sớ chất cao như núi, HuyềnLăng ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế chạm trổ hình rồng cuộn phía sau. Đôi làn giómát từ cửa sổ hướng bắc thổi vào mang theo hương hoa cỏ thanh tân phớt quakhuôn mặt y, thế nhưng đám mây đen ngưng tụ giữa đôi hàng lông mày của y thìvẫn nặng nề vô hạn, mãi chẳng chịu tan.

Y chẳng buồn ngẩng lên, trong giọng nóitoát ra một vẻ uể oải và mỏi mệt tới cùng cực. “Nàng tới rồi.”

Tôi cất giọng ôn tồn: “Thần thiếp mới nấuđược ít canh nên mang tới đây cho Hoàng thượng.”

Y khẽ “ừm” một tiếng, nói: “Cứ đặt ở đóđi.”

Đang lúc giữa trưa, một ánh dương từ ngoàicửa sổ chiếu vào, cái nóng nực của mùa hè liền lan truyền đi khắp khiến ngườita cảm thấy gian điện kín mít này thực là ngột ngạt lạ thường.

Tôi bèn mở cửa sổ ra, lập tức cảm thấy tầmmắt mở rộng, lọt vào trong mắt là một khu rừng biêng biếc xanh tươi, tâm trạngtức thì thư thái hơn rất nhiều.

Huyền Lăng hơi cau mày. “Đóng cửa sổ lạiđi, trẫm không thích nghe tiếng gió.”

Tôi khẽ cười một tiếng, nhúng đầu ngón tayvào một ít dầu bạc hà trong chiếc hộp nhỏ mạ vàng rồi nhẹ nhàng day huyệt tháidương cho y. “Nhạn Minh quan tuy đang phong thanh hạc lệ nhưng Hoàng thượng anhminh thần võ, ắt có thể hô mưa gọi gió.” Rồi tôi dịu giọng dò hỏi: “Hoàngthượng bây giờ đã chọn được ai làm tướng soái chưa vậy?”

Y lộ vẻ khổ não. “Ngoài phò mã Trần Thuấnvà Phủ Viễn tướng quân Lý Thành Nam ra, trẫm không còn lựa chọn nào khác.”

Tôi lại hỏi thêm: “Hoàng thượng sao khôngđể lục Vương gia và cửu Vương gia thử xem? Nghe nói hai vị Vương gia ấy từngđảm nhận nhiệm vụ ở Thiết Kỵ doanh trong kinh thành, đều là hạng có bản lĩnhcả.”

Trên khuôn mặt vàng vọt ánh lên mấy nét âulo, y gõ ngón tay xuống bàn làm phát ra những tiếng “cộc cộc” nặng nề, sau đódo dự nói: “Lão cửu còn ít tuổi chưa trải việc đời, còn về lão lục...” Y suynghĩ thêm một lát rồi trầm giọng nói: “Thân vương không thể tùy tiện nắm binh quyền,nàng đã quên mối họa do Nhữ Nam Vương gây ra ngày trước rồi ư?”

Tôi đành làm bộ kính cẩn. “Thần thiếp quyếtchẳng dám quên.”

Y trầm ngâm nói: “Huynh trưởng của nàng...”

Lòng tôi trầm hẳn xuống, vội nói: “Ca cathần thiếp vì chuyện năm xưa mà trên người đã lưu lại mầm bệnh, tuy ngày đêmđều muốn ra trận giết địch cho Hoàng thượng nhưng hiềm rằng thân thể đã chẳngcòn được như trước nữa rồi. Bây giờ huynh ấy cũng lòng như lửa đốt, có điều tạmthời chỉ có thể đi theo dưới trướng phò mã thôi, quả thực không đảm đương nổinhững nhiệm vụ nặng nề.”

Y khẽ gật đầu, lộ vẻ áy náy, nói: “Chuyệnhuynh trưởng của nàng năm xưa, trẫm quả thực đã có phần lỗ mãng, Hoàn Hoàn,nàng không trách trẫm chứ?”

Nếu thật sự áy náy thì việc gì phải đợi tớilúc đại địch đã cận kề trước mắt như thế này? Tôi bất chợt nhớ tới lời của caca lúc trước: “Ta dù có hoài bão gì thì cũng chỉ dám làm đến phó tướng thôi.Muốn giữ cho người nhà được bình an dưới tay Hoàng thượng, ai mà dám làm thốngsoái thống lĩnh vạn quân? Chuyện ngày xưa vẫn còn sờ sờ ra đó, ta quả thực chỉcó thể như vậy mà thôi.”

Khoảnh khắc trầm tư đó của tôi không thểnào thoát khỏi đôi mắt của Huyền Lăng, y lại hỏi thêm lần nữa. Tôi đảo mắt rồinhẹ nhàng nói: “Thần thiếp chợt nhớ tới Vinh Tần. Nếu không vì Hoàng thượng nhânhậu, thần thiếp sớm đã chẳng buông tha cho ả dư nghiệt của nhà họ Mộ Dung ấyrồi.”

Y thầm thở phào một hơi không dễ gì phátgiác. “Những việc này đừng nên nhắc lại nữa.” Sau đó đưa một bản tấu chương chotôi, hậm hực nói: “Nàng hãy xem cái này đi.”

Tôi đón lấy mở ra xem thử, không kìm đượchơi biến sắc mặt. “Ma Cách định tiến kinh bái kiến Hoàng thượng ư?”

Huyền Lăng khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Hắndám ngông cuồng như thế chẳng phải vì đã chuẩn bị đủ lương thảo ư! Những lầntrước Hách Hách thất bại chủ yếu là vì lương thảo không đủ, lần này Ma Cách đãchuẩn bị từ sớm rồi. Hắn rèn binh luyện tướng nhiều năm, tích lũy được không ítlương thực, đã thế vừa rồi còn ra sức cướp bóc ở bên ngoài Nhạn Minh quan, dođó mới dám sinh ra dã tâm này.”

Lòng tôi trầm hẳn xuống, vội vàng hỏi: “Hắnđã chuẩn bị đầy đủ lương thảo như thế rồi, còn phải vào kinh bái kiến làm gìnữa?”

“Tiếng là bái kiến nhưng thực ra hắn muốnđoạt lấy hai châu U, Vân của trẫm, còn muốn trẫm hằng năm phải thưởng cho hắnvàng bạc mỗi loại ba trăm vạn lạng, tơ lụa một trăm vạn sấp, trong khi đó đồcống của hắn chỉ là mấy chục thớt ngựa hạ đẳng mà thôi, thực là đáng ghét tộtcùng!”

Tôi căm phẫn nói: “Ma Cách làm thế đâu phảilà muốn tiến cống rồi xin ban thưởng, rõ ràng là có ý làm Hoàng thượng mất mặt.Những thứ hắn đòi ban thưởng tính tổng cộng phải bằng một phần ba tiền thuế mỗinăm của Đại Chu, nếu làm như vậy lâu dài, căn cơ của Đại Chu sẽ dần suy yếu,Hoàng thượng quyết không thể tùy tiện đáp ứng được.”

Trong mắt Huyền Lăng bừng lên những tia lửaâm u. “Hắn đòi hỏi như thế rõ ràng là đã sử ra công phu sư tử ngoạm. Chỉ đòiban thưởng thì thôi còn được, nhưng hai châu U, Vân vốn dễ thủ khó công, là nơiyếu địa cực kỳ quan trọng, trẫm há có thể cung tay dâng lên được! Hắn nay đãđánh tới bên ngoài Nhạn Minh quan, đưa ra yêu cầu hà khắc như vậy, thứ nhất làđể thăm dò hư thực của Đại Chu, thứ hai là muốn kiếm cớ cho việc phát độngchiến tranh lần này, hạng hồ lỗ man di như hắn có được tâm tư như thế quả làkhông dễ!”

Tôi đầy bụng âu lo, bèn thăm dò: “Hoàngthượng, hắn dám tới đây như thế chắc là đã sớm có đề phòng rồi đúng không?”

“Hắn muốn cho hai vạn tinh binh đóng ngoàithành làm tùy tùng hộ vệ. Trẫm vốn định không đồng ý nhưng có tin báo về là đãcó không ít gian tế lẻn vào kinh sư, mà động thì chẳng bằng tĩnh, tạm thời cứđồng ý với hắn vậy.” Huyền Lăng cười lạnh, nói. “Thái hậu vừa qua đời, lòngngười đang không yên, thế mà hắn lại định tới đây vào lúc này. Cũng tốt, hắn màdám tới thì trẫm sẽ ở đây đợi hắn.”

Tôi xắn tay áo lên, lẳng lặng giúp y màimực, một lát sau mới chậm rãi nói: “Ma Cách nhòm ngó Đại Chu ta đã lâu, bây giờlương thảo đầy đủ, thực lực đáng gờm, chúng ta quyết không thể ngồi yên chờchết được.”

Huyền Lăng thở dài, than: “Sao trẫm lạikhông biết điều này chứ? So với thiết kỵ Hách Hách, binh lực Đại Chu không phảilà không sánh bằng, tuy các binh sĩ vì bị cảm nắng mà thể lực suy giảm nhưngchỉ cần có tướng tốt là tình hình sẽ ổn thỏa ngay. Chỉ là bây giờ tướng tốt khótìm, các đại tướng trấn thủ biên cương chẳng qua chỉ gắng gượng cầm cự được màthôi, các binh sĩ đổ bệnh thì ngày càng nhiều, chẳng lẽ trời cao thật sự khôngphù hộ cho Đại Chu ư?”

Huyền Lăng chỉ lo lắng việc nước mà thôi,còn tôi ngoài việc nước thì còn phải lo cả việc nhà. Y bây giờ một lòng muốntìm tướng tốt, tôi thì lại phải nghĩ cách để ca ca không trở thành vị tướng tốtđó của y, đồng thời còn phải làm sao cho chiến sự kết thúc, dân chúng được ancư lạc nghiệp, những nỗi lo nghĩ trong lòng thực là nhiều không tả nổi. Sau mộtthoáng trầm ngâm, tôi bèn mỉm cười, nói: “Sao có thể chứ? Hoàng thượng là thiêntử, trời cao không phù hộ cho người thì phù hộ cho ai? Chẳng hạn như đợt bệnhdịch năm đó, Hoàng thượng đang vô kế khả thi thì Ôn Thực Sơ đã tìm ra phươngthuốc chữa trị bệnh dịch. Còn cảm nắng thì có phải là thứ bệnh gì ghê gớm đâu,làm sao khó chữa bằng bệnh dịch năm đó được, mà nói ra mới nhớ, hồi đó trongcung có bao nhiêu người nhiễm bệnh, nếu như không có phương thuốc của Ôn thái ythì thật chẳng rõ sẽ có bao nhiêu người phải bỏ mạng nữa. Rốt cuộc vẫn là Ôn tháiy có lòng, về sau đã lưu lại một số mẫu bệnh cùng với cách chữa trị...” Tôi lảmnhảm một hồi như thể đang tán gẫu với y. Y thì chỉ lặng im lắng nghe, ngón tayvạch đi vạch lại trên mặt bàn, trông bộ dạng thì dường như đang có điều suy tư.

Ánh dương chiếu trên bức tường sơn màu đỏson dần trở nên mờ nhạt, thứ màu đỏ kia thì càng lúc càng đậm đến nỗi như cóthể nhỏ ra nước, cứ thế chảy vào mắt người ta. Tôi bất giác thầm nghĩ, mộtngười nếu giết chóc đến đỏ cả mắt, liệu cặp mắt có biến thành như vậy không? Lầntheo hướng ánh dương chiếu xuống, trái tim tôi dần bay lên bầu trời xanh biếc,trong lòng ngoài nỗi sầu lo còn có một sự tò mò, vị Ma Cách Khả hãn đang xuaquân tiến đánh Nhạn Minh quan kia rốt cuộc là một nhân vật như thế nào?

Ngày Hai mươi tháng Bảy, khi Ma Cách vàokinh, Trung Kinh đang trong thời điểm nóng nực nhất. Huyền Lăng không muốn gặphắn ở kinh sư, bèn lấy cớ “tránh nóng” mà tiếp kiến Ma Cách tại Thái Bình hànhcung ở Tây Kinh.