Con Chó Nhỏ Mang Giỏ Hoa Hồng

Chương 1: Suku thiên thần (1)



Suku là một thằng cún nói chung ai nhìn cũng thích.

Đôi mắt tròn, đen lay láy, ngây thơ ngơ ngác, mỗi khi nhin ai là khiến người ta phải động lòng.

Cún là theo thói quen hồi bé, chứ thật ra chúng tôi đã sống bên nhau nhiều năm rồi, tóm lại đã qua tuổi vị thành niên từ lâu.

Dù vậy, so với thời niên thiếu bộ dạng của thằng suku không thay đổi là mấy. Nó chỉ có béo lên vì ăn nhiều quá.

Suku có đôi tai dài. Lông nó màu trắng, óng ánh và xoăn từng cụm, phủ dày từ chỏm đầu đến tận các ngón chân - trông nó giống hệt một con cừu. Khi nó nằm im, rất nhiều người tưởng nó là một con chó nhồi bông. Suku xinh đẹp như thế, tiên nhiên ai cũng muốn vuốt ve. Rất nhiều người bị bề ngoài của nó đánh lừa, nhưng chuyện đó tôi kể sau.

Như đã nói, thằng suku bây giờ trông bảnh bao, nhưng đã bắt đầu ục ịch. Lý do thì ai trong nhà cũng có thể chỉ ra: Suku không những ăn nhiều mà khẩu vị của nó có thể dung nạp mọi thứ thức ăn, mọi loại mùi vị. Những con chó khác, như con Haili con Pig, con Êmê và cả tôi nữa chỉ ăn những thứ gì mình thích. Suku thì khác. Nó ăn cơm, ăn xương, ăn bánh, ăn kẹo, ăn mọi thứ trái cây, nói chung thứ gì dạ dày tiêu hóa được là nó không bao giờ từ chối. Có vẻ như nó có thể nói "không" với tình yêu chứ nhất định

không bao giờ nói "không" với thức ăn.

Chị Ni đặt cho nó biệt danh là "cỗ máy nghiền".

Tôi đã từng nhìn thấy những người béo phì. Họ đi đứng rất khó khăn. Có người phải dùng một thứ trông giống như xe lăn để di chuyển vì họ không thể tự nhấc mình lên được.

Thằng Suku chưa đến mức như thế nhưng những ngày gần đây nó rất lười hoạt động. Suốt ngày nó chỉ làm hai chuyện: nằm và thở.

Có lần tôi nhìn thấy chị Ni đặt cục xương trước mặt nó. Nếu như trước đây, Suku sẽ bật ngay dậy trên bốn chân, gừ gừ trong cổ họng để cảnh báo bọn tôi không được tranh giành và lập tức vồ lấy món ăn ưa thích.

Lần này thì nó cứ nằm trơ ra đó, không buồn động đậy và trông cái cách nó đưa mắt nhìn cục xương một cách vô vọng tôi có cảm tưởng khảng cách từ mõm nó đến cục xương còn xa hơn khoảng cách từ cục xương đến mặt trăng.

Thằng Suku mãi vẫn không buồn chồm dậy. Nó cứ nằm yên một chỗ, thè lưỡi một cách lười nhác để liếm cục xương. Dĩ nhiên nó chỉ đánh lưỡi vào khoảng không.

Chị Ni lặng lẽ quan sát nó một lúc, cuối cùng chị lắc đầu thở dài và đành phải làm cái chuyện mà tôi nghĩ chị không muốn làm chút nào là cúi người đẩy khúc xương đến sát mõm Suku.

Không chỉ chị Ni lắc đầu khi chứng kiến cảnh gai mắt đó. Ngay cả tôi, tôi cũng lắc đầu với thằng Suku luôn.

Một đứa béo phì như thằng Suku lẽ ra không nên tọng thức ăn vào miệng một cách vô tội vạ.

Thế nhưng nó rất hay xin ăn. Và chị Ni lại rất chiều cái thói ham ăn của nó.

Nó thường xuyên chồm lên chân chị Ni khi chị ngồi trong bàn ăn. Nó chỉ chồm chồm vậy thôi chứ một đứa nặng nề như nó không thể đứng lâu trên hai chân sau như bọn tôi được. Nó chồm lên, cào cào vào chân chị Ni, rồi lại rơi xuống. Nó lặp đi lặp lại động tác đó nhiều lần, cốt để đánh động cho chị Ni biết là nó muốn gì.

Nếu Pig, Êmê hay tôi giở cái tròng xin ăn đó ra thế nào cũng bị chị Ni mắng té tát. Nhưng thằng Suku là ngoại lệ, không phải vì nó là con giống đực duy nhất trong nhà mà vì đôi mắt ngây thơ thánh thiện của nó mỗi khi ngước nhìn ai là lập tức khiến người đó thấy lòng mình mềm nhũn. Khi đôi mắt thằng Suku ánh lên vẻ van xin, tôi chắc chắn không ai trên cõi đời này có thể từ chối nó.

Suku có vẻ ý thức được điểm mạnh của mình và nó thường xuyên tận dụng ưu thế đó để vượt qua những rào cản đạo đức hòng kiếm ăn.

Tất nhiên tôi cũng bắt gặp mình ghen tị khi Suku được chị Ni biệt đãi, nhưng tôi không hề tìm cách nói xấu nó hay làm cho cuộc đời nó tệ đi - như cách người ta vẫn hay đỗi xử với nhau.

Nhiều năm về trước thằng Suku không vậy. Nó mới đổ đốn ra gần đây thôi.

Hồi còn trẻ, Suku vẫn được coi là một quý ông lịch lãm, thường xuyên được chị Ni ngợi khen và đem ra làm gương cho bọn tôi.

Hồi đó, Suku cũng ham ăn như bây giờ nhưng nó luôn biết cách kiềm chế. Trong khi bọn tôi nhảy chôm chôm lên ghế để xin ăn thì nó ngoan ngoãn ngồi yên một chỗ, chỉ đưa mắt nhìn.

Chị Ni nói:

- Tụi em nhìn Suku mà học tập kìa! Nó có chết đói chết khát như tụi em đâu!

Bọn tôi quay nhìn Suku, sửng sốt thấy trước mắt nó là một vũng nước nhớp nháp.

Đó là nước bọt của nó.

Hóa ra nó còn chết đói chết khát hơn cả bọn tôi.

Tôi biết thành ngữ "thèm chảy nước dãi". Và tôi từng trải qua tình cảnh đó. Khi thèm ăn thứ gì, nước bọt trong miệng tôi ứa ra đầy chân răng. Nhưng ứa nhiều đến mức nhễu nhão và đọng thành vũng như thằng Suku thì quả tình tôi mới thấy lần đầu.

Chị Ni cuối cùng cũng phát hiện ra "thảm cảnh" đó.

Chị cúi xuống

bế thằng Suku lên tay, ân cần đút thức ăn vô mõm nó, nững nịu:

- Tội em quá!

Bây giờ, trong khi hầu hết bọn tôi bỏ được cái tật xấu xin ăn thì thằng Suku lại đi ngay vào cái vết xe đổ trước đây của bọn tôi.

Như tôi đã nói ở trên, vẻ mặt thiên thần của nó đủ sức lay động những trái tim sắt đá nhất. Và Suku cứ tỉnh bơ kiếm ăn theo cách đó.

Thật là không công bằng, nhiều lúc tôi nghĩ, khi cũng hành vi đó nhưng nếu do bọn tôi làm thì bị mắng là vô văn hóa, còn thằng Suku làm thì không ai nói gì. Con người ta nói chung là hành xử rất cảm tình, vì vậy có lẽ không thể có cái gọi là công bằng tuyệt đối trên cõi đời này.

Trò xin ăn của thằng Suku chỉ bị từ chối vào cái ngày chị Ni nhận ra tình trạng béo phì của nó đã chạm mức báo động khi chị phát giác nó không thể trèo lên bậc tam cấp quen thuộc nằm giữa phòng khách và phòng ăn.

Cái bậc tam cấp đó, lúc bình thường Suku chỉ nhảy phóc một cái là qua gọn gàng. Bây giờ, cứ nhảy lên là nó lại tụt xuống, cả chục lần như vậy. Dĩ nhiên cuối cùng thì nó cũng ì ạch trèo qua được, nhưng chứng kiến cái cảnh nó chinh phục cái bậc thềm thấp lè tè đó vất vả còn hơn các nhà thám hiểm chinh phục đỉnh Everest, chị Ni nhận ra chị cần phải cứng rắn với nó hơn.

Từ hôm đó, các khẩu phần ăn của Suku bị tiết chế tối đa.

Nó chỉ còn được gặm các loại xương và ăn các hạt chế biến sẵn dành cho vật nuôi. Các thức ăn có bột và có đường bị cấm tiệt.

Thằng Suku những ngày đầu còn ủng ẳng phản đối nhưng trước sự kiên quyết của chị Ni, rốt cuộc nó đành phải chấp nhận chế độ ăn kiêng bắt buộc.

Bên cạnh đó, chị Ni còn vạch ra cho nó một chương trình vận động để giảm cân.

Anh Nghé, anh họ của chị Ni, được giao nhiệm vụ dắt Suku đi dạo mỗi tuần ba lần vào buổi chiều. Cũng chẳng đi đâu xa, chỉ là đi lòng vòng các con đường bao quanh nhà thôi.

Hôm đầu tiên, anh Nghé đeo vào cổ Suku một cái vòng được nối với một sợi dây dài rồi dắt nó ra khỏi nhà.

Thoạt đầu thằng Suku có vẻ ngập ngừng nhưng khi đi được một quãng trông nó hào hứng hẳn. Nó tung tăng trên bốn cẳng chân, lạng bên này lách bên kia khiến anh Nghé phải kéo căng sợi dây để nó không phóng xuống lòng đường.

Bọn tôi đứng ở trong sân xúm xít nhìn theo, tò mò và ghen tị.

Thằng Suku về nhà theo cách không ai ngờ tới.

Khi nghe tiếng kéo khóa cửa, bọn tôi

chen lấn nhào ra và dựng hết cả mắt lên khi thấy anh Nghé đang bế thằng Suku nằm lả trên tay. Suku lúc này trông như một con chó nặn bằng bột: lưỡi thè ra, bốn chân thõng xuống còn mắt thì nhắm nghiền.

- Suku bị sao thế? - Chị Ni lo lắng hỏi.

Anh Nghé cười:

- Nó có bị sao đâu. Đi được nửa đường, nó nằm bẹp, không chịu đi nữa. Thế là ảnh phải bế nó về.

Thằng Suku làm mất mặt bọn tôi quá.

Ai đời một con chó lại không bằng một con người.

Đã thế, về nhà chui xuống gầm bàn nằm thở dốc một lát, Suku bắt đầu nôn. Nó nôn thốc nôn tháo, lưng cong vòng và từ mõm nó tuôn ra đủ thứ màu sắc: xanh, đỏ, tím, vàng.

Chả biết nó ăn gì mà có cảm giác nó đang nôn ra một dải cầu vồng.

Thằng Suku hồi trước là một đứa rất oách.

Tất cả bọn tôi đều sợ nó mặc dù Suku không cắn xé hay cào cấu như những con chó khác.

Mỗi lần có va chạm, nó dùng thân hình lực của nó lưỡng ép chúng tôi vào vách hoặc vật ngửa bọn rôi ra và nằm đè lên khiến bọn tôi muốn ngạt thở.

Nó to con nhất bọn, lông dày nhất bọn, khỏe nhất bọn: khi nó giở môn đấu vật ra là bọn tôi đầu hàng.

Hồi đó con Haili có lần trèo lên ghế chơi, khi nhảy xuống Haili mắt nhắm mắt mở không quan sát kỹ nên đáp ngay chóc xuống chỗ thằng Suku nằm, suýt chút nữa đã đạp trúng thằng này. Lúc phát hiện ra tình huống nguy hiểm đó con Haili "đứng hình" luôn. Nó sợ đến mức không dám nhúc nhích, cứ giữ nguyên tư thế ba chân chạm đất, một chân trên không một lúc lâu - trông giống hệt những pho tượng người ta hay đặt ngoài quảng trường.

Đến khi thấy Suku không có phản ứng gì, Haili mới khẽ khàng đặt nốt chân kia xuống rồi rón rén rời đi chỗ khác.

Kỷ niệm giữa tôi và Suku diễn ra theo kiểu khác, ít đau tim hơn, nhưng cũng cho thấy tôi sợ Suku đến mức nào.

Lúc đó tôi chưa biết Suku thuộc giống chó có tìm cảm quyến luyến đặc biệt với chủ. Thời gian sau này, vào những dịp gia đình chị Ni đi chơi xa tôi để ý thấy thằng Suku ăn rất ít, có bữa không ăn, chỉ uống nước suông, người gầy tọp đi.

Hồi tôi mới về đây, tối nào cũng thấy thằng Suku ngồi dưới chân cầu thang ngước cổ nhìn lên phòng ngủ của gia đình chị Ni ở tầng trên. Nó ngồi suốt đêm như vậy, kiên trì và bất động - như một con chó đá.

Sau này thì tôi mới biết thằng Suku mắc chứng "nhớ con người". Còn lúc đó tôi cứ tưởng nó đang chầu chực gì đó nên tò mò đến gần nó, cũng ngồi xổm trên đuôi, ngước cổ nhìn lên cầu thang.

Tôi cứ nhìn như vậy, chờ đợi trong nỗi thấp thỏm mơ hồ, hy vọng sẽ có một cái gì bất chợt hiện ra - một thỏi xúc xích hay một cái xương gà chẳng hạn.

Nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Ngước lâu mỏi cổ, tôi quay nhìn thằng Suku ra ý hỏi nhưng nó chẳng thèm để ý gì đến tôi, cứ đăm đăm chong mắt lên các bậc cầu thang.

Suku không nhìn tôi nhưng khi tôi chán quá, nhúc nhích chân định bỏ đi thì nó phát ra một tiếng gầm khe khẽ trong cổ họng. Thế là tôi vội vàng thu chân lại, liếc nó vẻ thăm dò nhưng nó vẫn tỉnh bở giữ nguyên cái tư thế đơn điệu chán ngắt mà tôi nhìn thấy từ đầu hôm.

Suốt nhiều đêm liền, tôi ép mình ngồi cạnh thằng Suku, ngước cổ lên nhìn tầng trên mà chẳng biết để làm gì, y như thực hiện một nghi thức tôn giáo.

Trong thời gian đó, tụi Êmê, Haili và Pig chưa về, trong nhà chỉ có mỗi tôi và thằng Suku nên tôi không thể chia sẻ gánh nặng với ai được.

Nhiều lúc tôi chỉ mong rằng thằng Suku gục xuống do mệt mỏi hay do buồn ngủ để tôi có thể nằm nghỉ ngơi một chút, nhưng nó giống như một con chó được đúc bằng nghị lực khiến tôi muốn gãy cổ với nó luôn.

Cuộc sống của tôi chắc sẽ trôi qua trong tột cùng khổ sở nếu một lần nọ mẹ chị Ni không tình cờ phát hiện hai đứa tôi ngồi chầu suốt đêm dưới chân cầu thang khi nửa khuya bà mở cửa bước xuống nhà bếp.

Từ đêm đó, bà mang chăn gối ra ngủ ở lan can để thằng Suku có thể nhìn thấy bà. Quả thật, từ khi cảm nhận được mẹ chị Ni đang ở gần đó, hít thở chung một bầu không khí với nó, tóm lại là sống chung một không gian với nó, thằng Suku mới tự cho phép mình chìm vào giấc ngủ.

Còn tôi, dĩ nhiên tôi vô cùng biết ơn mẹ chị Ni. Nếu bà không từ bỏ chăn êm nệm ấm để ra ngủ trên mặt sàn gỗ cứng và lạnh để thằng Suku yên lòng thì không biết bao giờ tôi, một bản photocopy bất đắc dĩ của nó, mới được giải thoát khỏi chuyện rắc rối này.

Nỗi nhớ con người của Suku gây ra lắm phiền toái cho gia đình chị Ni.

Mọi người yêu thương nó cũng như ngán ngẩm nó. Lúc nào nó cũng đòi hỏi phải có người bên cạnh. Không được thỏa mãn thì nó phản ứng: hồi bé thì rên ư ử nghe phát mệt, bây giờ thì nó sủa ăng ẳng nghe phát điên.

Khi ba chị Ni, hay mẹ chị Ni hay chị Ni đi đâu về là nó xông ra trước tiên. Thực ra thì không chỉ mỗi nó chạy ra đón chủ, nhưng nó vừa chạy vừa sàng qua sàng lại thân hình to đùng của nó để cản đường đứa khác. Đến khi cả bọn vẫy đôi rối rít và mừng rỡ chồm lên chân chủ thì Suku thể hiện "nỗi nhớ con người" của nó một cách quá khích bằng cách vừa chồm vừa đái tồ tồ như thể nó đang giấu dưới bụng một vòi phun tự động.

Ba chị Ni nhăn mặt:

- Gớm cái thằng này! Làm như vòi nước của nó bị hỏng khóa hay sao vậy!

Mẹ chị Ni thở dài:

- Chiếc quần em mới mặc là phải giặt nữa rồi.

Chị Ni bênh nó:

- Thần kinh Suku yếu đó mẹ. Nó không có khả năng kiềm chế.

Chị Ni cúi xuống xoa đầu nó:

- Chị nói đúng không, Suku!

Có lẽ thằng Suku công nhận chị Ni nói đúng. Cho nên nó khoái chí tè thêm một phát nữa vào chân chị Ni.

Tôi thì không tin thằng Suku có thần kinh yếu.

Nó là đứa đái bậy nổi tiếng chứ đâu chỉ đái trong lúc mừng chủ.

Ai đem một món đồ mới nào về nhà, nếu lơ đễnh đặt dưới nền gạch thế nào Suku cũng xán lại, nhấc chân đái lên món đồ đó, bất kể vali quần áo, túi sách hay bịch đựng thức ăn. Những tờ báo ba chị Ni đặt mua hàng ngày cũng rơi vào tình trạng tệ hại đó. Khi người bán báo tuồn báo qua khe cửa vào mỗi sáng sớm, nếu ba chị Ni không kịp chạy ra nặt lên thế nào Suku cũng biến các tờ bào đó thành một thứ ướt đẫm, khai rình, dính bết vào nhau.

Cuối cùng, ba chị Ni phải mua một cái giỏ treo đằng trước cửa, tuốt trên cao, để người bán báo bỏ báo vào đó.

Đã bao nhiêu lần mẹ chị Ni phát cáu vì thói xấu này của Suku.

Chị Ni lại tìm cách bào chữa cho nó:

- Nó "đánh dấu chủ quyền" đó mẹ.

- Thằng này nó hư chứ "đánh dấu chủ quyền" gì! Bàn thờ ông địa đặt trước cửa nhà cả năm nay rồi, việc gì mà ngày nào nó cũng "đánh dấu"?

Thằng Suku quả có thành tích lẫy lừng đó thật. Hôm nào nó cũng lơn tơm lại chỗ bàn thơ ông địa và ông thần tài, uống sạch nước trong dãy cốc nhỏ đặt trước hai ông. Sau khi làm ngã vài chiếc cốc, nó ghếch chân lên bàn thờ, đái xè xè.

Bàn thờ ông địa hay gốc cây, đối với nó chẳng có gì khác nhau.

Ông địa và ông thần tài nhà chị Ni cũng hiền quá. Nếu là tôi, tôi sẽ ểm bùa cho cái vòi nước của nó sưng vù và tắc tị cho nó sợ chơi.

Dần dần thằng Suku cũng thích nghi được với những chuyến đi dạo. Nó không còn phản đối chương trình thể dục bằng cách ăn vạ giữa đường và anh Nghé không còn phải ẵm nó về nhà vào cuối buổi chiều nữa.

Sau một tuần, người nó gọn lại, đã có thể nhảy lên bậc thềm ngăn giữa phòng khách và phòng ăn.

Sau mười ngày, Suku đã nhảy được lên ghế, rồi từ ghế nhảy lên bàn ăn và ngốn ngấu tất cả các thứ bày trên đó, kết quả là nó làm vỡ một cái chén và hai cái đĩa, trước khi nhảy xuống còn kịp làm vỡ thêm cái lọ đựng tương ớt yêu quý của ba chị Ni.

Nhưng nó không bị la rầy, vì nó là Suku thiên thần. Và vì sự manh động của nó chứng tỏ kế hoạch giảm cân đã có kết quả vượt ngoài mong đợi của mọi người.

Tục ngữ đúc kết "yêu nên tốt, ghét nên xấu" quả không sai. Khi yêu một ai đó, con người ta có khuynh hướng chỉ nhìn thấy mặt tốt, mặt tích cực của người đó và bỏ qua những điểm trừ nào đó.

Thằng Suku nhảy lên bàn quậy tưng, vậy mà giữa tiếng bát đĩa vỡ loảng xoảng chẳng vang lên một lời trách mắng nào.

Chỉ có tiếng reo phấn khích của chị Ni:

- Suku nhảy lên bàn được rồi nè mẹ!

Hiển nhiên là bọn tôi rất bất bình về điều đó. Thậm chí có lúc tôi mơ hồ nhú lên trong lòng cảm giác ghét bỏ với thằng Suku.

Nhưng cảm đó chỉ thoáng qua thôi.

Vì ngoài chuyện được nuông chiều, Suku xét ra cũng không làm điều gì quá đáng với bọn tôi.

Và khi bắt gặp cái cảnh nó mút và nhai nát que kem, tôi bỗng thấy tội nghiệp nó.