1930

Chương 17



Cao Kính mân mê họng súng trong tay mình, nói: “Lúc trước, Cửu nhi chấm đúng ngay một quyển sách của tôi. Tôi biết, hắn ta phân vân rất lâu, thật ra nếu hắn chịu mở miệng van nài tôi cho hắn, tôi lẽ ra cũng đưa mà thôi. Nhưng hắn ta ương bướng nhất quyết không chịu hé mồm xin tôi, mà cùng tôi chơi bài. Nếu hắn ta thua thì mỗi ngày phải làm bài tập cho tôi, mỗi một ván thì tính một ngày. Còn nếu như tôi thua, chỉ cần đưa quyển sách đó cho hắn.

“Không công bằng nhỉ, rốt cuộc cậu thua!”

Khóe môi sắc lẻm của Cao Kính chếch lên một chút, nhẹ cười: – “Cũng không hoàn toàn đúng như vậy. Thật ra tôi thắng hắn chín ván liên tục, nhưng qua tới ván thứ mười, hắn ta nói, hắn muốn cược lớn. Một ván đổi mười ngày, bằng không sẽ không có cơ hội nào để gỡ gạc. Tôi đồng ý. Kết quả ván thứ mười đó hắn ta thắng. Hắn thắng, tôi thua, đó là số trời, còn lấy luôn quyển Tôn Tử Binh Pháp. Tôi không phục, nói là không tính. Hắn ta thua mười ván mới thắng được một, như vậy tôi thắng mới đúng. Hắn chỉ cười nói vậy chúng ta chơi lại đi, về sau toàn là hắn thắng… Bất quá, đến cuối cùng hắn chỉ lấy đi mỗi quyển Tôn Tử Binh Pháp.”

Trần Hướng Đông cau chặt lông mày, tò mò hỏi: “Sao Phạm Cửu lại thắng cậu được?”

Cao Kính cười nói: “Tôi cũng thắc mắc thế đấy. Hắn nói, thiếu gia, lúc cậu đánh bài, nếu bài cầm trong tay là bài tốt thì khi sắp bài sẽ rất khoan thai, nhưng nếu bài không tốt thì xếp bài lại rất mau, ….” – Cao Kính nhạt giọng bảo: “Cửu nhi là loại người như vậy đấy, hắn có thua một trăm lần cũng không nghĩ là thua trắng, cho nên cái tôi quan tâm không phải con bài tẩy chưa lật trong tay hắn… Mà là khoản đặt cược mà hắn muốn thắng được.”

Cao Kính nhìn ra ngoài cửa, chậm rãi nói: “Tôi muốn biết, rốt cuộc hắn ta muốn cái gì?”

Trần Hướng Đông nhấc chén trà trong tay lên, nhấp một ngụm rồi lười giọng bảo: “Cậu không biết Phạm Cửu đang nghĩ cái gì, vậy còn cậu thì sao đây? Cậu muốn cái gì, chính bản thân cậu có biết rõ không?”

Cao Kính trầm lặng mất một lúc, rồi vứt khẩu súng trong tay mình đi. “Tôi muốn thắng được hắn.”

Trần Hướng Đông dặt chén trà xuống, tay bàn tay xòe ra mà cười: “Đã nói với cậu từ lâu rồi, đưa hắn ta cho tôi đi, cậu cần cái thá gì phải đợi thằng ấy mở con bày tẩy hử. Lá bài đó, cho dù là con Át bích đi nữa thì cũng quyết định là thua cái chắc rồi.”

Cao Kính đứng lên duỗi lưng ra, nói: “Đừng hấp tấp, trò chơi còn chưa kết thúc mà. Đừng quên hiện tại anh đang ở Bến Thượng Hải, ở Bến Thượng Hải này mà anh còn không thích chơi đùa hay sao?”

Trần Hướng Đông nhìn theo bóng dáng cậu ta càng đi càng xa xôi xần, nhếch môi cười khì hỏi tên sĩ quan phụ tá ở bên cạnh: “Mày có biết ván này trong bọn họ ai thắng không?”

Sĩ quan phụ tá cười bảo: “Cao thiếu gia đủ thông minh, cũng đủ thâm độc, nhìn sơ qua thì thấy cậu ta sẽ thắng đó! Có điều gã Phạm Cửu kia như một câu đố, giải không ra được, cho nên ai thắng ai thua còn chưa biết chắc được!”

Trần Hướng Đông mỉm cười “Ván bài này, cả hai thằng đều thua hết…” Sau đó, gã chỉa chỉa vào chóp mũi của mình, nói: “Ván này, là tao thắng!”

Trên tòa lầu cao của lầu Đắc Nguyệt, đám hương chủ Hồng Bang đang ngồi yên nghiêm chỉnh chờ Cao Kính tới. Tất cả bọn họ đều mặc áo ngoài bằng lụa đen như nhau, không ai khác ai, chỉ duy ở chính giữa có Tôn Tử Hoa đang vận Âu phục. Hôm nay hắn ta đã trở thành tâm phúc trước mắt Cao Kính, cho nên nhất cử nhất động đều như thông cáo việc này với tất cả mọi người. Hắn lướt mắt qua Cao Tiến dáng vóc thấp bé ngồi bên cạnh, thấy Cao Tiến ngồi mà mặt lặng như tờ thì liền cười: “Cao Đại à, hôm nay anh cũng rảnh tới dự tiệc của thiếu gia sao, chẳng phải trước đây anh chưa từng tới đó à! Thế nào…. cũng biết bây giờ Tiểu Cửu là con cá mắc cạn trở mình không được nữa à…”

Hắn thấy Cao Tiến lạnh nhạt ném qua một cái liếc mắt khinh bỉ, bộ mặt xương xẩu không tránh trỏi sa sầm, gằn giọng hận thù: “Mày đừng tưởng thiếu gia với hắn còn ghi nhớ tình xưa nghĩa cũ! Mày cho thiếu gia không hay biết nghĩa phụ chết như thế nào sao?”

Cái nhìn của Cao Tiến trở lạnh đi, lạnh lùng thốt: “Tôn Bát, cơm, mày có thể ăn nhiều nữa đi, để không miệng mồm bậy bạ!”

Tôn Tử Hoa liên tục hừ giọng mấy tiếng, thấy bộ dạng Cao Tiến rất đáng sợ thì mới câm miệng lại, nhưng lại khiến cho một Hương chủ khác phải lên tiếng: “Chẳng nhẽ còn không phải? Nghĩa phụ chết bất đắc kỳ tử như vậy, khi ông chết còn có ai khác ngoài Phạm Cửu thấy được mặt mũi hay không? Phạm Cửu chôn cất ông nhanh chóng như vậy, lẽ nào trong bụng không có điều mờ ám? Cậu đừng có nghĩ thiếu gia cái gì cũng không biết đấy nhé. Mấy ngón nghề của Tiểu Cửu mà đem ra đùa bỡn trước mặt thiếu gia ư, còn non lắm!”

Cao Tiến bỗng dưng quay mặt sang, nghiến răng: “Những lời này anh nên nhắc nhở thiếu gia mới đúng!” Anh vừa nói ra khỏi miệng, đã thấy Cao Kinh mặc một bộ âu phục với sơ mi đen và áo khoác ngoài màu nhạt đi tới. Tôn Tử Hoa cùng Cao Tiến không khỏi có mấy phần chột dạ bất an. Nhưng Cao Kính chỉ ngồi xuống rồi nhạt giọng: “Dùng bữa đi!”

Vào đêm, Thượng Hải rực ánh đèn nê ông. Trần Dướng Đông mang theo gã sĩ quan phụ tá rảo bước qua lại trong Đại Thế Giới, chán chường mọi kiểu. Người sĩ quan cười hỏi: “Thiếu tướng quân, ông muốn nghe tuồng, xem khiêu vũ hay nghe đọc sách?”

Trần Hướng Đông rảo bước sang trước cửa của sân khấu tuồng, thấy ở bên ngoài có dán một bức quảng cáo to, một hoa đán tư thế yêu kiều đang giương ngón tay tạo thế Lan hoa chỉ[3]. Người thì ngoái đầu lại tỏa ánh nhìn mê mị. Trần Hướng Đông nghĩ bụng hoa đán này trông rất quen mắt, nghĩ ngợi một buổi rồi phá ra cười: “Hóa ra là tiểu ni cô, không sai, không sai…” Hắn chỉ tay vào tấm áp phích: “Tiểu ni cô này có cá tính lắm đấy, chúng ta đi xem thử nó thế nào!”

Trên đài, vở tuồng còn chưa mở màn, những cái đầu người bên dưới khán đài nhao nhao cả lên. Trần Hướng Đông mua một gói thuốc Tiểu niếp[4] nhỏ, vừa mới mở ra định rút lấy một điếu thì tay hốt nhiên sững lại. Gã nghiêng đầu sang nhìn quanh dò xét trên lầu hai của Đại Thế Giới, rồi quay sang nói với gã phụ tá: “Coi bộ tao phải chuyển chỗ chút đỉnh, mày coi ngồi ở hàng đầu bên dưới là ai?”

Gã sĩ quan chợt nhìn qua, ngạc nhiên thốt: “Là Phạm Cửu!”

Trần Hướng Đông cười cười, vẫy ngón tay gọi đứa trẻ bán dạo thuốc lá hạt dưa lại. Gã vừa mới đổi một đồng đại dương để mua một bao thuốc của thằng nhỏ, cho nên thằng bé nịnh bợ vội vàng chạy tới. Trần Hướng Đông cười, thảy vào chiếc tráp đeo trên cổ đứa nhỏ hai đồng đại dương, sai bảo: “Mày nói cho tao biết, đào kép hôm nay có địa vị gì?”

Mắt của thằng nhỏ sáng rỡ, liến thoắng thưa: “Đại gia, cậu này là con hát gần đây đang lên hương đó, con gái có hóa trang cũng không đẹp bằng đâu. Cậu này vốn là vai chính của đệ nhất sân khấu Đan Quế, ông chủ Hoàng cũng tốn công tốn sức lắm mới rước được về đây ạ.”

Trần Hướng Đông nhấn đầu thằng nhỏ xuống dưới một cái, chỉ vào Phạm Cửu mà hỏi: “Còn người này, mày nhận ra không?”

Thằng nhỏ nhìn nhìn hồi lâu rồi mới nói: “Thấy không rõ lắm ạ, nhưng hình như cháu biết.”

Trần Hướng Đông cười nói: “Vậy thì lát nữa mày bán luẩn quẩn bên cạnh hắn ta, nhìn coi hắn ăn cái gì, nói chuyện với ai, nói điều gì, lát nữa tao thưởng mày năm đồng đại dương?”

Cặp mắt của thằng nhỏ đã sáng đến mức lóa lên, mải miết gật đầu rồi chạy như bay xuống lầu. Sĩ quan phụ tá cười nói: “Thằng nhỏ này lanh lợi quá!”

Trần Hướng Đông ngâm nga một khúc ca nho nhỏ, rút một điếu thuốc ra ngoài rồi xòe lửa. Gã vốn nghĩ, rít xong một điếu thuốc thì thằng nhỏ ấy sẽ trở về báo lại, nhưng không dè đâu gã rít hết cả gói thuốc mà cũng không thấy bóng dáng thằng nhỏ kia đâu. Tuồng đã vãn tràng. Trần Hướng Đông và gã phụ tá gấp gáp bước xuống lầu. Bọn họ chen chân quyết liệt mãi mới thấy được tung tích của Phạm Văn Cổ, rồi liền luồn lách trong đám đông để bám theo sau anh. Nhưng còn chưa ra tới được cửa sân khấu, chợt nghe thấy tiếng gọi non nớt của một đứa bé: “Tiên sinh, tiên sinh ơi…” Trần Hướng Đông còn chưa kịp phản ứng lại, đã bị một thằng nhóc con ôm ngang lưng.

“Tiên sinh, vị tiên sinh kia ăn gì, nói chuyện với ai, nói cái gì, cháu đều nhớ hết rồi!”

Trần Hướng Đông cười nói: “Làm tốt lắm, tốt lắm!” Gã dợm chân bước đi, càng bị thằng bé ôm nghiến lấy không tha. Gã cuống cuồng gọi người phụ tá xì ra năm đồng đại dương. Nhưng thằng bé kia cầm mấy đồng tiền xong vẫn cứ ôm khư khư lấy gã.

Trần Hướng Đông rướn cổ lên thấy Phạm Văn Cổ đã đi tít xa, không còn bóng dáng, không còn cách nào khác đành thở dài: “Tiền mày cũng cầm rồi, còn ghì tao làm gì hả?”

“Tiên sinh bảo cháu thăm dò gì đó, cháu còn chưa nói mà?”

Trần Hướng Đông bất đắc dĩ kéo thằng bé đi ra khỏi rạp hát, tới một chỗ vắng vẻ rồi thở dài: “Nói đi!”

“Vị tiên sinh kia không ăn thứ gì, cũng không nói chuyện với ai, cho nên cũng không nói gì hết trơn!”

Trần Hướng Đông trừng mắt với thằng nhỏ một lúc lâu, bỗng chợt phá ra cười: “Thì ra thằng quỷ nhỏ mày là người của Hồng Bang…” Gã nói rồi thì xách đứa trẻ nhấc bổng lên, thằng bé giãy dụa trong tay hắn, vội vàng hét lên: “Cửu ca nhà cháu có một lời nhờ cháu gửi cho Trần tướng quân!”

Trần Hướng Đông quẹt quẹt mũi, rồi nói với gã phụ tá bên cạnh mình: “Không ngờ rằng gã Phạm Cửu này cũng có mấy phần sáng mắt hiểu chuyện.” Gã quay sang nói với thằng bé: “Mày đi đi!”

Đứa trẻ kia cuống cuồng tháo chạy ra thật xa, rồi đột ngột quay đầu lại la lên: “Cửu ca nói nếu Trần tướng quân còn chịu đưa bảy phần súng ống sắp tới tay mình cho người khác nữa là, tiếc rẻ gì năm đồng đại dương chứ?”

Thằng bé cầm những đồng tiền trong tay tung lên rồi đón lấy, cười nói: “Tiểu du tử tạ ơn Trần tưởng quân thưởng cho cháu!”

Trần Hướng Đông giận dữ: “Con nít quỷ nhà mày, được béo bở rồi còn già mồm, trả năm đồng đại dương đây cho tao!” Nói rồi gã dí theo bóng dáng thằng bé ấy. Tên phụ tá chẳng còn cách nào khác, đành truy đuổi theo sau.

Hai người bọn họ vòng vèo mãi thật lâu trong những con ngõ nhỏ, cũng không thể nào đuổi bắt được thằng bé nhanh nhảu như chuột ấy. Cả hai dựa lưng nơi đầu ngõ mà thở hào thở hển. Trần Hướng Đông vừa thở dốc vừa nói: “Ngày mai chúng ta cắm trụ ngoài Đại Thế Giới, tao không tin không tìm ra được thằng quỷ con đó.”

Sĩ quan phụ tá cũng đành phì phò thở rồi gật đầu nghe theo.

Hai người vừa định đi ra khỏi đầu ngõ, bất đồ Trần Hướng Đông kéo gã sĩ quan lại, cùng nấp vào một chỗ kín đáo tối tăm. Từ vùng tối này nhìn ra, thấy được Phạm Văn Cổ đang từ tốn đi qua khỏi đầu ngõ. Hiếm khi thấy anh mặc áo ngắn màu trắng ngần, khuôn mặt anh thanh tú, cùng mái tóc đen nhánh của anh, dưới vầng sáng tù mù của ánh đèn lại có một sự thanh thoát tự nhiên rất đỗi riêng biệt.

Đợi anh đi qua rồi, gã phụ tá định bám đuôi theo phía đằng sau, đầu vừa dợm ló ra ngoài, Trần Hướng Đông đã kéo mạnh lại. Gã phụ tá vừa xoa xoa đầu vừa nhìn theo một người phụ nữ tuyệt đẹp bước ngang qua. Nàng mặt một chiếc sườn xám màu lục nhạt đính hoa văn ánh kim. Gã thảng thốt nói bên tai Trần Hướng Đông: “Tứ Di Thái Cao gia!”

Trong bụng Trần Hướng Đông đầy rẫy nghi hoặc. Gã bám sát nút hai người bọn họ mãi cho đến tận bờ sông. Trời lúc này đã vào rất khuya, bên bờ nước heo hút bóng người qua lại. Trần Hướng Đông sợ nếu đến gần hơn nữa sẽ để lộ sơ hở, nên cùng tên phụ tá nấp dưới bậc thềm dưới cầu tàu, sau đó rẽ con nước bơi đến bên dưới chiếc cầu nơi Phạm Văn Cổ gặp gỡ Diêu Bội Tư.

“Cửu nhi…”, Nàng mỉm cười và gọi Phạm Văn Cổ, nhưng không hề có tiếng đáp lại của anh. Đôi bên trầm lặng một lúc, rồi mới nghe thấy Phạm Văn Cổ nói: “Dì Tư, bây giờ chỉ còn tôi với dì hai người, chúng ta khả dĩ có thể nói chuyện một cách công bằng!”

“Biết làm sao cho đủ, không đủ làm sao nói ra!”. Diêu Bội Tư mỉm cười.

“Năm xưa, hạ độc giết chết lão gia, là dì có phải hay không?”

Diêu Bội Tư chỉ cười. “Lão đáng chết từ lâu, là cậu hạ độc, hay tôi hạ độc thì có gì khác nhau sao?”

Phạm Văn Cổ im lặng trong một lúc thật lâu, mới lại nói: “Nếu người đã chết, chuyện cũ cũng qua rồi, cần gì phải tính toán nữa?”

“Cậu muốn nói gì đây, Cửu nhi?”

“Tôi vẫn luôn nghi ngờ, rốt cuộc là ai đã giúp dì? Có thể giúp gì bóp méo hồ sơ bệnh án, giúp dì lo lót nhiều người trong bệnh viện như vậy, rồi cuối cùng còn giúp dì giết người diệt khẩu.”

“Tôi vì cậu cơ mà, chuyện gì cũng có thể làm!” Diêu Bội Tư mỉm cười.

“Dì Tư, những chuyện đã qua rồi, không ai có thể làm thay đổi hay can thiệp vào được nữa. Nếu người ấy thực lòng quan tâm tới dì, chờ đợi dì, dì nên theo người ấy ra đi! Tôi vẫn nhớ như in, dì vốn không hề muốn gả cho lão gia. Dì cũng từng nói với tôi rằng, dì đã có người trong lòng rồi, người trong lòng đó của dì tương lai sẽ trở thành một quan quân…”

Anh còn chưa nói dứt lời, đã bị Diêu Bội Tư cắt đứt. “Cái gì là tình yêu?”

Phạm Văn Cổ trải dài hơi thở, nói: “Dì Tư, dì đối với tôi không phải tình yêu… Dì chỉ là còn áy náy, là sự áy náy không hề cần thiết.”

“Cậu còn không hề biết rõ được tình yêu? Thế thì vì sao cậu biết người tôi yêu không phải là cậu hở?”

Thanh âm của nàng run lên, khe khẽ. “Hoặc giả, có rất nhiều những người sống cho đến kỳ hết một đời cũng không hay biết mình có thật lòng yêu một ai đó hay không. Cho nên, cũng không cần dùng đến kỳ hết khả năng để biết người ấy liệu có yêu thương mình thật sự. Cho nên, bọn họ thật may mắn, không cần phải mở lá chủ bài của mình.”

Nàng thổn thức một lúc, rồi mới nói: “Nhưng, tôi biết tôi yêu cậu, tựa như biết cậu yêu Cao Kính. Chẳng phải chúng ta đều chờ đến thời khắc lật lá chủ bài lên đó sao?”

Nàng hít vào một hơi thật sài, cười bảo: “Cược thì cược. Bến Thượng Hải này có trò nào là không chơi được đâu chứ?”

Nấp dưới gầm cầu, Trần Hướng Đông đến cả thở mạnh cũng không dám. Gã nghe ngóng thấy tiếng gót giày cao của Diêu Bội Tư đã đi xa dần. Và rồi, Phạm Văn Cổ hốt nhiên kêu lên một tiếng: Bội Tư!

Tiếng gót giày ấy ngừng bặt. Rồi lại mãi một lúc nữa mới lại nghe thấy giọng anh: “Bội Tư, có đôi khi kết thúc cũng không phải quan trọng đến như vậy…. Bởi vì chúng ta đã cùng nhau đi qua…. đi qua rất nhiều năm tháng.”

Diêu bội Tư hít sâu một hơi, xoay người cười nói: “Cậu tự thuyết phục chính mình đi nhé, rồi hãy thuyết phục tôi.”

Trần Hướng Đông nghe thấy tiếng bước chân nàng đã đi xa thật nhanh, rồi lại thêm một quãng nữa mới nghe thấy âm thanh khi Phạm Văn Cổ cũng đi xa dần. Bấy giờ gã mới cùng tên sĩ quan phụ tá đã lạnh run lập cập bò lên trên bờ sông. Trần Hướng Đông dường như trơ ra, không còn cảm giác, hồi lâu sau gã mới hỏi: “Mày nghe hiểu không?”

Tên sĩ quan lắp bắp nói: “Cũng không phải quá rõ ràng, nhưng có gì đó dám khẳng định được. Thiếu tướng, bây giờ thì chắc chắn là ngài thắng rồi. Phạm Cửu che giấu chuyện Tứ Di Thái hạ độc giết chết phụ thân của Cao thiếu gia, coi như trở thành một người đồng lõa trong các kẻ thù giết cha của Cao thiếu gia. Còn có…” Gã sĩ quan hắt hơi một cái, rồi tiếp: “Thì ra Tứ Di Thái thích Phạm Cửu. Cao thiếu gia bị cô ta nhiễu loạn như vậy, chắc chắn sẽ hận Phạm Cửu tới chết. Chao, không cần thiết phải biết được con bài tẩy của Phạm Cửu nữa, chắc ăn mười phần chỉ là con hai nhỏ xíu mà thôi.”

Mãi thật lâu, Trần Hướng Đông mới nói: “Ván bài lúc đó lẽ ra là Cao Kính thắng, nhưng cậu ta thắng liên tục chín ván rồi, Phạm Cửu lại muốn cậu ta đặt cá cược nhiều hơn. Cao Kính có một thói quen, thế bài càng xấu, cậu ta cược càng lớn. Vì lý do gì mà lúc Phạm Cửu thắng, hắn ta chỉ lấy đi điều hắn muốn…”

Trần Hướng Đông quay đầu lại nhìn gã phụ tá đang đầy tràn ngờ vực: “Mày đoán đi, Phạm Cửu muốn Cao Kính đặt khoản cược gì đây?”

________________________________________

[1] Súng Mao sắt. Có tên chính thức là Mauser (VN ta hay gọi là Mô-ze). Nói một cách khái quát thì đây là một trong những loại súng trường lâu đời nhất thế giới, có xuất xứ từ Đức và mang tên nhà thiết kế của nó: Peter Paul Mauser. Mauser là loại súng trường trợ chiến điển hình và được sử dụng rộng rãi. Loại súng này cũng được trang bị cho Việt Minh trước 1945.

Đây, súng Mauser

[2] Nam Dương: Có nhiều cách giải thích cho từ Nam Dương. Có thể là quần đảo nằm phía nam Thái Bình Dương, hoặc tên cũ của Indonesia. Nhưng trong bối cảnh truyện, mình nghĩ nghĩa: “Tên cuối thời Thanh chỉ vùng đất Giang Tô, Chiết Giang, Quảng Đông” là phù hợp nhất với câu chuyện.

[3] Lan hoa chỉ: Giải thích thì hơi trừu tượng, thôi ta để hình luôn ‘x’

Ps cho Lan hoa chỉ của the original, the one and only – Captain Jack Sparrow =))

[4] Thuốc lá Tiểu niếp: Một nhãn hiệu thuốc lá thuộc sở hữu của Hoàng Sở Cửu, rất thịnh hành vào thập niên 30 tại Thượng Hải.

Hoàng Sở Cửu (1872 – 1931) là một nhà tài phiệt tiếng tăm của Thượng Hải đầu thế kỷ. Ông vốn sinh ra tại Chiết Giang, lúc còn trẻ thì học nghề nhãn khoa Trung Y gia truyền, sau đó mở một phòng khám Di Thọ Thất tại Thượng Hải. Năm 1890 ông từ bỏ trung y, theo ngành thuốc tây, lập ra hiệu thuốc Trung Pháp. Năm 1907 hợp với Hạ Túy Phương cùng mở hiệu thuốc Ngũ Châu rất đình đám. Giàu có lên, ông bắt đầu mở rộng lĩnh vực kinh doanh sang sân khấu, thương mại, và cả thuốc lá. Người ta gọi những đại công y ông lập ra là “tơ rớt” đầu tiên của Trung Hoa. Sau này Hoàng Sở Cửu vì các hoạt động đầu cơ thất bại mà trở nên ngập đầu trong nợ nần. (Baike)

Ôkê bây giờ chúng ta sang một bài học vềMarketing kinh điển.

Nhãn hiệu thuốc lá “Tiểu niếp” được Hoàng Sở Cửu khai sinh ra để cạnh tranh với thương hiệu Anh hài của công ty thuốc lá Anh Mỹ (British American Tobacco Co. China – BAT). BAT là một tập đoàn về thuốc lá rất mạnh trên thế giới, hiện nay họ đang sở hữu các nhãn hiệu thuốc lá quốc tế Dunhill, Kent, Lucky Strike, Pall Mall, Vogue, Rothmans, Winfield, State Express 555, KOOL, và Viceroy. Ngoài ra, còn một loạt nhãn hiệu địa phương khác. (wiki) BAT cũng có chi nhánh tại Việt Nam, văn phòng nằm ở Nguyễn Huệ, quận I. TP.HCM.

BAT thành lập năm 1902 tại Luân Đôn. Năm đó, vừa vặn qua 60 năm chiến tranh nha phiến giữa Phương Tây và Trung Quốc, và với một thị trường đầy những khách hàng tiềm năng của thuốc lá, BAT nghĩ mình có thể làm ăn sinh lời tại Trung Quốc. Và tháng 6.1902, BAT mở chi nhánh của mình tại Thượng Hải, mở nhà xưởng, lập ra các hiệu bán thuốc lá, tạo ra các thương hiệu lớn và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường.

Hoàng Sở Cửu thấy thuốc lá là ngành sinh lãi rất cao, và lúc này các hiệu thuốc tây y của ông không đã không còn cạnh tranh nổi với các hiệu thuốc nước ngoài, nên ông quyết định mở ngành kinh doanh thuốc lá.

Lúc đó, nhãn thuốc lá được BAT đẩy mạnh kinh doanh nhất là “Anh hài” (trẻ con mới sinh). Hoàng Sở Cửu thì nghĩ, người Thượng Hải ưa gọi những bé gái mới sinh là “Tiểu niếp” (niếp: bé gái), nên nhãn “Tiểu niếp” sẽ dễ được người Thượng Hải ưa chuộng hơn vì cảm giác thân thiết với họ.

Chiến lược quảng cáo cho thuốc lá Tiểu niếp rất hoành tráng và cực kỳ thông minh. Trước lúc tung sản phẩm ra, Hoàng Sở Cửu bao thầu trang nhất các tờ báo lớn tại Thượng Hải trong 4 ngày. Ngày thứ nhất là hình một quả trứng đỏ thật to, không kèm bất cứ thuyết minh nào. Ngày thứ hai là ảnh mái tóc đen nhánh một bé gái. Ngày thứ ba là ảnh một đứa trẻ tròn trịa vô cùng đáng yêu. Tất cả đã khơi gợi sự tò mò của độc giả. Đến ngày thứ tư, là báo hỉ với công chúng sự thành lập của công ty thuốc lá Phúc Xương. Thuốc lá “Tiểu niếp” là báo hỉ với mọi người, kính tặng quả trứng đỏ chúc đại gia sớm sinh quý tử. Người hút thuốc đổ xô mua Tiểu niếp, để cầu may.

Chiêu thức quảng cáo này trên cơ rất nhiều so với chiến dịch quảng cáo cho loại thuốc lá sấy hiệu “Phỉ điểu” (chim trả) của BAT. BAT cho những phu xe ở Thượng Hải mặc áo ghi lê có chữ “Khảo” (烤, có nghĩa là sấy). Chiến dịch này tuy tân kỳ và hấp dẫn không ít người hút thuốc lá, nhưng lại quá theo tư duy Phương Tây. Cho nên trước “Trứng gà đỏ” đánh vào những tập quán truyền thống trung Hoa của Hoàng Sở Cửu thì BAT phải chịu lép vế.

những thiết kế bao thuốc lá rất rực rỡ và phong phú về đề tài thời bấy giờ

Hoàng Sở Cửu cũng tận dụng những nơi ăn chơi của mình tại Đại Thế Giới để quảng cáo cho Tiểu niếp, bằng cách ai mua vé vào cửa thì tặng thuốc cho hút thử.Do đó khách đến chơi ở Đại Thế Giới đa phần đều phì phèo điếu Tiểu niếp, khiến nhãn hiệu này trở nên thịnh hành một thời.

Tuy nhiên, Tiểu niếp đã chết non. Bởi quảng cáo thông minh là chưa đủ. BAT bắt đầu phản pháo, đẩy nguồn vốn cung ứng cho chi nhánh Thượng Hải lên gấp nhiều lần Phúc Xương của Hoàng Sở Cửu, bức nhãn hiệu Tiểu niếp đến khi hoàn toàn biến mất khỏi thị trường.

Phai và nhòa