Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất

Chương 40: Thề ước [1]



Tình ca của Ngài quanh quẩn trên cao nguyên, như áng mây đầy trời, có làn khói không dứt. Kinh phướn phấp phới trong gió, như đang vẫy tay, cũng là đang kêu gọi. Còncó những kinh luân chuyển động mãi không ngừng, kể lể những lời ngườiđời nghe mãi không hiểu.

Dường như mọi câu chuyện đều không thiếu được một đoạn ly biệt. Nếu nói bắt đầu là vì kết thúc, thế thì gặp gỡlà để biệt ly. Trong mắt nhiều người, ly biệt nên mang một vẻ đẹp thêlương thương cảm, nhưng tôi cho rằng, có nhiều ly biệt lại đem đến chongười cảm giác như trút bỏ gánh nặng. Vì không phải cứ sống với nhau làkhiến người người vui vẻ, thời gian lâu rồi thường sinh ra lòng chánngán. Lúc đó, điều mong mỏi chính là ly biệt, dù ngắn ngủi hay lâu dài,chỉ nguyện ý xa nhau. Chưa từng nghĩ, vừa xa cách đã là một đời. Luônmuốn tìm cớ gặp lại, nhưng vẫn bị năm tháng phũ phàng, từ nay về sau,không còn gặp nhau được nữa.

“Trường đình ngoại, cổ đạo biên,phương thảo bích liên thiên[1]…” Biệt ly trong tưởng tượng nên là nhưvậy, đường cũ lưu luyến, trường đình tiễn biệt, người ra đi kéo vạt áolau nước mắt, cảm thương vô hạn. “Phong tiêu tiêu hề Dịch Thủy hàn,tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn[2].” Hoặc là sông Dịch tiễn biệt, thê lương bất tận. Còn tôi luôn nghĩ đến tình cảnh ba trăm năm trước khiTsangyang Gyatso rời đất tuyết cao nguyên, mây núi mênh mông, gió trănglồng lộng, thì nên là một vẻ hoang vắng thế nào? Vạn vật đều đang tiễnbiệt Ngài, rơi lệ vì Ngài, cảnh tượng này so với tiễn biệt ở trường đình và sông Dịch càng làm cảm động lòng người, càng bi ai thê lương.

[1] Ngoài trường đình, bên đường cũ, cỏ thơm xanh tận chân trời. Đây là cakhúc “Tống biệt”, nhạc John Pond Ordway (Mỹ), lời Lý Thúc Đồng (TrungQuốc).

[2] Gió hiu hắt chừ, sông Dịch lạnh ghê. Tráng sĩ ra đichừ, không bao giờ về. Đây là hai câu thơ Kinh Kha ứng tác với các bạnđi tiễn ở sông Dịch, trước khi sang Tần hành thích vua Tần.

Lầnnày Ngài đi, giống như Kinh Kha hành thích vua Tần, vĩnh viễn không trởlại. Không ai có thể đoán trước được số mệnh tương lai của Ngài, ngay cả bản thân Ngài, đó cũng là một điều khó đoán, có thể là khởi đầu mớitrong cuộc đời Ngài, có lẽ chỉ là kết thúc. Tình ca của Ngài quanh quẩntrên cao nguyên, như áng mây đầy trời, vương làn khói không dứt. Kinhphướn phấp phới trong gió, như đang vẫy tay, cũng là đang kêu gọi. Còncó những kinh luân chuyển động mãi không ngừng, kể lể những lời ngườiđời nghe không hiểu. Có chúc phúc, có bịn rịn, có cảm thán…

Saukhi Ngài rời khỏi cung Potala, con chó vàng già từng giữ bí mật cho Phật sống cô độc chết đi. Không ai biết nó từng có lời hẹn với Đạt Lai thứ6; những ngày ấy, chó vàng trung thành canh giữ ở cửa bên cung Potala,đợi người chủ của nó trở về trước bình minh. Nếu không phải trận tuyếtlớn kia đã tiết lộ bí mật Tsangyang Gyatso một mình ra ngoài cung, conchó vàng già đến chết cũng sẽ bảo vệ người chủ trẻ tuổi. Chuyện trên đời thật sự là nhân quả liên kết với nhau, Phật sống rời khỏi cung điện đẹp đẽ sang trọng thuộc về Ngài, con chó vàng già giữ cửa dùng cái chết đểchứng minh lòng kiên trinh. Chỉ là tất cả quá trình này, đều lặng lẽ âmthầm, không ai hay biết.

Năm xưa Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso dẫn mấy ngàn sư sãi, rầm rầm rộ rộ từ Lhasa xuất phát, đến thành Bắc Kinh,được vua Đại Thanh tiếp đãi với lễ tiết tối cao. Giờ đây cũng cùng làĐạt Lai Lạt Ma, nhưng Tsangyang Gyatso lại đeo hình cụ, bị áp giải vềkinh. Một vị Phật sống, một tên tù phạm, giống như một vở hý kịch bi ai, một màn luân hồi buồn cười. Đạt Lai thứ 6 chẳng phải là linh đồngchuyển thế của Đạt Lai thứ 5 sao? Nếu linh hồn thật sự có thể khôngchết, với cống hiến của Lobsang Gyatso đối với chính giáo Tây Tạng, kiếp này sao phải chịu dày vò như thế? Chúng ta không nên hoài nghi nhưLha-bzang Khan, chúng ta nên giống tất cả tín đồ Tây Tạng, tin tưởngTsangyang Gyatso là Phật sống thật, vì Ngài có một trái tim còn từ bi đa tình hơn Phật. Ngài là lạc lối bồ đề, Phật sẽ không vì Ngài lạc lối màlưu đày Ngài.

Ở Tây Tạng có một truyền thuyết mỹ lệ thế này, saukhi Tsangyang Gyatso đi khỏi, tất cả các cô gái từng say đắm Ngài trongthành Lhasa đều sơn phòng ốc nhà mình thành màu vàng, làm kỷ niệm vĩnhviễn. Các cô mong mỏi, biết đâu Tsangyang Gyatso sẽ bước ra từ mảng sắcvàng tươi ấm áp này, mỉm cười với họ, uống rượu ca hát cùng họ, ôm hônhọ. Truyền thuyết thật là đẹp đẽ thắm thiết, nếu tôi sống ở thành Lhasa, cũng sẽ sơn nhà mình thành màu vàng, không vì kết tình duyên vớiTsangyang Gyatso, chỉ vì một câu chuyện sinh động đến nỗi có thể khiếnngười rơi lệ.

Ba trăm năm đã qua, rất nhiều ngôi nhà nhỏ màu vàng tươi trong truyền thuyết sớm đã không còn tồn tại nữa, thậm chí khônghề để lại một dấu vết nào. Nhưng tôi tin truyền thuyết là thật, các côgái nhất định sẽ dùng phương thức si tình để hoài niệm Dangsang Wangpo,tình lang đẹp nhất trong thành Lhasa. Ngày nay chỉ còn lại quán rượu nhỏ tên Makye Ame trên phố Barkhor, ngôi nhà nhỏ không chút bắt mắt, nhưngmỗi ngày khi đèn hoa vừa thắp lên là khách khứa ra vào tấp nập. Họ đếntừ các thành phố khác nhau, mang theo bụi đất của các địa phương khácnhau, tín ngưỡng khác nhau, chỉ vì một tâm tình giống nhau. Là thơ tìnhcủa Tsangyang Gyatso đã cảm động họ, là tình yêu của Ngài đã lay độnghọ, do đó bằng lòng vì một truyền thuyết, đến đây nhớ lại một quãng thời gian đã trôi qua.

Thật ra thực sự có thể tìm được những gì? Nóicách khác, quán rượu nhỏ này quả đúng có lưu lại vết tích của họ chăng?Chúng ta không hề muốn dối mình dối người, nhưng thà rằng tin tưởng tấtcả đều từng tồn tại, nhiều người cần dựa vào những giấc mơ tươi đẹp nàyđể điểm tô đời sống cay đắng vô vị. Do đó mới có rất nhiều người bấtchấp tất cả đeo tay nải lên hối hả đi xa, chỉ vì những câu chuyện vàtruyền thuyết không thể xác định. Hiện thực khiến con người con người có quá nhiều gánh nặng, không ai cam nguyện kéo kén tự buộc mình, dù vìmột giấc mơ hư vô đi đến chân trời cũng không hối hận. Mê say tạm thờikhông có nghĩa sẽ say hoài không tỉnh, mỗi người chỉ xây đắp trong lòngmột chốn thế ngoại đào nguyên nhỏ hẹp, không bị thế giới bên ngoài quấyrầy, có thể yên ổn thanh tịnh.