Đức Phật Và Nàng

Chương 59: Lưu luyến



Chúngtôi bị đưa về thành Khâu Tử và được sắp xếp ở trong cung. Tuy không xa hoa nhưtẩm cung của công chúa Wusun khi xưa, nhưng nơi đây không thiếu thốn thứ gì cảvà còn có cung nữ phục dịch. Nhưng điều quan trọng là chúng tôi được tự do hơntrước đây. Lữ Quang viện cớ muốn nghe thuyết giảng Phật pháp, buộc Rajiva ngàyngày kề cận bên ông ta. Rajiva giống như một vị cố vấn, ngày nào cũng túc trựcbên Lữ Quang, nên không thể tham gia bất cứ hoạt động nào của chùa Cakra.

NgheRajiva than vãn về công việc chính sự nhàm chán hàng ngày của mình, tôi chợthiểu ra mục đích của Lữ Quang. Ông ta không còn muốn chèn ép Rajiva, cũngkhông còn giữ ý đồ lợi dụng biến chàng trở thành “cơ quan ngôn luận” của ông tanữa. Nhưng lòng nhiệt thành với ý tưởng và tôn giáo của chàng khiến ông ta longại. Chùa Cakra chỉ cách thành Khâu Tử chừng bốn mươi dặm. Số lượng tăng sĩ vàdân chúng trong thành cộng lại cũng đến hàng vạn người. Như vậy có nghĩa là,chỉ cần Rajiva lên tiếng kêu gọi, sẽ có một lượng không hề nhỏ bé ủng hộ chàng. Vì vậy, Lữ Quang không yên tâm để chàng tự do tự tại ngoài tầm kiểm soátcủa ông ta. Ông ta muốn Rajiva luôn ở cạnh mình để dễ bề kiểm soát. Tôi nói vớiRajiva, kẻ nắm quyền lực xưa nay vẫn vậy. Vua chúa trong lịch sử đều không muốncác bậc cao tăng có sức mạnh hiệu triệu an cư tại những nơi mà nhà vua khôngthể kiểm soát, như những vùng núi đồi xa xôi, hẻo lánh. Vì rất có thể, khi sốlượng tín đồ trở nên đông đảo, có kẻ nuôi dã tâm làm phản thì sao? Đường TháiTông tin yêu Trần Huyền Trang là thế, vậy mà khi đại sư đã luống tuổi, muốn tớichùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn an cư và dịch thuật kinh Phật, vua Đường đã từ chốithẳng thừng. Đây là một minh chứng rõ nét cho chủ nghĩa cá nhân cực đoan củacác bậc đế vương.

Rajivachìm trong suy tư hồi lâu. Cuộc sống an nhiên tự tại, muốn gì được nấy trướcđây khiến Rajiva xem thường quyền lực thế tục. Thực ra, cho đến lúc này, chàngvẫn chưa nhận ra, tôn giáo vĩnh viễn không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc củaquyền lực thế tục. Thế lực lớn mạnh của giáo đường Roma thời kỳ Trung thế kỷlan tỏa khắp châu Âu, khiến tôn giáo này nghiễm nhiên trở thành sức mạnh thốngtrị của châu Âu. Thế nhưng, hoàng tộc các tiểu quốc châu Âu không chịukhuất phục, đã dấy lên các cuộc cải cách tôn giáo. Nổi bật nhất là cuộc cảicách tôn giáo của vua Henry VIII ở nước Anh. Ngài đã tự lập ra một tôn giáo vàđặt làm quốc giáo, tuyên bố khai trừ Giáo Hoàng Roma ra khỏi danh sáchnhà lãnh đạo các tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa tôn giáo và quyền lực thế tục đãdiễn ra trong suốt chiều dài lịch sử châu Âu thời kỳ Trung thế kỷ. Kết quả, tôngiáo đã phải lùi bước, trở thành công cụ thống trị tinh thần và phụ thuộc vàocác vương triều.

Saukhi Lữ Quang công phá Khâu Tử, Rajiva đã bảo vệ mọi thứ bằng cả tính mạng và sựtôn nghiêm của mình, nhưng trong cuộc đối đầu kịch liệt với nhà cầm quyền ấy,thực tế là chàng luôn rơi vào thế yếu. Mặc dù thế sự hỗn loạn đã tác hợp chochúng tôi nên duyên, nhưng xét ở một góc độ khác, rõ ràng, đó chính là sự thấtbại thảm hại của tôn giáo. Nhưng tôi không muốn giải thích cho chàng những lýluận kinh tế chính trị học này. Vì giả như chàng hiểu và chấp nhận những lýthuyết này đi nữa, tôi cũng không nên để tư tưởng của thời hiện đại ảnh hưởngđến chàng. Nhưng tôi tin, chàng sẽ nhận ra chân lý này, bởi vì khi Diêu Hưngxuất hiện, chàng đã biết tận dụng sự trợ giúp của sức mạnh thế tục để hoànthành sứ mệnh của mình. Có điều, phải mất mười bảy năm trăn trở, mười bảy nămđằng đẵng trôi trong vô nghĩa ở Guzang, chàng mới nhận ra chân lý này. Như thếcó phải là rất đáng buồn hay không? Hay ta hãy xét ở góc độ lạc quan, và xemmười bảy năm đó là khoảng lặng cần thiết, để chuẩn bị cho hành trình vinh quang,sáng lạn nhất trong cuộc đời chàng diễn ra sau đó?

Tôitựa vào vai chàng, ước gì có thể truyền cho chàng sức mạnh. Dù ngày maicó ra sao, mười bảy năm có em ở bên, mong rằng chàng sẽ hạnh phúc.

-Cô Ngải Tình! Không đúng, phải gọi là công chúa mới phải.

Tôiquay lại, nhận ra Đoàn Nghiệp trong bộ áo lông cừu, đang bước thấp bước caotiến về phía tôi. Lúc này, tôi đã ra khỏi cung và đang trên đường đến phủ quốcsư thăm hai đứa nhỏ. Đoàn Nghiệp bước đến, cúi chào và niềm nở:

-Đã lâu không gặp, công chúa trông tươi tắn hơn trước rất nhiều.

Tôivội đáp lễ. Ông ta hôm đó cũng theo Lữ Quang đến chùa Cakra, nhưng chỉ nhận ratôi sau khi chúng tôi trở lại thành Khâu Tử. Lối sống của người Khâu Tử khá cởi mở, hoàngcung không có quá nhiều quy tắc nghiêm ngặt. Bởi vậy, tướng lĩnh của Lữ Quangđều được phép ra vào cung. Khi ông ta và Đỗ Tấn chạm mặt tôi, Đỗ Tấn đã nói vớiông ta, tôi chính là công chúa Khâu Tử được gả cho đại pháp sư Kumarajiva, ĐoànNghiệp vô cùng bất ngờ.

- Công chúa, trời đônggiá rét, ta có thể mời công chúa một chén rượu ấm, được không?

Đoàn Nghiệp chỉ tayvào một quán rượu ven đường, dùng ánh mắt ra hiệu cho tôi. Tôi gật đầu, đượcthôi, tôi cũng đang muốn tìm hiểu một số thông tin từ ông ta.

Đoàn Nghiệp chọn mộtbuồng riêng, chúng tôi bảo người phục vụ đứng chờ ở bên ngoài. Khi chỉ còn lạihai người, Đoàn Nghiệp hạ thấp giọng:

- Công chúa, Trường Anđã bị Mộ Dung Xung bao vây. Thiên vương không tìm ra cách đối phó, cùng lúc gửibốn lệnh triệu hồi Lữ tướng quân lập tức về kinh.

Tôi ngẩng lên nhìn ôngta, im lặng. Sách “Tấn thư” viết rằng, Mộ Dung Xung là “người đồng tính”, làcon trai út của Hoàng đế Tiền Yên – Mộ Dung Tuấn. Nhà Tiền Yên bị Phù Kiên tiêudiệt, năm mười hai tuổi, Mộ Dung Xung theo chị gái là công chúa Thanh Hà vàosống trong hậu cung của Phù Kiên, hai chị em đều được Thiên vương Phù Kiên rấtmực sủng ái. Vương Mãnh nhiều lần khuyên ngăn, Phù Kiên mới đồng ý đưa Mộ DungXung ra ngoài cung, cho làm Thái thú Bình Dương.

Đoàn Nghiệp cười mỉamai:

- Tên mọi trắng MộDung này có biệt danh là Phượng Hoàng. Ngày trước, trong thành Trường An ngườita hay kháo nhau về lời sấm truyền: “Chim phượng hoàng xuất hiện ở thành APhòng”. Thiên vương nghĩ đó là điềm may mắn, đã cho trồng mấy chục vạn cây ngôđồng và tre trúc để chờ chim phượng hoàng tới. Điều đáng nực cười là, Mộ DungXung đã đánh bại quân của Thiên vương ngay tại thành A Phòng, nhưthế chẳng phải lời sấm truyền kia đã ứng nghiệm hay sao? Thiên vương xem nhẹlời khuyến cáo của Vương Cảnh Lược[1], dung túng cho bọn người Sabir[2] nên mới có kết cục như hôm nay.

[1] Vương Mãnh, chữ làCảnh Lược.

[2] Dân tộc thiểu sốthời cổ, ở vùng Đông Bắc, Nội Mông, Trung Quốc.

Tộc người Sabir khácvới tộc người Hán, họ có nước da trắng như trứng gà bóc, lúc nào cũng tươicười, khỏe khoắn. Hoàng thất Mộ Dung toàn là những vương tử điển trai,công chúa kiều diễm, người Đê gọi họ là bọn mọi trắng. Mộ Dung mới chừng haimươi lăm tuổi, dẫn đầu một đội quân ô hợp, nhưng lực lượng của Phù Kiên lúc nàyđã suy yếu, nên mới bị dồn đuổi khỏi Trường An. Trên đường trốn chạy, Phù Kiênbị Diêu Trường (thuộc tộc người Khương) bắt. Và tháng năm năm 385 sau Côngnguyên, người hùng bi kịch của thời kỳ Thập lục quốc – Phù Kiên đã bị giết bởikẻ tiểu nhân giậu đổ bìm leo – Diêu Trường. Còn người đàn ông “nhan sắc” khuynhnước khuynh thành – Mộ Dung Xung, sau khi đánh chiếm Trường An, đã dung túngcho binh lính giết người cướp của, gây bao tội ác tày trời, biến vùng đất kinhkỳ trù phú, sầm uất thành địa ngục A Tỳ. Mộ Dung Xung không dám quay về quê cũvì sợ thế lực lớn mạnh của người chú ruột Mộ Dung Thùy. Xưng đế chưa đầy mộtnăm, Mộ Dung Xung bị thuộc hạ giết chết, khi ấy ông ta mới hai mươi bảy tuổi.

Chuỗi biến cố lịch sửkinh thiên động địa ấy đang diễn ra ở cố đô Trường An, cách tôi cả ngàn dặm,mỗi khi nghĩ đến, tôi không khỏi xúc động rưng rưng. Nhưng vì sao ĐoànNghiệp lại nói với tôi những điều này?

Như đoán được nỗi bănkhoăn trong mắt tôi, Đoàn Nghiệp tiếp tục hạ giọng, nói:

- Lữ tướng quân vẫnchần chừ chưa quyết. Nếu quay về trong bối cảnh Trường An đang bị vâykhốn bởi người Sabir và người Khương như hiện nay, sẽ rất nguy hiểm. Vả lại, cóquay về cũng chỉ hao binh tổn tướng, chẳng thể lật ngược thế cờ, nên tướng quânkhông cam lòng. Nhưng nếu không quay về, một khi vượt qua được kiếpnạn này, Thiên vương ắt sẽ truy xét tội trạng, tướng quân khó thoát khỏi tộichết.

- Vậy, Đoàn đại nhânmong tôi giúp gì cho ngài?

Tôi điềm tĩnh nhấp mộtngụm trà nóng. - Nay pháp sư ngày ngày túc trực bên tướng quân, nếu có thể, xinpháp sư mượn lời tiên tri thuyết phục Lữ tướng quân quay về Trường An. Tuykhông tín Phật, nhưng tướng quân hẳn sẽ tiếp nhận những lời tiên đoán.

Tôi chợt nảy ra ýđịnh, hỏi:

- Vì sao đại nhân muốnLữ tướng quân quay về?

- Như hầu hết anh emtrong đoàn quân, gia đình tôi cũng ở vùng Quan trung[3], tôi đêm ngày thươngnhớ cha mẹ, vợ con, nên một lòng muốn quay về.

[3] Chỉ vùng đồng bằngphù sa màu mỡ thuộc hạ lưu sông Vị Hà, dưới chân núi phía Bắc của dãy Tần Lĩnhthuộc tỉnh Thiểm Tây – Trung Quốc, trung tâm là cố đô Tây An.

Đoàn Nghiệp nở nụ cườiđầy ẩn ý, hạ giọng thêm nữa:

- “Hào quang xuất hiệnở Kiện Khang, nghiệp lớn sẽ thành ở Hà Tây”. Tôi chưa biết Kiện Khang và Hà Tâylà vùng đất nào, nhưng chắc chắn không thể là Tây vực. Đoàn Nghiệp tôi muốn nênnghiệp lớn, không thể cứ níu chân ở Khâu Tử này mãi.

Tôi khá bất ngờ, thìra ý đồ của ông ta là vậy! Chưa xét đến thực lực, giống như hầu hết các vị namnhi đại trượng phu, luôn tự vỗ ngực xưng anh hùng của thời đại này, Đoàn Nghiệpcũng nuôi dã tâm lớn. Tôi trầm tư hồi lâu mới cất tiếng:

- Tôi ra ngoài đã lâu,đến lúc phải về rồi. Đứng lên, bước ra cửa, ngập ngừng một lát, tôi nói:

- Một mình pháp sưkhông thể khiến Lữ tướng quân hạ quyết tâm trở về. Sao Đoàn đại nhân không nghĩcách để Đỗ đại nhân thuyết phục Lữ tướng quân? Nếu không hành động nhanhchóng, chờ khi việc phân chia thiên hạ đã được an bài, Lữ tướng quân có trở vềcũng chỉ còn cơm thừa canh cặn mà thôi.

Lữ Quang cuối cùngcũng ra đi. Lúc này là cuối tháng mười hai, tuyết dày khiến giao thông trên conđường tơ lụa bị ngừng trệ. Bởi vậy, phải chờ vài tháng nữa, Lữ Quang mới lênđường. Hôm đó, sau khi phân tích cục diện của Trung Nguyên, tôi nói vớiRajiva:

- Rajiva, chàng phảikhuyên ông ta trở về Trung Nguyên.

Sử sách chép rằng, LữQuang nghe lời khuyên của Rajiva mới quay về Trường An. Nhưng tôi không chorằng Rajiva có sức ảnh hưởng lớn đến ông ta đến thế. Mâu thuẫn giữa họ không dễxóa bỏ nhanh chóng như vậy. Lữ Quang chần chừ, phần vì ông ta muốn có thêm thờigian vơ vét của cải của Khâu Tử, phần vì muốn quan sát tình hình ở TrungNguyên. Ông ta quay về, không phải vì sợ uy Phù Kiên, mà vì muốn chiếm một vùngđất sau khi Đế quốc Tiền Tần tan rã. Các quốc gia ở Tây vực giống như những ốcđảo nhỏ giữa vùng hoang mạc khắc nghiệt, thực lực yếu ớt, muốn chiếm cứ và quảnlý cả vùng Tây vực, ông ta sẽ phải bỏ ra rất nhiều công sức. Trong khi các vùngđất ở Trung Nguyên lại rộng lớn, màu mỡ, dễ dàng thiết lập và củng cố chínhquyền. Thêm vào đó, binh lính của ông ta đều là người Quan trung, xa nhà đãlâu, ai nấy đều mong quay về. Bởi vậy, sau khi cân nhắc thiệt hơn, Lữ Quangnhận thấy quay về vẫn là thượng sách. Chỉ cần Rajiva và Đỗ Tấn cùng tác động,chắc chắn Lữ Quang sẽ sớm đưa ra quyết định.

- Ta hiểu. Nếu ông tara đi, đó là may mắn của Khâu Tử.

Chàng ngắm nhìn nhữngbông tuyết trắng ngút bên ngoài cửa sổ với ánh mắt lưu luyến. Vài tháng nữa,chàng sẽ phải rời xa quê hương, không hẹn ngày trở về. Tôi đan tay mình vào taychàng, dựa đầu vào vai chàng, cùng chàng lắng nghe tiếng tuyết rơi ào ạt ngoàikia. Đây là lần cuối cùng chúng tôi được ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp này.

Tết Nguyên đán củangười Hán, Lữ Quang tổ chức rất náo nhiệt. Người Đê bị Hán hóa đã lâu, nên phongtục tập quán không khác gì người Hán. Đèn hoa chăng kết khắp nơi trong hoàngcung. Đêm giao thừa, chúng tôi được mời đến đại diện tham dự yến tiệc. Lữ Quangtuyên bố sang xuân sẽ khởi hành về Trung Nguyên, tướng sĩ hoan hô vang dội. Ôngta quay sang Rajiva, nói rằng Thiên vương Đại Tần có lời mời pháp sư đến TrườngAn thuyết pháp. Rajiva bình thản gật đầu. Khi màn trình diễn ca múa hát bắtđầu, Lữ Quang không cho phép Rajiva ra về, chỉ đồng ý để chàng uống trà thayrượu. Đến tận nửa đêm, khi pháo hoa rợp trời, yến tiệc mới kết thúc, vậy là năm385 sau Công nguyên đã đến. Biến cố lịch sử lớn nhất trong năm này là cái chếtcủa Phù Kiên. Cùng với kết cục đó, vùng đất Trung Nguyên chuyển sang một thờikỳ mới.

Cũng trong năm 385 sauCông nguyên, “người đồng tính” Mộ Dung Xung xưng đế, lập nước Tây Yên. Nhưng vìchính quyền rối ren, không lâu sau đã sụp đổ, nên Tây Yên không được liệt vàodanh sách các nước nhỏ thời Thập lục quốc.

Cũng vào năm này, vịvua đầu tiên của nhà Hậu Tần – Diêu Trường đã giết chết Phù Kiên, tấn công MộDung Xung ở Trường An. Năm kế tiếp Diêu Trường chiếm cứ và biến Trường An thànhkinh đô của nhà Hậu Tần, cho tới khi Lưu Dục tiến hành cuộc Bắc phạt, tiêu diệtHậu Tần.

Cũng năm này, KhấtPhục Quốc Nhân – người Sabir ở Lũng Tây lập nên chính quyền ở vùng đất mà naylà phía Nam Cam Túc và phía Bắc Thanh Hải. Nhưng vì thế lực nhỏ bé, phải phụthuộc vào các quốc gia lớn hơn, nên chỉ dám xưng hiệu là Thiền vu, Đô đốc, Tầnvương. Sử gọi là nước Tây Tần.

Cũng năm này, trênthảo nguyên Nội Mông xuất hiện một nhân vật anh hùng. Bộ lạc Thác Bạt(thuộc tộc người Sabir), dưới sự lãnh đạo của Thác Bạt Khuê (lúc này mới mườisáu tuổi) đã lập ra nhà Bắc Ngụy. Năm 439 sau Công nguyên, Bắc Ngụy tiêu diệtBắc Lương – tiểu quốc cuối cùng của thời Thập lục quốc. Miền Bắc Trung Quốc,sau 135 năm chiến tranh loạn lạc, cuối cùng đã được thống nhất, mở ra thời kỳNam Bắc triều kéo dài 150 năm lịch sử, cho đến khi nhà Tùy thống nhất TrungQuốc.

Tôi cùng Cầu Tư vàVịnh Tư chơi trò đắp người tuyết ở sân sau. Hai đứa trẻ được quấn bọc trongnhững bộ quần áo dầy bịch, ấm áp, khuôn mặt tròn xoe, hai má đỏ hây hây, đángyêu vô cùng. Đắp người tuyết chán lại đến trò oẳn tù tì, ai thua sẽ phải bịtmắt bắt dê. Tiếng cười lanh lảnh vang khắp sân vườn. Tôi vờ thua, bịt mắt giảlàm ngáo ộp, hai nhóc con chơi đùa thỏa thích.

- A, bắt được rồi!

Không phải, thânhình này chắc chắn không phải trẻ con. Kéo khăn bịt mắt xuống, Pusyseda cườirạng rỡ trước mặt tôi.

- Ngải Tình, chị vẫnngốc nghếch giống hệt hơn hai mươi năm trước.

Một cục tuyết rơitrúng cậu ta, không phải tôi ném đâu, mặc dù tôi rất muốn. Cầu Tư cười ha ha,chạy biến, đến lượt Pusyseda bịt mắt làm ngáo ộp. Lúc sau, hai đứa trẻ mồ hôinhễ nhại, Pusyseda gọi người hầu đưa chúng đi thay quần áo.

Tôi nhìn theo hai đứatrẻ, thở dài:

- Ước gì tôi cũng cónhững đứa trẻ đáng yêu thế này.

- Nếu lúc đầu chị đồngý lấy tôi, thì chúng đã là con trai và con gái của chị rồi.

Tôi giật mình ngẩnglên, bắt gặp ánh mắt đùa cợt tinh quái của cậu ta, vẻ điển trai ấy vẫn khiếnngười đối diện phải ngạt thở. Tôi hơi bàng hoàng, dường như được thấy lạiPusyseda của ngày xưa, lúc cậu ta nói với tôi: Chị có muốn chồng mình là mộtngười thường không? Thấy tôi không lên tiếng, cậu ta hắng giọng,khẽ nói: - Vào nhà đi, mồ hôi ra, dễ cảm lạnh lắm!

Hiểu Huyên đang ngồibên lò sưởi, vừa cởi than vừa khâu vá. Nhìn thấy Pusyseda, nét mặt rạng rỡ,bước đến đón lấy áo khoác của chồng.

- Mấy ngày nay tôi bậntối tăm mặt mũi. Lữ Quang là kẻ tham lam, như thể hắn muốn khuân cả Thuận Tử đitheo.

Cậu ta bực dọc:

- Đức vua muốn tốngkhứ hắn đi, nên chấp thuận mọi yêu cầu.

Cậu ta bước đến bên lòsưởi, gắp một viên than bỏ vào rồi tiếp tục:

- Lữ Quang đã quyếtđịnh sẽ khởi hành vào ngày mồng Một tháng ba. Hắn nói sẽ đưa đại ca đi cùng vìPhù Kiên muốn nghe thuyết pháp.

Cậu ta cười khẩy:

- Phù Kiên làm gì còntâm trí nghe thuyết giảng kinh văn Phật pháp nữa. Nếu ông ta bị hạ bệ, TrungNguyên sẽ đại loạn.

Cậu ta ngẩng lên nhìntôi, ánh mắt đầy lo lắng:

- Ngải Tình,thời điểm này đến Trung Nguyên sẽ vô cùng nguy hiểm.

- Chúng tôi đâu thể tựmình quyết định việc đó. Tôi cúi xuống lò lửa rực hồng:

- Cậu yên tâm, sẽkhông có chuyện gì xảy ra cả, chúng tôi cũng không đến Trường An ngay, mà sẽlưu lại Guzang.

- Có quay về đây nữakhông?

Im lặng. Chủ đề đaulòng này cuối cùng cũng được nhắc tới.

-Tôi không biết, mong là có.

Tôikhông dám nhìn vào mắt cậu ta, vì tôi biết, chúng tôi sẽ không còn gặp lại,lòng tôi đau như cắt.

-Muộn rồi, tôi phải về.

Tôiđứng lên, tạm biệt Hiểu Huyên, bước vội.

-Chờ đã.

Pusysedakéo tay tôi lại, đôi mắt màu xám nhạt dừng lại trên gương mặt tôi, cậu ta địnhnói gì đó mà không thể cất lời.

-Tôi…

Cậuta có vẻ rất xúc động, ánh mắt trôi về một hướng khác, ngập ngừng:

-Tuyết lớn lắm, để tôi đưa chị về.

-Không cần đâu…

Tôicũng ngó sang một hướng khác, bỗng thấy Hiểu Huyên mang áo ra choPusyseda, lặng lẽ khoác lên vai cậu ấy. Chúng tôi bước đi trên tuyết, giữ mộtkhoảng cách nhất định. Những bông tuyết trắng muốt ràn rạt đổ xuống, chỉ mộtlát đã phủ lên cầu vai chúng tôi từng lớp tuyết mỏng. Pusyseda không chọnđi trên con phố chính quen thuộc, mà đưa tôi vòng vèo qua con ngõ nhỏ phía sauhoàng cung. Phố xá vắng tanh, chỉ có tiếng bước chân chúng tôi xào xạo trêntuyết, vang động cả ngõ nhỏ.

Dánghình cao lớn phía trước bỗng nhiên dừng lại, vẻ mặt nghiêm trọng:

- Ngải Tình, nói thật cho tôi biết, tôi còn được gặp lại chị nữa không?

Tôinhắm mắt lại giây lát rồi mở ra, nhìn Pusyseda thật lâu, lưu lại trong trí nhớtừng đường nét gương mặt cậu ta, vừa khe khẽ ngâm ngợi:

-Ra đi lại ra đi, Cùng chàng sinh biệt ly. Xa nhau hơn vạn dặm, Mỗi kẻ mộtphương chia. Đường dài bao hiểm trở, Gặp nhau biết có khi? Ngựa Hồ run gió bắc,Chim Việt đậu cành nam. Đã lâu ngày xa cách, Áo mặc cũng rộng thêm. Trên trờimây che khuất, Người đi chẳng ngoái xem. Nhớ chàng người già béo, Chợt sắp hếttháng năm. Lời xưa thôi nói lại, Chỉ mong bữa thêm cơm.[4]

[4]Đây là bài thơ ngũ ngôn khuyết danh thứ 19 trong tập thơ “Mười chín bài thơ cổ”lưu truyền từ đời Hán ở Trung Quốc (Bản dịch của Diệp Luyến Hoa)

-Ngải Tình…

Lặngđi trong âm hưởng buồn se thắt của lời thơ, Pusyseda nghẹn ngào, nước mắtlưng tròng. Cánh tay run run đặt lên vai tôi. Khi dòng thơ cuối cùng khép lại,cậu ta đã khóc nấc lên, kéo tôi vào lòng. Tôi ngả vào vai Pusyseda, cảm nhậnhơi thở gấp gáp và khuôn ngực vạm vỡ của cậu ấy. Những bông tuyết nhẹ tênh saxuống, nhanh chóng tan ra, hòa cùng nước mắt, lạnh buốt, tựa cõi lòng giá băngcủa tôi lúc này.

-Hãy chăm sóc Hiểu Huyên và mấy đứa nhỏ thật chu đáo…

Tôinức nở:

-Tôi sẽ rất nhớ cậu…

-Tôi biết rồi… Pusyseda lau nước mắt cho tôi, nhưng để mặc nước mắt mình chảytràn trên má. Khóe môi run run, mấy lần muốn nói điều gì đó, nhưng không cấtnổi nên lời. Cậu ta hít một hơi thật sâu, gắng gượng nở một nụ cười rạng rỡ:

-Nhớ bảo trọng…

-Tôi hứa.

Tôicũng lấy hết sức đáp lại, như thể chỉ có như vậy mới diễn đạt được hết tâmtrạng của tôi lúc này. - Pusyseda, cảm ơn đã làm tất cả cho tôi… Cậu ta lại kéotôi vào lòng, vòng tay ngày một xiết chặt hơn:

-Chị hiểu mà, chỉ cần chị hạnh phúc, tôi sẽ làm tất cả…

-Tôi rất hạnh phúc, thật đó! Cậu đã tặng hạnh phúc cho tôi, cảm ơn cậu…

Tôingồi bên cửa sổ, mải mê ngắm nghía chiếc trâm ngọc xinh xẻo trên tay. Một chuỗihạt nhỏ thả xuống từ chiếc mỏ bằng vàng của chim phượng hoàng. Đó là món quàPusyseda tặng tôi lúc chia tay, cậu ta vẫn nhớ sinh nhật của tôi. Cậu ta cònlưu lại trên trán tôi một nụ hôn mang theo cái giá lạnh của mùa đông, giống nhưkhi xưa, lúc tôi trở về thế kỷ XXI. Nụ hôn mà tôi sẽ ghi nhớ suốt đời…

-Đang ngắm nghía gì vậy?

Vộigạt nước mắt, mỉm cười quay lại nhìn chàng. Ánh mắt chàng dừng lại nơi chiếctrâm ngọc, hồi lâu mới lấy ra từ trong áo một chiếc hộp, đưa cho tôi.

Mởhộp ra, tôi thấy một đôi nhẫn cưới, kiểu dáng đơn giản, nhưng rất tinhxảo. Chàng nâng bàn tay trái của tôi lên, đeo vào ngón áp út chiếc nhẫn nhỏ.Rồi đưa tay ra trước mặt tôi, mỉm cười.

Chàngtừng hỏi tôi về hôn lễ thời hiện đại. Tôi đã miêu tả rằng, cô dâu chú rể sẽtrao nhẫn cưới cho nhau và phải lồng nhẫn vào ngón áp út. Chẳng ngờ, chàng đãghi nhớ điều đó.

Tôilồng chiếc nhẫn to hơn vào ngón tay chàng, rồi ngẩng lên nhìn chàng. Chàng dịudàng tươi cười, cài chiếc trâm ngọc lên tóc tôi.

-Chúc mừng sinh nhật!

Chàngghé sát vào tai tôi, khe khẽ hát. Giai điệu lệch lạc, nhưng vẫn có thể nhận rađó là bài hát chúc mừng sinh nhật mà 23 năm trước tôi đã dạy chàng và Pusyseda.Giọng hát êm ái của chàng khiến tôi mê đắm, tựa hồ làn sóng dặt dìu làm dịu máttâm hồn tôi.

-Nàng đã kìm nén rất khổ sở rồi. Chàng hát xong, ôm tôi vào lòng: - Muốn khóc,hãy khóc đi.

Trong vòng tay ấm áp củachàng, tôi bật khóc nức nở.