Đức Phật Và Nàng

Chương 10



Cuốicùng, chúng tôi cũng lên đường đi Khâu Từ. Buổi đưa tiễn diễn ra rất náo nhiệt,dân chúng Wensu từ mọi ngả đổ ra phố chính, đứng chen chân hai bên đường. Đứcvua Wensu đích thân cưỡi ngựa tiễn đoàn chúng tôi mấy mươi dặm.

Đi cùngvua chúa quả có khác, chúng tôi được chăm sóc rất chu đáo và vương giả, kháchẳn với khi tôi đi cùng mẹ con Rajiva. Hàng ngày, Rajiva vẫn đều đặn đến lántrại của tôi học bài sau giờ tụng kinh buổi chiều. Giờ đây tôi đã có sách trongtay, nên bài giảng cũng ngày một trọn vẹn và sâu rộng hơn, tôi luôn mở rộng, bổsung kiến thức mới cho Rajiva. Tôi thường vận dụng những câu chuyện lịch sử làmdẫn chứng minh họa cho những đạo lý sâu xa của cổ nhân, Rajiva rất hứng thú vàluôn hết lời khen ngợi.

VuaBạch Thuần đã có lần đến kiểm tra việc dạy học của tôi, tiếng Hán của ngài rấttrôi chảy. Khi ấy tôi đang giảng sách Luận ngữ “Chương 9: Tử Hãn”, Nhà vua chọnra một câu để thử tài tôi, câu đó là: “Tử viết: Ngô vị kiến hiếu đức như hiếusắc giả dã”.

Câu nàyvốn rất dễ lý giải, tôi suy nghĩ một lát, đáp:

- KhổngTử than phiền rằng con người coi trọng sắc dục hơn đức hạnh. Thế nhưng người taai nấy đều ham muốn sắc dục, bởi vậy háo sắc là biểu hiện chân thực của bảntính con người. Giữa con người và sắc đẹp có sự lôi cuốn rất tự nhiên, khó lígiải nhưng vô cùng mãnh liệt. Cáo Tử từng nói: “Nhu cầu ăn uống và sắc dụcthuộc về bản năng tự nhiên của con người”. Nhưng đức hạnh thì không phải. Ngườita, nếu có coi trọng đức hạnh thì cũng không xuất phát từ nhu cầu tự thân giốngnhư ham muốn mỹ sắc. Người xưa đã vậy, người nay vẫn thế.

Tôingừng lại, Bạch Thuần không nói gì, nhưng tôi luôn có cảm giác ánh mắt ngàinhìn tôi không mấy thiện cảm. Cũng tại tôi ruột để ngoài da, chẳng suy nghĩthấu đáo, cứ thật thà phát biểu: háo sắc là thiên tính của con người. Vì saotôi không kịp nhớ rằng, xưa nay các vị hoàng đế vốn thích hô khẩu hiệu to tátvà ưa thể diện kia chứ?

Do đó,tôi vội vã bổ sung:

- Nhưngchữ “sắc” ở đây không hoàn toàn là mỹ sắc, mà chỉ tất cả những thứ đẹp đẽ. Và“đức” cũng là một trong số những thứ đẹp đẽ đó. Người coi trọng đức hạnh ngangvới coi trọng cái đẹp được gọi là quân tử. Sở dĩ Khổng Tử than phiền như vậy làvì bao năm lênh đênh, chu du khắp thiên hạ, ghé qua hầu hết các nước chư hầu,vậy mà ngài vẫn bơ vơ như kẻ không nhà, chỉ vì chưa gặp được vị quân vương nàoxem trọng người tài đức như xem trọng sắc đẹp. Nhưng nếu ngài còn sống đến ngàynay, gặp được vị vua anh minh hiếu đức như đức vua đây, hẳn ngài sẽ không cònphải thở dài buông lời cảm thán như vậy!

Biểucảm trên gương mặt Bạch Thuần vẫn không hề thay đổi, tôi hoang mang không biết“nịnh bợ” kiểu đó có chút hiệu quả nào không? “Làm bạn với vua như chơi vớihổ”, người xưa nói quả không sai! Ông ta mới là vua của một tiểu quốc Tây Vựcxa xôi mà đã vậy, nếu là Tần Hoàng Hán Vũ thì còn đáng sợ đến thế nào? Chỉ cầnkhiến các ngài không vui là mất đầu như chơi. Chợt như có một luồng hơi lạnhchạy dọc sống lưng, tôi chỉ dám hé mắt nhìn trộm ngài. Bạch Thuần không thèmđếm xỉa đến tôi, ngài nói vài câu với Rajiva bằng tiếng Tochari rồi bước rangoài.

Ngàyhôm sau, ngài nói về tôi trước mặt hai mẹ con Rajiva, rằng:

- Côgiái này còn quá trẻ, thái độ thiếu nghiêm túc, thiếu tư chất của một ngườithầy.

Tôigiận quá định bỏ đi. Ông ta tưởng tôi không hiểu tiếng Tochari chắc, hay ông tavốn chẳng thèm quan tâm tới tôi có hiểu hay không? Chắc chắn là tại điệu cườingu ngốc đó, như vậy chứng tỏ trò nịnh bợ của tôi ngày hôm qua đã tìm nhầm đốitượng rồi! Không biết tôi đã nói điều gì khiến ông ta phật ý? Ông ta bảo saukhi về Khâu Từ sẽ tìm thầy dạy khác cho Rajiva, còn nói ở Khâu Từ có rất nhiềugiáo viên người Hán tài giỏi, kiến thức uyên thâm. Rajiva cảm ơn và từ chốikhéo léo, ca ngợi tôi là giáo viên giỏi nhất mà cậu từng gặp, khen tôi là ngườilàu thông kim cổ, tỉ mỉ, tận tâm. Quả không làm tôi thất vọng. Bạch Thuần hếtcách đành quay sang thuyết phục Jiva, nhưng ni cô xinh đẹp nói, bà tôn trọng ýmuốn của Rajiva.

Jivaquả là người mẹ tuyệt vời, chả trách lúc nào Rajiva cũng yêu kính bà! BạchThuần cố nhiên là không vui, tôi biết ý nên vội vã cúi đầu, vờ như không nghethấy gì.

Chúngtôi tiếp tục vượt qua Bái Thành, trước mắt không còn là sa mạc mênh mông hoangvắng nữa. Những hẻm núi đủ mọi dáng vẻ nối tiếp nhau dằng dặc, không bóng mộtlùm cây, dưới ánh mặt trời, khung cảnh hiện ra hùng vĩ hệt như hẻm núi Grandtrên vùng Colorado của nước Mỹ. Chúng tôi bắt đầu tiến vào vùng núi thuộc dãyThiên Sơn. Rajiva cho tôi biết, vượt qua những hẻm núi kỳ vĩ này, đi thêm haimươi dặm sa mạc nữa là đến biên giới Khâu Từ.

Mộtdòng sông nhỏ xuất hiện giữa những khe núi hiểm trở. Có sông có nước là sẽ cóốc đảo. Hai bên bờ là vách núi cheo leo, nơi đây vốn là huyết mạch quan trọngcủa con đường tơ lụa. Thấp thoáng vài hộ nông dân và nhà trọ. Rajiva nói vớitôi, sông này là sông Muzat, còn núi này là núi Karadag. Tôi thấy những tên gọinày rất quen thuộc. Nơi đây cách Khâu Từ những mấy chục dặm, không biết điều gìkhiến tôi có cảm giác quen thuộc đến vậy? Tôi nhìn lại một lượt khung cảnh núinon trùng điệp, sông suối lượn quanh, ốc đảo xanh tươi với hai bên là vách núidựng đứng này, một địa danh chợt lóe lên trong đầu tôi: Thiên Phật động Kizil.

-Rajiva, Thiên Phật động Kizil ở đây phải không? Đưa tôi đi xem có được không?

Tôisung sướng tột độ. Thiên Phật động Kizil là quần thể hang đá nằm ở cực Tây,được xây dựng sớm nhất ở Trung Quốc. Giá trị to lớn của di tích này nằm ở cácbức bích họa, vẻ đẹp của nó có thể sánh ngang với các bức bích họa ở Đôn Hoàng.Về mặt thời gian thì những bức bích họa này còn ra đời trước các bức bích họa ởĐôn Hoàng hơn hai thế kỷ. Phong cách nghệ thuật đậm màu sắc tín ngưỡng Phậtgiáo Đại Thừa, là đặc trưng của nghệ thuật Khâu Từ, là nguồn tư liệu vô cùngquý giá để nghiên cứu về quốc gia này. Tiếc thay, về sau, những người Ujur theotín ngưỡng Hồi giáo đã phá hoại nghiêm trọng công trình này. Thêm vào đó,khoảng thế kỷ thứ XIX, nhà khoa học về phương Đông người Đức, A. Von Le Coqcũng đã đến đây và lấy đi không ít hiện vật quý giá. Nếu tôi được tận mắt ngắmnhìn công trình đồ sộ này khi nó còn nguyên vẹn và phác thảo lại, sẽ có giá trịbiết bao!

- ThiênPhật động Kizil nào vậy?

Dườngnhư cậu ta không hiểu. Có lẽ vì Kizil là tiếng Duy Ngôn Nhĩ (Uygur) và vào thờigian này, thì vẫn chưa xuất hiện tên gọi Thiên Phật động Kizil.

- Đó làngôi chùa kiểu kiến trúc hang đá được xây dựng trên vách núi, bên trong có rấtnhiều tranh bích họa và những hang đá kéo dài hàng ngàn dặm, chạy suốt dọc váchnúi Karadag.

Hai mắtsáng lên, tôi xúc động mô tả cho cậu ta nghe, nhưng Kumarajiva dường như vẫnkhông hiểu gì cả. Cậu ta đưa mắt quan sát một lượt khung cảnh trước mặt rồidừng lại ở dãy núi đối diện:

- NgảiTình, ở đây không có hang đá nào như cô vừa nói.

Lẽ nàotại thời điểm này, Thiên Phật động Kizil vẫn chưa được xây dựng? Tài liệu lịchsử ghi lại rằng công trình này được khởi công vào khoảng thế kỷ thứ III, thứ IVsau Công nguyên, từ thế kỷ VIII đến thế kỷ IX, công việc xây dựng chậm lại vàngừng hẳn. Cho nên, thời điểm khởi công là thời gian này mới phải chứ?

- NgảiTình.

Rajivađột nhiên ngước đôi mắt sáng long lanh nhìn tôi.

- Vìsao cô biết một ngôi chùa như thế sẽ được xây dựng ở đây?

Tôi sợtoát mồ hôi. Đúng rồi, sao tôi lại biết được? Thiên Phật động này được xây dựngsớm nhất ở Trung Quốc và bây giờ nó còn chưa ra đời kia mà!

-Tôi...

Tôicười ha ha kéo dài thời gian, rồi chỉ tay về phía con đường uốn lượn ngoằnngoèo giữa những khe núi hẹp và nói:

- Tôinghĩ rằng đây là nơi mà các lái buôn nhất định phải đi qua. Những nhà buôn đitrên con đường tơ lụa gặp rất nhiều rủi ro, nguy hiểm, nào là thời tiết khắcnghiệt, địa hình hiểm trở, đạo tặc hoành hành. Nguy cơ trắng tay, thậm chí mấtmạng là rất lớn. Bởi vậy họ cần Phật pháp như một nơi nương tựa về tinh thần,ban cho họ sự bình an. Nếu xây chùa ở đây, những thương nhân đó chắc chắn sẽghé qua cầu xin thần Phật phù hộ. Vả lại, nơi này thanh vắng yên tĩnh, rất phùhợp để tu hành.

Niềmvui ngời ngời hiện lên trên khuôn mặt Rajiva, ánh mắt cậu ta mỗi lúc một longlanh rạng rỡ, tôi thở phào nhẹ nhõm. Quý Tiễn Lâm từng nói rằng, nhà buôn vàPhật giáo có mối quan hệ hết sức mật thiết. Các khoản quyên tặng và lễ vật cúngbái của nhà chùa chủ yếu dựa vào các thương nhân. Đây chính là lý do vì sao cácngôi chùa và thiền viện Phật giáo hầu hết được xây dựng dọc theo con đường tơlụa. Và Phật giáo cũng nhờ con đường này, từng bước được truyền bá vào TrungNguyên. Nên lí do mà tôi đưa ra hoàn toàn hợp lý.

Tôiquan sát những vách núi cao vút bốn xung quanh, lắc đầu ảo não:

- Cònvì sao phải khai mở động đá. Là vì nơi đây là hẻm núi, cây cối không nhiều, nếumuốn xây chùa bằng gỗ thì phải vận chuyển từ nơi khác đến, sẽ rất tốn kém, hơnnữa, công trình sử dụng chất liệu gỗ rất khó bảo tồn, vì vậy, xây chùa hang đátrên vách núi là hợp lý nhất.

Rajivagật đầu tán đồng:

- Chùahang đá mà cô miêu tả rất giống với kiến trúc chùa chiền ở Ấn Độ và Kabul. Ởnhững nơi đó, họ xây chùa trên vách núi vì những con đường huyết mạch đều làđường qua núi.

Trầm tưmột lát, cậu ta quay lại, hỏi tôi:

- Nhưngsao cô lại gọi ngôi chùa này là Kizil?

Tôi háhốc miệng, cậu ta vẫn chưa hết nghi vấn à? Tên ranh này sao mà thông minh thếkhông biết!

-Kizil, Kizil...

Tôi lẩmbẩm đọc đi đọc lại cái tên này, vừa đọc vừa suy nghĩ.

- Đâylà từ địa phương, ở nơi tôi sinh sống, Kizil có nghĩa là hang đá.

Mayquá, tôi nhanh trí viện ra cái cớ này để lòe cậu ta vì dù gì cậu ta cũng làngười nước ngoài.

Cậu tanhìn tôi rất lâu, đúng vào lúc tôi bắt đầu lung lay vì lời nới dối của mình,thì đột nhiên cậu ta tươi cười gật đầu:

- NgảiTình nói rất có lý!

Cậu tangừng lại, suy nghĩ một lát rồi hỏi tiếp:

- Vậytheo cô, ngôi chùa hang đá này nên thiết kế ra sao để thể hiện được sự uy nghicủa Phật pháp?

- Cáiđó...

Đâm laophải theo lao thôi, nếu tôi không nói, chỉ e ngày sau, Thiên Phật động này sẽbiến dạng. Tôi ngập ngừng hồi lâu, nhưng sau đó vẫn quyết định trình bày hếtsuy nghĩ của mình:

- Trướctiên cần khai mở một động đá trong núi, ở giữa dựng các cột trụ, đặt tượng Phậtvào các hốc tường phía trước cột trụ, đường hành lang bên trái và gian buồngphía sau sẽ vẽ các bức bích họa kể câu chuyện của Phật tổ và các truyền nhâncủa ngài. Như vậy, tăng ni Phật tử có thể bái Phật ở gian chính, sau đó vòngqua hành lang bên phải đi về phía buồng sau để ngắm nhìn các tượng Phật ở tưthế nằm trên cõi Niết Bàn, cuối cùng, quay lại gian thờ chính, ngẩng đầu lênchiêm ngưỡng những bức tranh thuyết pháp của Di Lặc, Bồ Tát ở phía trên cửa ravào hang đá. Các bức bích họa sẽ được vẽ trong khung hình thoi, với ý nghĩa lànúi Tu Di (Sumeru), hình vẽ bên trong kể về câu chuyện của Phật tổ và luật nhânquả.

Nhìn vẻmặt chất đầy nghi vấn của Rajiva, tôi hết sức lo lắng, tôi tiếp tục lục lọitrong trí nhớ để tìm kiếm những tài liệu về Thiên Phật động Kizil:

- À,còn nữa, phải xây các phòng nhỏ làm nơi tọa thiền cho các tăng sĩ, những phòngđá nhỏ này thì không cần trang trí bích họa, có thể thiết kế theo kiến trúcphòng ở gắn liền với lối đi. Phòng đá nhỏ dành cho tăng sĩ và hang đá chứa bíchhọa có thể đặt cạnh nhau, tạo nên một quần thể thống nhất, đó chính là một ngôichùa Phật giáo.

- NgảiTình, cô từng đến Ấn Độ và Kabul, đúng không?

- Hả?

Đúng làtôi đã từng đến Ấn Độ, nhưng tình hình chính trị ở Kabul, tức vùng Peshawathuộc Kashmir ngày nay hết sức phức tạp, nên tôi chưa có cơ hội đến đó. Kabullà thành phố cổ đại nổi tiếng nằm trên con đường giao nhau giữa vùng Nam vàTrung Á, là thủ đô của vương triều Kushan do đức vua Kanishka lập nên, là khởinguồn của nghệ thuật Phật giáo Gandhara và là vùng thánh địa mà tôi mơ ước đượcđến thăm từ lâu.

Nhưngvấn đề nan giải hiện nay là tôi phải tiếp tục nói dối như thế nào đây? Rõ ràng,mô hình kiến trúc tôi vừa miêu tả không hề có tại Trung Nguyên và thậm chí ngayở Tây Vực cũng chưa từng có. Nhưng nếu tôi nói rằng tôi từng đến đó, chắc chắntôi sẽ bị lật tẩy. Cha cậu ta là người Ấn Độ, bản thân cậu ta đã từng sống ởKabul mấy năm trời.

-Tôi... Là vì... Tôi tình cờ gặp một nhà sư người Ấn Độ, ông ấy đã nói vớitôi...

- NgảiTình hiểu tiếng Phạn từ khi nào vậy

Cậu tangắt lời tôi, ánh mắt sắc như dao đang nhìn xoáy vào tôi khiến tôi không biếtlẩn trốn vào đâu.

-Tôi...

Ngườita nói quả không sai: nói dối một lần thì dễ nhưng để duy trì lời nói dối ấy,bạn phải nghĩ ra thêm nhiều lời nói dối khác và đến sau cùng bạn vẫn cứ bị lậttẩy.

- NgảiTình, cô chẳng biết nói dối gì cả!

-Tôi...

Thế làtôi đã bị lộ. Sao khi nãy tôi liều lĩnh như vậy, thốt ra những lời bịa đặtkhông chút suy nghĩ.

- Rốtcuộc cô là ai?

Lại mộtcâu hỏi gai góc nữa, đầu óc tôi chao đảo.

-Tôi...

Tôi đãquên mất rằng tên ranh này từng đánh bại nhà biện kinh vô địch Tây Vực. Nếu cậuta tiếp tục chất vấn, bí mật của tôi chắc chắn không thể giữ được nữa!

- Thôiđược rồi, cô đừng lo lắng.

Nhìngương mặt đỏ bừng của tôi, cậu ta bỗng bật cười:

- Nếucô không muốn nói, tôi không ép buộc. Tôi sẽ thuyết phục đức vua xây dựng chùahang đá này khi về đến Khâu Từ, sẽ đặt tên là Thiên Phật động Kizil. Và tấtnhiên sẽ xây dựng theo thiết kế cô vừa nói.

Cậu tanhìn tôi, đôi mắt tinh anh tỏa sáng, lắc đầu và cười:

- NgảiTình, cô có biết điệu bộ ngơ ngác của cô khi nãy rất dễ thương không? Bất kể côtừ đâu đến, cô là cô gái thông minh xinh đẹp nhất mà Rajiva từng gặp.

Hai mátôi đã bớt nóng, nhưng miệng tôi vẫn chưa khép lại. Thật không thể tin được,Thiên Phật động Kizil đã được xây dựng như thế đấy! Tôi đập khẽ vào miệng mìnhtự trừng phạt và dặn lòng từ nay sẽ cấm nói năng lung tung. Tôi làm sao mà gánhnổi tội danh làm rối loạn lịch sử kia chứ!

Quayđầu lại và phát hiện hành động tự phạt vừa rồi đã lọt vào mắt Rajiva, đen đủithế không biết! Cậu ta không nói gì, nhưng ánh mắt nhìn tôi như đang nghiên cứulại như đang dò la. Kể từ lúc ấy, tôi luôn nhắc nhở mình không được nhiều lời.

Cuốicùng, chúng tôi đã đến được Khâu Từ. Đội ngũ nghênh tiếp lần này còn long trọnghơn cả khi ở Wensu, từ xa đã văng vẳng tiếng nhạc mừng réo rắt. Những lán trạichạy dài hàng mấy trăm mét trước cổng thành. Phía trước mỗi lán trại đều có cáctăng sĩ với trang phục của các cao tăng hướng về phía chúng tôi hành lễ. Rajivavà Jiva lập tức xuống ngựa, cung kính chắp tay tạ lễ với các cao tăng đó. Tôichỉ để tâm đến những pho tượng Phật dựng bên trong các lán trại, giá như có thểbảo tồn đến thời hiện đại thì tốt biết bao!

Dẫn đầuđoàn nghênh tiếp là một phụ nữ trung tuổi, thân hình béo tốt, khoác trên mìnhbộ trang phục quyền quý với váy dài thêu kim tuyến tay lỡ, chắc chắn là hoànghậu! Đám phụ nữ và trẻ nhỏ ăn mặc cầu kỳ quý phái phía sau hẳn là các phi tần,hoàng tử và công chúa. Tiếp đó là đến các quan văn quan võ, hàng trăm con ngườicung kính hành lễ với đức vua Bạch Thuần, không khí hết sức trang nghiêm. Chỉtrong phút chốc tôi đã được diện kiến toàn bộ giới quý tộc và hoàng thất KhâuTừ, tôi ước sao có cái máy ảnh ở đây để ghi lại khung cảnh cảm động này.

Hoànghậu ôm chầm lấy Jiva và Rajiva, xúc động bật khóc nức nở. Mẹ con Jiva mắt đỏhoe, họ đang cùng nhau ôn lại bốn năm xa cách. Tôi để ý đến một người trong đámquý tộc phía sau hoàng hậu, người ấy có ngoại hình khác hẳn những người Khâu Từkhác.

Đó làmột người đàn ông trung niên, với nước da bánh mật, dáng người rất cao, thânhình mảnh khảnh, lưng dài thẳng tắp, vầng trán hẹp và dài, đôi mắt to sâu trũngin giữa khuôn mặt khắc khổ, đồng tử màu nâu nhạt, thần thái toát lên vẻ thôngthái và nhân hậu. Ông không thả tóc ngang vai như người Khâu Từ, mái tóc ôngcắt ngắn giống kiểu tóc của con người ở hiện đại nhưng đã lốm đốm sợi bạc. Dùông đang mặc trên mình trang phục của người Khâu Từ, tôi vẫn dễ dàng nhận raông là người Ấn Độ. Ở tuổi này, nếu dùng từ “đẹp trai” để miêu tả về ông thìthiệt thòi cho ông quá! Điều đáng nói ở đây là khí chất thoát tục ở ông, đó làthứ khí chất thanh cao khiến ông trở nên khác biệt giữa hàng trăm con người,khiến người khác phải chú ý và khi đã chú ý đến ông rồi thì khó mà dứt được ánhnhìn để chuyển hướng đi chỗ khác.

Ông dắttheo một cậu bé chừng mười tuổi, khuôn mặt tròn xoe, làn da trắng ngần giốngngười Khâu Từ và những đường nét trên khuôn mặt thì giống hệt Rajiva, nhưng dễthương hơn nhiều! Đôi mắt màu xám nhạt ấy đang bận ngó nghiêng khắp nơi, khithấy tôi, cậu bé có vẻ hơi ngạc nhiên, cứ chăm chú nhìn tôi mãi. Tôi cười vớicậu bé, lén lút làm mặt ngáo ộp trêu chọc. Cậu bé giật mình, vội vã quay mặtđi.

Khôngnghi ngờ gì nữa, người đàn ông Ấn Độ ấy chính là Kumarayana, người đã từng từbỏ ngôi vị để xuất gia, người từng vượt qua dãy núi Pamirs ở phía đông để đếnđất Khâu Từ và được đức vua nước này phong làm quốc sư, là cha của Kumarajivavà là người mà năm xưa Jiva tìm mọi cách để được lấy làm chồng. Cậu bé có khuônmặt giống Kumarajiva như đúc kia chính là em trai của cậu, tôi không nhớ têncậu bé là gì. Trong “Truyện cao tăng”, Tuệ Giảo chỉ ghi lại một cái tên, tức làtrong sự phát triển của lịch sử, cậu bé đó chỉ tồn tại vì là em trai củaKumarajiva.

Hoànghậu đã ngừng khóc, đưa hai mẹ con Rajiva đến bên Kumarayana, Jiva chắp tay hànhlễ trước người từng là chồng của bà, nỗi nhớ nhung bịn rịn ngập đầy trong đôimắt thẳm sâu của Kumarayana. Chắc hẳn ông rất muốn ôm bà vào lòng, nhưng ôngchỉ lặng nhìn bà vài giây, rồi cũng chắp tay tạ lễ. Chú bé tinh nghịch khôngcần biết trời cao đất dày gì, cứ thế lao vào ôm chầm lấy mẹ kêu khóc thảmthiết, Jiva cũng ôm chặt lấy đứa bé, nước mắt chan chứa. Rajiva quỳ lạy cha,nhưng Kumarayana vội vàng đỡ cậu lên. Cha con họ đều rất xúc động, họ tròchuyện với nhau bằng tiếng Phạn.

Nghi lễđón tiếp đã diễn ra hơn một tiếng đồng hồ. Kumarayana xin phép đức vua được đưavợ con về phủ, Jiva không phản đối, có lẽ vì bà cũng rất nhớ con. Thế là tôicùng gia đình họ trở về phủ quốc sư.

Tôi đãtìm hiểu và được biết em trai Rajiva tên là Pusyseda, đó là tên tiếng Phạn, vậylà lại có thêm một cái tên khó đọc nữa.