Đức Phật Và Nàng: Hoa Sen Xanh

Quyển 3 - Chương 18



Tôi run lên bần bật, nước mắt lã chã rơi. Tôi đâu ngờ cậu ấy lại nặng tình với mình như thế!

Cậu ấy chầm chậm đứng lên, lại gần khung cửa sổ, vầng trăng tròn vành vạnh, cô liêu giữa trời đêm, khóe môi uốn cong thành một nụ cười dịu dàng, tuyệt mỹ. Nụ cười ấy ngọt ngào, ngập tràn yêu thương ấy, chỉ thuộc về tôi. Nụ cười chất chứa mọi nỗi thương yêu, bao dung, che chở ấy chỉ dành cho tôi. Vậy mà tôi, tôi đã quen với việc hưởng thụ quá dễ dãi nụ cười ấy, đã thờ ơ, chẳng thèm bận tâm truy xét những ẩn ý thấm sâu trong đó. Giờ đây, khi nỗi niềm đã được bày tỏ, tôi chẳng thể trốn tránh được nữa, nụ cười ấy bỗng nhiên đè nặng trong lòng tôi, nó mang sức nặng của cả một trái núi.

Cậu ấy cứ cười mãi như thế, tâm tư chìm vào hồi ức, ánh mắt mềm mại như lụa, ngọt ngào, ấm áp. Bát Tư Ba đứng lên, lại gần em trai, khẽ gọi:

- Kháp Na, đệ yêu cô ấy nhiều như vậy, đệ nên...

- Nhưng trong lòng cô ấy chỉ có huynh thôi. Ước nguyện lớn nhất của cô ấy là được ở bên huynh.

Cậu ấy quay người lại, ánh mắt ảm đạm, gượng cười xót xa:

- Vì yêu cô ấy nên đệ muốn giúp cô ấy.

- Nhưng đêm đó, người ở bên cạnh cô ấy là đệ kia mà!

- Đệ đang muốn nói với huynh chuyện đó đây. Kể từ cái đêm đó cho đến nay, chúng ta đều cố tình né tranh chủ đề này. Nhưng đệ hiểu rằng, đệ phải giải thích rõ ràng, để xóa tan mọi vướng bận trong lòng huynh. – Cậu ấy nhìn thẳng vào Bát Tư Ba, cất giọng khẩn thiết. – Đêm đó đệ buộc phải đi. Huynh là rường cột của phái Sakya, tính mệnh của huynh quý giá hơn bất cứ ai, vì vậy, huynh không thể mất đi mười năm dương thọ. Còn đệ, đệ vốn yếu ớt, cứ đau ốm triền miên thế này, cũng không biết còn sống được bao lâu nữa...

Bát Tư Ba sợ hãi ngắt lời em trai:

- Ta không cho phép đệ nói những lời này!

- Đại ca, đệ bằng lòng đánh đổi mười năm để lấy một đêm ngắn ngủi ấy. Cuộc đời vô nghĩa của đệ chỉ cần có được một đêm tuyệt vời ấy, cũng đủ rồi.

Cậu ấy cười vang, nụ cười rạng rỡ, mê hồn:

- Đêm đó chẳng qua là bất đắc dĩ, cũng may Tiểu Lam không hay biết, đệ sẽ giấu kín bí mật đó suốt đời. Người Tạng chúng ta bản tính phóng khoáng, không nặng nề chuyện đó. Đệ mong huynh có thể quên đi, để đến với Tiểu Lam. Ước nguyện lớn nhất của đệ bây giờ là Tiểu Lam sẽ sinh con cho huynh và nó sẽ là người thừa kế của giáo phái Sakya.

Hai hàng nước mắt chảy dài trên gương mặt Bát Tư Ba:

- Cô ấy là người đệ yêu thương nhất đời, sao ta có thể...

- Cả huynh và cô ấy đều là người đệ yêu thương nhất trên đời.

Kháp Na sửa lại câu nói của anh trai, nắm chặt tay Bát Tư Ba, nước mắt tuôn rơi, nhưng vẫn gắng gượng cười thật tươi:

- Chỉ cần hai người hạnh phúc, đệ cũng sẽ hạnh phúc.

Bát Tư Ba ôm chầm lấy em trai. Hai anh em họ siết chặt vòng tay, nước mắt của người này thấm ướt vai áo người kia. Ở trên cao, tôi cũng đang thổn thức, tim gan như bị vò xé.

Đêm đó, hai anh em họ không ngủ, họ ngồi sát bên nhau, tựa lưng vào tường trong căn phòng xếp đầy những kỷ vật thời thơ bé. Bàn tay họ lật mở từng thứ đồ chơi con trẻ cũ kĩ, Kháp Na không còn nhớ nên Bát Tư Ba phải kể chi tiết từng thứ một, chốc chốc, những tràng cười sảng khoái lại rộn lên. Họ gác sang bên những chủ đề đau lòng, chỉ nhắc lại cho nhau nghe những kỷ niệm ấu thơ đẹp đẽ, mãi đến khi mặt trời ló rạng, những tia nắng ban mai đầu tiên chiếu qua khung cửa sổ.

Bát Tư Ba nhấc bộ lễ phục của chú rể đặt trên giường Kháp Na, cất giọng u buồn:

- Kháp Na, đến giờ rồi!

Kháp Na lẳng lặng khoác lễ phục lên người với sự giúp đỡ của anh trai. Bát Tư Ba chải tóc cho Kháp Na, tỉ mỉ chăm chút những lọn tóc của em trai. Kháp Na vừa cúi đầu vừa nói:

- Đại ca à, đệ còn một tâm nguyện nữa. Đệ muốn Tiểu Lam ở bên đệ khi cử hành hôn lễ, liệu huynh có thể giúp đệ nói với cô ấy không?

Bàn tay Bát Tư Ba đột nhiên dừng lại, ánh mắt đầy băn khoăn. Kháp Na vội vàng giải thích:

- Đệ không muốn giấu huynh, nhưng đệ nói ra, huynh chớ để bụng. Đệ muốn Tiểu Lam cùng đệ cử hành hôn lễ. Được vậy, đệ sẽ thỏa nguyện với ý nghĩa rằng, đệ được thành thân với cô ấy.

Bát Tư Ba lắc đầu:

- Kháp Na, đệ sai rồi, ta không để bụng chuyện đó. Tám ngày trước, Lam Kha đã lên đường trở về Sakya, cô ấy bảo muốn gặp đệ. Không lẽ những ngày qua hai người không ở cạnh nhau?

- Đệ không thấy cô ấy. – Kháp Na hoang mang, lo lắng, vội túm chặt cánh tay Bát Tư Ba. – Không ở chỗ đệ, vậy thì cô ấy đã đi đâu? Hay đã xảy ra chuyện gì với cô ấy?

- Đệ đừng sốt ruột, cô ấy có phép thuật, người thường chẳng làm gì được cô ấy.

Bát Tư Ba nghĩ ngợi một lát rồi căn dặn em trai:

- Đệ cứ lo chuẩn bị những việc cần làm. Ta hứa sẽ đưa cô ấy đến chỗ đệ trước giờ cử hành hôn lễ.

Có tiếng gõ cửa, giọng nói cung kính của Kunga Zangpo vẳng tới:

- Thưa cậu chủ, lát nữa cậu sẽ cùng cô dâu đến lễ Phật ở các điện thờ lớn.

Kháp Na hờ hững đáp lời rồi quay sáng cầu cứu Bát Tư Ba:

- Đại ca, huynh nhất định phải tìm được Tiểu Lam đó!

Bát Tư Ba chỉnh lại thắt lưng cho em trai, gật đầu cả quyết.

~.~.~.~.~.~

Chàng trai trẻ khẽ vươn vai rồi bàn tay đặt vào eo lưng, vừa xoa bóp vừa hỏi:

- Tôi từng đến ngôi đền Shalu ở Shigatse, thứ quý giá nhất ở đó là những bức bích họa được truyền lại từ triều Nguyên. Đó có phải là nơi cư trú của Vạn hộ hầu Shalu ngày ấy không?

Tôi gật đầu:

- Đúng vậy. Đền Shalu cách Shigatse hơn hai mươi kilômét, khi ấy nó có tên gọi là Chundui, trong tiếng Tạng có nghĩa là “cái chợ”, có thể thấy nơi đây chính là trung tâm trao đổi, mua bán của vùng Hậu Tạng. Chỉ có điều, ngôi đền Shalu lừng danh mà ngày nay các cậu biết đến mới chỉ là một ngôi đền nhỏ bé thuộc phạm vi cai quản của một gia tộc vào thời điểm đó. Vạn hộ hầu cư trú trong trang viên Shalu, sau hơn bảy trăm năm bãi bể nương dâu, ngôi đền Shalu được bảo tồn khá nguyên vẹn, còn trang viên Shalu thì đã tan vào cát bụi.

Chàng trai trẻ nhớ lại:

- Tôi nhớ rằng, ngôi đền Shalu đã từng rất nổi tiếng nhờ vẻ nguy nga, bề thế, nó dung hòa những nét đặc sắc trong kiến trúc của người Mông Cổ và người Hán, được xem là ngôi đền đặc biệt thuộc khu vực đền chùa của người Tạng thời kỳ đầu.

- Đền Shalu vốn chỉ là một ngôi đền nhỏ, không tiếng tăm và có rất ít sư tăng. Quá trình phát triển, hưng thịnh và suy yếu của nó liên quan mật thiết đến giáo phái Sakya.

Tôi không khỏi xót xa khi nhớ lại rằng, ngôi đền ấy đã được xây dựng hao tiền tốn của ra sao. Tôi hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, kể tiếp:

- Vạn hộ hầu Shalu đã đặt cược cho phái Sakya và ông ta đã đúng. Mãi cho đến cuối triều Nguyên, Shalu vẫn luôn là một trong những vạn hộ hầu lớn mạnh, giàu có, sở hữu nhiều ruộng đất và cư dân nhất đất Tạng. Những của cải, tài sản này đều do cuộc hôn nhân chính trị kia mang lại.