Đất Ma

Chương 128: Thợ khóa



Gần tòa án thành phố có một khu chợ, dân Hà thành vẫn quen mồm gọi là chợ Âm Phủ. Thời kháng chiến, chỗ này là cái mồ tập thể của những người bị giặc giết. Khu mả này động thổ xây công trình bình thường thì không được, nên người ta mới xây nên một khu chợ, chỉ chuyên bán thịt chó. Bởi nhẽ theo quan niệm Á Đông thịt chó, con chó mang tính dương, có thể đuổi ma, trấn âm.

Lâu dần, người ta gọi cái chỗ âm u ma quái này là chợ Âm Phủ, ngay cả khi hài cốt ngày xưa đã được chuyển đi nơi khác, cái tên này vẫn theo chân khu chợ.

Điền Quý có một cuộc hẹn đến cái chỗ này, vào lúc ba giờ sáng.

Gió đêm thốc vào các kẽ hỡ trên áo khoác làm anh chàng run bắn cả người. Điền Quý đứng một mình dướt cột đèn đường thứ ba tính từ đầu phố đi vào, thỉnh thoảng lại nhìn đồng hồ đeo tay. Ánh đèn cam cam vàng vàng, mờ đi vì đóng bụi đem lại một cảm giác ấm áp, dù thực tế nhiệt độ chẳng giảm được tí tẹo nào cả.

Chợ đã tan từ lâu, lái thương cũng còn đang say giấc, thế nhưng lúc này, loáng thoáng có những bóng người đen đen, mờ mờ ẩn hiện, lững thững đi lại dọc theo các gian hàng. Khu chợ “nhộn nhịp” đầy những bóng đen, thế nhưng không hề có lấy bất cứ một âm thanh nào phát ra cả. Từ đầu chí cuối, chỉ có tiếng thở đều đều của Điền Quý, và tiếng bóng đèn đường thỉnh thoảng lại chập một cái.

Anh chàng chờ qua ba giờ, rồi mới ngỗi xuống bên vệ đường. Điền Quý rải một nắm muối quanh chỗ mình ngồi, sau đó rút cái bát vàng ra, lấy đũa gõ nhịp.

Những cái bóng lang thang trong khu chợ nghe tiếng kẻng cứ như kiến thấy đường, bắt đầu bu lại chỗ Điền Quý. Dưới ánh đèn, bọn chúng mới từ từ hiện hình ra. Những con ma đói với làn da xệ võng nhiều chỗ, vàng khè và đầy mụn cóc, tay chân khẳng khiu, mái tóc bết và xơ xác, cùng một đôi mắt hốc hác dỏ quạch, Trong những cái bụng trương phình, ẩn hiện sau làn da mỏng dính nửa trong suốt, thỉnh thoảng lại có ánh than lửa hồng rực cháy lên.

Trong văn hóa dân gian Việt, người ta kiêng gõ bát đũa. Bởi nhẽ, gõ bát gõ đũa cũng là mời ma đói về nhà. Tương truyền, ngày xưa ăn mày thường gõ đũa lên bát xin ăn, nên tiếng kêu cách cách này như một loại báo hiệu của tang thương và nghèo đói. Những người ăn mày thời phong kiến lắm người chết đói ngoài bờ ngoài bụi, người ta tin rằng sẽ hóa thành loại ma khổ sở này.

Điền Quý vừa bẻ bỏng gạo, ném ra khỏi vòng muối, vừa lôi quyển sổ bố của Huệ đưa cho ra so sánh.

Cứ như những gì người họa sĩ vẽ lại, thì thứ xuất hiện trong giấc mơ của mẹ cô diễn viên rất giống một con ma đói. Mà cái chợ Âm Phủ này, chẳng hiểu tại sao, lại là nơi mà ma đói tập trung lại.

Điền Quý lắc đầu, thở dài.

Trong đám ma đói, chẳng có con nào hung hãn và manh động như lời ông đầu bếp tả lại cả.

“Ngày năm tháng bảy. Mơ thấy nằm trên giường không thể nhúc nhích, như bị bóng đè, ngoài cửa phòng có một bóng người. Mái tóc xù tung dài chấm gót.

Ngày mười ba tháng bảy. Lại mơ thấy như trước, nhưng cái bóng đã đến gần hơn.

Ngày hai sáu tháng bảy, lại đến gần hơn.

Ngày chín tháng chín, cái bóng đứng ở chân giường. Có hai bàn tay thò ra, vén mớ tóc sau đầu nó, để lộ ra một gương mặt với mắt lồi, gầy giơ xương.

Ngày ba tháng mười, cái bóng vươn tay, cào vào mặt. Sáng dậy thì gần như mù hẳn.”

Điền Quý vừa đọc những dòng nhật ký ghi chép lại quá trình nằm mơ của mẹ Huệ, vừa bóp thái dương. Ma đói đúng là có trường hợp đến ám người ta ốm, bệnh, gầy rộc đi, hoặc ăn bạt mạng. Nhưng xâm nhập vào giấc mơ đòi mạng thế này thì là lần đầu tiên anh chàng được thấy.

Có lẽ, cái thứ đó không phải là ma đói.

Điền Quý bỏ nốt chỗ bỏng gạo ra, sau đó sải bước đi vào trong chợ, tiến về phía ki-ốt duy nhất còn sáng đèn. Ấy là một quán bán bánh trôi tàu.

“Không thấy chứ gì? Thấy chưa? Tớ đã bảo mà không nghe, lại đây ăn bát bánh trôi cho ấm...”

Một người đàn ông chừng bốn mươi, đầu hói bóng lưỡng không một cọng tóc đang ngồi hí hoáy bên cái bàn, đánh lại một cái chìa cho khách. Vừa trông thấy Điền Quý, lão đã cười toe toét, kéo ghế mời anh chàng ngồi.

“Đúng là không có...”



“Thì đấy. Ma đói mà mạnh đến thế, ác đến thế, chả nhẽ tớ làm phụ trách khu này ở đây lại không hay biết gì? Đúng không?”

Tay thợ khóa vừa đẩy bát bánh trôi về phía Điền Quý, vừa cười hề hề.

Anh chàng nhún vai, nói:

“Cũng không phải em khinh anh Bằng, nhưng chỉ sợ chẳng may để cá lọt lưới thôi.”

“Biết. Biết. Nên cậu bồi thường cho tớ vài mánh phòng thân đây xem nào.”

Bằng “hói” cười hề hề, vỗ vai Điền Quý.

Người này tên Đinh Văn Bằng, biệt hiệu là Bằng “hói”, cũng là thức giả phụ trách quản lí khu chợ Âm Phủ này. Nói về Bằng “hói”, thì phải kể lại cái ngày miền bắc bị dội bom độ gần ba mươi năm trước. Anh này đi sơ tán cùng người trong làng thì bị nạn, cả đoàn mấy chục người già trẻ con trừ Bằng “hói” ra đều chết dưới bom đạn ngoại xâm cả.

Trong số nạn nhân này, có một con dúi tinh già, tu luyện lâu năm không hại đến ai. Máu yêu tinh văng lên mắt Đinh Văn Bằng, làm anh ta mở được mắt âm dương, từ đó thấy được ma quỷ. Hình ảnh mấy chục người già, trẻ con cùng làng hóa thành ma đứt tay, ma mất đầu làm Bằng “hói” vẫn còn ám ảnh đến bây giờ.

Thành thử, Đinh Văn Bằng chỉ làm thức giả mà thôi. Anh ta hoàn toàn không có linh lực hay thuật pháp gì cả, thủ đoạn phòng thân dựa hoàn toàn vào ngoại vật. Cũng vì lí do này, hành giả đến giao dịch với Bằng “hói” thường lấy bùa phép ra làm tiền công.

Điền Quý thảy lên bàn vài lá bùa, nói:

“Đốt lên là được.”

“Không cần chú ngữ gì luôn? Sao thấy chú bình thường đọc lầm rầm gì cơ mà?”

“Thủ đoạn che mắt thôi.”

Trước câu hỏi của Bằng “hói”, Điền Quý nhún vai nhẹ một cái, mặc nhiên thừa nhận mấy câu niệm phép anh chàng sử dụng thực ra chỉ là để làm màu.

Điền Quý là một thầy phong thủy đặc biệt.

Những trận pháp của anh chàng có thể gấp lại được, thành những quả cầu nhỏ như hòn bi ve. Đến lúc cần dùng thì ném ra, trận pháp sẽ tự mở thành hình thái hoàn chỉnh. Những lá bùa chẳng qua là một vật chứa, đương nhiên là không cần chủ ngữ gì cả.

“Anh cũng đến chịu chú.”

Bằng “hói” nhét xấp bùa vào túi, sau đó châm một điếu thuốc.

Điền Quý nhún vai, đưa bát húp cái thứ nước đường thơm nồng mùi gừng tươi.

Anh chàng cũng biết Bằng “hói” muốn nói gì.

Loại bùa mà bất kì ai cũng có thể dùng được này, nói trắng ra là một loại vũ khí diệt ma, có thể sản xuất hàng loạt, trang bị đại trà. Miễn là Điền Quý chịu công khai phương pháp.

Nhưng...

Chính Triệu Vân Sam và tư lệnh hiện tại đều tự mình nhắc anh chàng, rằng chuyện này chưa thể công bố với nội bộ giới hành giả được. Mặt ngoài, hai người muốn Điền Quý tập trung cải thiện phương pháp gấp trận, nhưng nguyên nhân thực sự anh chàng có thể hiểu được...



Quá nguy hiểm.

Tuy nội bộ giới hành giả hiểu được sức mạnh của ma quỷ tỉ lệ thuận với số người tin vào chúng, biết đến chúng, nhưng cụ thể tỉ lệ thế nào thì chịu thua. Cũng vì nguyên nhân này mà tỉ lệ hành giả, thức giả, cũng như những người được phép biết về cõi âm nói chung so với dân số luôn được giữ ở mức thấp nhất có thể.

“Những chuyện chính trị chính em này đúng là khiến người ta đau đầu.”

Điền Quý vừa thở dài, vừa nhìn ra ngoài.

Gió đông thổi những miếng bỏng gạo thiu thối đen xì bay lơ phơ, ngang qua cửa hàng của Đinh Văn Bằng.

Hửng sáng, Điền Quý quay lại văn phòng, thì phát hiện cửa phòng mình hơi hé mở. Vừa bước ngang qua cửa phòng trọ của dì Tư, tiếng cười hào sảng của Lê Thị Năm đã cất lên:

“Hai đứa tiến triển rồi à? Thế bao giờ về chung một nhà? Đã làm gì nhau chưa?”

Anh chàng hắng giọng, ho khan một cái, đẩy cửa bước vào.

Văn phòng quái lạ của Điền Quý hôm nay có vẻ chật chội hơn bao giờ hết.

Quanh bàn uống nước, Triệu Vân Sam ngồi vắt vẻo trên tay ghế mút kẹo, Hồng Hoa ngồi bên cạnh, cúi đầu khép chân, cơ hồ đến thở mạnh cũng không dám. Đinh Văn Phong tựa lưng nhắm mắt, trông như đang ngủ gà ngủ gật. Bên chỗ ngồi đối diện, Phượng Ngân và Lê Thị Năm đang ngồi nói chuyện.

“Vẫn không có tin tức gì à?”

Điền Quý bước qua căn phòng, không nói không rằng quăng mình lên ghế, chân gác lên bàn làm việc.

Suốt một tuần nay, anh chàng đã bôn ba nhiều chỗ ở Hà thành, người gác đêm do ông lao công mắt quỷ cầm đầu, tổng bộ hành giả và cả người của Chân Kiếm Hội cũng cùng vào cuộc. Anh chàng nhờ cả Bắc bán gà ở tỉnh A, anh chó trắng cầm đầu phân hội người vớt xác. Thế nhưng, mãi vẫn không có thêm chút tin tức nào về người chủ của miếng Khuynh Thành Cốt kia cả.

“Không. Kể cũng lạ thật...”

Triệu Vân Sam lắc đầu, hé răng cắn nát que kẹo đang ngậm, vẻ bực dọc hiện rõ trên gương mặt trẻ con.

Phàm là người có Khuynh Thành Cốt, ai cũng là người đẹp nổi tiếng. Ở thời hiện đại, nếu không phải minh tinh màn bạc, người mẫu nổi tiếng, thì cũng trở nên cực kì nổi bật. Khó mà tin nổi một người có Khuynh Thành Cốt lại có thể chết đi một cách im lặng không một chút tin tức nào như thế được.

Điền Quý gật đầu, thở dài:

“Đúng rồi. Bên nhà Huệ có gọi. Bốn con dao ở chân giường đã chọc điên cái thứ kia. Dạo này nó hoành hành còn ghê gớm hơn trước. Không xử lý ngay, thì e là hàng xóm láng giềng đều biết.”

“Không cần anh dạy.”

Triệu Vân Sam vung tay, ném cái que kẹo vào thùng rác.

Cô này cứ một thời gian lại co lại thành đứa bé, đạt được linh lực phá cảnh, nhưng bù lại cơ thể càng lúc càng cần nhiều năng lượng. Thành thử, Triệu Vân Sam mới không lúc nào không có kẹo trong miệng.

Đúng lúc này, chợt Đinh Văn Phong mở trừng mắt, nói:

“Người chết chưa chắc đã là người Việt.”