Đạo Mộ Bút Ký

Quyển 4 - Chương 34: Bài đạo dưới nước



Editor: Yoo Chan

Beta: Thanh Du

~0O0~

Động vuông cao tầm nửa thân người, đào rất cẩu thả. Cạnh đó đều là đá vụn lổn nhổn to cỡ quả dưa hấu, bên trong cũng rất nhiều, rõ ràng cóngười từng lấp kín cửa động này. Trong động tối đen như mực, không biếtdẫn tới tận đâu, có vẻ giống cửa xả nước của đập thủy điện mà tôi thường thấy ở miền nam.

Trong đống đá vụn bên cạnh miệng động, có một khối đá tương đối bằngphẳng, bên trên nguệch ngoạc khắc mấy chữ, rõ ràng được khắc hết sức vội vàng, hơn nữa còn rất nông. Nếu đó không phải là chữ cái tiếng Anh, đặt vào khung cảnh hoàng lăng trông cực kì chướng mắt thì Thuận Tử chưachắc đã phát hiện ra. Đáng tiếc không thể ghép nối mấy chữ kia lại đểbiết ý nghĩa của nó là gì.

Đây là chữ do chú Ba khắc lên để đánh dấu đường cho chúng tôi sao?Lúc ấy tôi đã nghĩ ngay theo hướng này, nhưng chú Ba tôi không thạo chữTây, đầu óc ổng làm sao mà nghĩ ra cách khắc chữ Tây làm ám hiệu được?Đây không phải tác phong của ổng.

Bàn Tử tò mò đến gần ngó một cái, bỗng ‘ồ’ lên một tiếng, ngoắc tayvới tôi: “Tiểu Ngô à, mấy chữ nước ngoài vặn vẹo này hình như chúng tađã gặp ở nơi nào đó rồi.”

Tôi cũng lại gần, mới liếc qua một cái, bỗng dưng giật nảy mình.

Không phải hình như, mà mấy kí hiệu này chúng tôi đích xác đã từnggặp. Khi tôi và Bàn Tử ở trong huyệt mộ dưới đáy biển, leo xuống đáy cái ao đặt tấm bia đá, Bàn Tử đã trông thấy những kí hiệu như thế này đượckhắc trên thành ao. Vừa thấy mấy kí hiệu này, Muộn Du Bình đột ngột laoxuống ao, sau đó hắn bắt đầu nhớ lại những chuyện đã xảy ra dưới ngôi mộ đó. Tại sao chúng lại bất ngờ xuất hiện ở đây?

Lúc ấy, tôi vẫn nghĩ kí hiệu này là do năm đó khi chú Ba đưa đámngười Văn Cẩm xuống hải mộ, một trong số họ đã khắc nó lên. Nhưng mấychữ cái này lại đột ngột xuất hiện ở đây, chắc chắn có gì đó không ổn.

Xem vết khắc thì có vẻ là dùng cuốc chim bổ lung tung lên, hơn nữadấu vết còn khá mới, nếu không phải do chú Ba để lại thì cũng là củaMuộn Du Bình hoặc A Ninh, bởi vì ở đây cũng chỉ có mấy người này là mang cuốc chim thôi. Kẻ để lại kí hiệu này, chắc chắn đã đi vào trong độngkia.

Bỗng một ý niệm lóe lên trong đầu tôi, thầm nghĩ có khi nào mấy chữcái tiếng Anh trong mộ huyệt dưới đáy biển kia cũng do Muộn Du Bình khắc xuống, cho nên khi hắn nhìn thấy mấy kí hiệu đó mới nói: “Tôi đã từngđến đây.”

Khả năng này cũng khá lớn, khi nào hắn lại thò mặt ra, tôi phải hỏi lại mới được.

Phan Tử thấy tôi ngẩn người, bèn hỏi tôi có chuyện gì. Tôi kể cho bọn họ nghe chuyện tôi và Bàn Tử đã từng gặp mấy kí hiệu này dưới đáy biển, Phan Tử cũng cảm thấy ngạc nhiên. Nhưng rồi anh nói: “Tôi đi theo ôngBa đã mười năm, nói khiêm tốn cũng đổ không dưới năm mươi cái đấu, trong đó đấu lớn cũng có vài cái nhưng chưa thấy ông Ba để lại kí hiệu baogiờ. Hơn nữa ông Ba đến mấy chữ cái ABCD còn không nhớ được, mấy kí hiệu này chắc chắn không phải do ông ấy để lại.”

Tôi thầm nghĩ vậy thì chỉ còn A Ninh hoặc Muộn Du Bình, đoạn quaysang nói với bọn họ: “Nói gì thì nói, xem ra chúng ta đã đi đúng đường.Động này đã có người đi vào, cửa vào địa cung hẳn là ngay bên dưới cáiđộng này, chúng ta có nên tiến vào ngay bây giờ không?”

“Đi luôn!” Bàn Tử lập tức tán thành: “Còn chờ cái gì nữa? Cả đội quân đã đi trước chúng ta rồi kìa. Bàn gia ta xưa nay vẫn đi tiên phong, lần này đi chung với mấy đứa xui xẻo các người nên mới chậm chân hơi ngườita một bước. Chúng ta đừng lề mề nữa, đợi lát nữa người ta xong việc đira, chúng ta chỉ có nước muối mặt đi cướp đồ của họ.”

Phan Tử nhìn tôi nói: “Cậu đừng hỏi bọn tôi, thân thể cậu thế nào rồi?”

Tôi gật đầu, ý nói không thành vấn đề: “Bàn Tử nói rất đúng, chúng ta không thể dây dưa thêm nữa. Dù sao nếu đụng phải bánh tông thì tôikhông bị thương cũng đi đời, giờ bị thương thế này cùng lắm là chết mauhơn một chút thôi, không sợ.”

Bàn Tử bên cạnh đã tháo ba lô của mình xuống, nghe tôi nói vậy thì‘xì’ một tiếng: “Hừ, sao cậu không nói chuyện gì may mắn một tí? Cũngkhông chịu nhìn xem chúng ta sắp đến chỗ nào?”

Tôi trừng mắt liếc hắn một cái, đốp lại: “Đi với anh có dán hai mônthần sau ót cũng vô dụng, anh hãy quản hai cái tay anh cho tốt đi đã.”

Chúng tôi đều tự sắp xếp trang bị cho mình. Vừa rồi đóng gói trang bị theo kiểu hành quân, bây giờ chúng tôi nhét hết đèn bão và toàn bộnhiên liệu vào trong bao, sau đó lấy hết pháo lạnh, gậy huỳnh quang vàthuốc nổ ra, buộc ở thắt lưng. Bàn Tử và Phan Tử đều tháo chốt an toàncủa súng, rút hộp đạn, gỡ hết đạn trong băng ra nạp đầy vào súng; daosăn, chủy thủ cũng đã sẵn sàng.

Súng trường K56 quá dài, đeo vào động không thể xoay người được. Vìthế Bàn Tử đưa súng cho Thuận Tử giữ, còn mình thì cầm cái cuốc chim.Mọi người kiểm tra lại độ sáng của đèn pin, Bàn Tử rút bùa Mô Kim, cầmtrên tay ngẩng mặt lên trời bái lạy.

Thuận Tử cũng là người dùng súng thành thạo, vừa nâng súng lên ‘răngrắc’ vài cái đã quen tay, đầy cảm giác hoài niệm, sau đó quay sang nóivới chúng tôi: “Các vị, tôi không hiểu lắm về nghề của các vị, nhưng vẫn phải nhắc nhở một câu. Trong những cái động được đào trên núi TrườngBạch này, phải coi chừng bọn tuyết mao tử. Nếu thấy có gì không ổn thìtrước hết phải lấy bông bịt lỗ tai lại. Mùa này đầu chúng còn mềm nênchỉ chui được vào lỗ tai, đợi đến mùa hè, lớp vỏ ngoài đã cứng cáp rồithì còn có thể xuyên qua da người, chỉ thò ra hai sợi râu. Các người cókéo thì cũng chỉ có sợi râu đứt ra, còn con trùng vẫn ở bên trong, phảikhoét sâu vào miệng vết thương mới lấy ra được. Còn nữa, thứ này cũnghay chui vào hậu môn, lúc ngồi phải cực kì cẩn thận.”

Bàn Tử chán nản liếc nhìn Thuận Tử, vô thức giữ chặt dây lưng, nói: “Bây giờ côn trùng cũng có sở thích này sao?”

*Phụt, lão béo liên tưởng sâu xa quá =))*

Thuận Tử nói: “Tôi không đùa với các người đâu, lỡ dính trấu thì tự nghĩ cách mà lôi ra, đừng có hỏi tôi.”

Chúng tôi cảm thấy nửa người dưới phát rét, ai nấy đều gật gật đầu.Bàn Tử lại tiếp tục làm đầu tàu gương mẫu, chui người vào động, chúngtôi cũng nối đuôi nhau chui vào, bắt đầu tiến vào thế giới mới mẻ chưaai khám phá trong lòng đất sâu.

Cái động vuông vắn này phải uốn người mới vào được, động được đàosong song, chúng tôi vừa đi vừa nhìn xung quanh xem xét, do trần độngthấp lè tè nên đi rất chậm. Đá ở nơi này cực kì rắn chắc, nhìn những dấu vết đục đẽo thì đường hầm này rõ ràng được đào bằng phương pháp nguyênthủy nhất. Tôi nghĩ, để xây được một hoàng lăng quy mô lớn thế này phảimất bao nhiêu thời gian? Kiểu gì cũng phải trên hai mươi năm, rất nhiềuhoàng đế vừa đăng cơ đã bắt tay vào xây lăng mộ rồi. Hơn hai mươi năm,đào đường hầm này cũng là hết sức miễn cưỡng, xem ra năm đó nhóm ngườibỏ trốn phải có số lượng rất lớn.

Càng đi vào sâu, càng phát hiện nhiều dấu vết của những người đã từng đi qua đây. Dấu giày leo núi vẫn nối tiếp không dừng, cũng không thấytuyết mao tử đâu cả, nhưng tôi lại phát hiện trên nóc đường hầm có những ngã rẽ kì quái.

Những cái động này cũng không lớn lắm, chỉ đủ chứa một người, hơn nữa còn ngoằn ngoèo uốn khúc 180 độ, sau một đoạn hướng thẳng lên trên sẽđổi hướng chúc ngược xuống dưới, giống như một đường ống uốn lượn hìnhsố 9. Những cái động như thế, đại khái cứ cách mười mét lại có một cái.

Từ khi bước chân vào nghề này, tôi đã bò qua không biết bao nhiêu cái động nhưng chưa từng thấy cái nào kết cấu như vậy. Nhìn dưới góc độkiến trúc, khối lượng công việc khi đào những chuỗi động này tương đương với đào một đường hầm hoàn chỉnh. Những cái động này tất nhiên phải cólí do tồn tại tất yếu, bằng không thì quá lãng phí sức lực, nhưng hiệngiờ quả thực tôi không tài nào nhìn ra công dụng của chúng là gì.

Phan Tử ở đằng sau tôi hỏi: “Cậu Ba, cậu có thấy đường hầm này trông quen quen không?”

“Quen sao?” Tôi dừng lại một lát, quay đầu hỏi anh sao lại hỏi vậy.

Phan Tử nói: “Hồi chúng ta đến miếu Hạt Dưa ở Sơn Đông có đi qua động xác, đường hầm dẫn vào động chẳng phải cũng giống thế này sao? Lão giàdẫn đường chẳng phải đã nấp vào một cái động trên trần để hại chúng tasao?”

Nghe anh nói vậy, tôi cũng nhìn kĩ lại những cái động con trên đỉnhđầu. Hồi ở Sơn Đông tôi sợ chết khiếp đi được, làm gì còn tâm trí mà để ý nhìn lên trần cái động xác ngập nước kia, nên bây giờ cũng chịu khôngso sánh được. Nhưng Phan Tử đã nói thế thì chắc không sai nên tôi cũngsinh lòng nghi hoặc, bèn hỏi anh: “Anh chắc chắn chứ?”

Phan Tử cũng không dám chắc chắn, đáp: “Chúng ta nghe lão già kia nói mới biết trên trần động còn có động nữa, chứ lúc mình đi vào trong động tối đen như mực, nào có phát hiện ra.”

Tôi dừng lại, nhìn kĩ những cái động rẽ nhánh trên đầu, lập tức hiểura tác dụng của nó, bèn nói: “Lúc ấy, cái động xác kia cũng ngập nướcnhỉ?”

Phan Tử gật đầu, nói đúng rồi. Tôi lại tiếp tục: “Những động rẽ nhánh phía trên này thật ra chỉ để hít thở. Anh xem, khi nước tràn vào bàiđạo này, do kết cấu gấp khúc nên động nhánh sẽ chứa đầy không khí. Vậycứ bơi một đoạn lại ngoi lên chui đầu vào động nhánh hớp một ngụm dưỡngkhí là có thể bơi tiếp.”

Phan Tử tỏ vẻ kinh ngạc, nói: “Đúng là một biện pháp tài tình. Nói vậy năm đó cái bài đạo này quả thực chìm trong nước sao?”

Tôi nói: “Gần như thế. Xem ra, cái đạo động ngập nước ở miếu Hạt Dưakia, không chừng cũng do người của Uông Tàng Hải đào ra.” Ngẫm lại thìthấy không đúng lắm, cái đạo động kia đã có từ lâu lắm rồi, chú Ba tôiđoán là từ thời Chiến quốc, có thể Lỗ thương vương đã đào nó lúc vào núi xây lăng. Không lẽ sau khi nhìn thấy động xác kia, Uông Tàng Hải đã học hỏi kĩ thuật của cổ nhân? Khả năng này cũng khá lớn.

Đi một lúc khá lâu, cũng không biết đã được bao xa, bài đạo dần dầnrộng mở, rốt cuộc cũng thấy được lối ra. Chúng tôi bò ra ngoài, trướcmặt tất nhiên là một con sông, sâu chừng mười mét, rộng năm, sáu mét,lòng sông đã cạn khô.

Tôi xem xét tình hình con sông này một chút, nói: “Đây là kênh dẫnnước, nước trong sông đào kia chắc chắn được dẫn từ đây ra. Giữ cho nước lưu thông sẽ không bốc mùi hôi thối, hơn nữa cũng có thể đề phòng nướcchảy ngược lại.”

Hai bên sông đều có bờ đất rộng đủ cho một người đi, đoạn trên còndựng một cây cầu đá. Chúng tôi cẩn thận nhích lại gần, đi sang bờ bênkia, Bàn Tử lại hỏi phải đi tiếp thế nào?

Tôi nói: “Sông này thông với sông ngoài kia, có lẽ chỉ tính là một con sông, chúng ta cứ đi theo hướng nước chảy thôi.”

Phan Tử ngồi thụp xuống, nhìn vết nước chảy, chỉ về một hướng, nói: “Chỗ đó.”

Chúng tôi tiếp tục hướng về phía trước, không bao lâu sau, trên vách đá cạnh bờ sông xuất hiện một cái động vuông vắn.

Bàn Tử châm một cây pháo lạnh ném ra, chiếu sáng nền đá màu đen phíangoài cửa động, hiển nhiên đây là tường đá phong cửa địa cung. Bàn Tửchui vào, liên tục châm những cây lạnh ném ra xung quanh, sau đó gọichúng tôi, chúng tôi mới chui ra khỏi đường hầm.

Bên ngoài cửa động là một gian mộ thất xây bằng nham thạch đen, không cao lắm, người có thể miễn cưỡng đứng thẳng nhưng rất rộng. Bốn phía mộ thất đều bày vô số vại sành sắp xếp cực kì ngay ngắn, có thể đây lànhững bình rượu bồi táng. Mỗi vại cao cỡ nửa người, ước tính số lượnglên đến hàng ngàn, xem ra Vạn Nô hoàng đế đúng là một con sâu rượu.

Trên vách tường màu đen bốn phía có khắc mấy phù điêu đơn giản tảcảnh hoàng đế đang thiết yến. Phù điêu này bảo quản cũng không được tốt, có thể là vì nó thông ra bên ngoài. Khí núi lửa ở nơi này tuy không đến nỗi chết người như Phan Tử nói, nhưng khả năng ăn mòn chắc chắn mạnhhơn không khí bình thường, bích họa ở đây có thể bảo tồn đến thế này đãlà cả một kỳ tích. Đáng tiếc là những hình ảnh hiếm hoi sót lại giờ chỉcòn nhìn được mang máng.

Trên hai bức tường nằm ở hai phía trái, phải của mộ thất có một tảngđá chẹn cửa, đằng sau là hành lang tối om om. Một cơn gió lạnh buốt từtrong đó thổi ra, Bàn Tử bèn nhặt hai cây pháo lạnh, ném một cây vàotrong đó nhưng vẫn không nhìn thấy điểm tận cùng.