Thương Hải

Chương 63-1: Tây hành (1)



Hành trình gian khổ vô cùng, đoàn người cực kỳ khó khăn vượt bao núi cao chớn chở, khi qua khỏi rặng Côn Lôn rồi, thấy dứt hẳn địa hình núi đồi, đàng trước họ trải rộng mênh mông vùng sa mạc Qua Bích, gió rét cắt da, tuyệt khồng có lấy đến một giọt nước. Hai bên đường chất chồng xương cốt người, ngựa, bày một cảnh tượng kinh tâm động phách.

Đoàn người miệt mài kiêm trình ngày đêm, mỏi mệt bã người, nhưng hình như nguồn sức lực Cốc Chẩn là vô bờ bến, gã vừa đi vừa nâng cao tinh thần mọi người, mồm miệng không ngớt liến thoắng đủ thứ chuyện, thô tục có, văn nhã có... khiến mọi người mê mải nghe, thoắt chốc họ đã không hay không biết vượt qua hàng trăm dặm đường.

Diêu Tình khó chịu khi thấy Cốc Chẩn hùng hồn độc diễn, dù thân thể đang bệnh hoạn, cô vẫn buông lời khích bác gã, do đó, hai người lời qua tiếng lại không dứt, gặp phải Cốc Chẩn miệng lưỡi dẻo quẹo, Diêu Tình thua nhiều hơn thắng, cô trong lòng chẳng phục, bốc nộ khí xung thiên, đến cả trong giấc ngủ, cũng nói mớ, cũng rán sức tranh hơn thua cùng gã.

Thấy thế, Lục Tiệm quá lo lắng, có một bận, thừa lúc Diêu Tình say ngủ, gã lên tiếng cầu xin Cốc Chẩn thôi cãi vã cùng cô, Cốc Chẩn còn chưa kịp trả lời, Tiên Bích đã cướp lời:

- Tranh hơi vậy là tốt đấy! Tình nha đầu tính khí khác người, ham tranh cạnh, nếu cô ta không có đối thủ, sẽ đâm ra buồn chán, khiến bệnh tình sẽ tệ đi nhiều. Nếu để cô ấy đặt hết tâm trí vào việc tranh hơi cùng Cốc Chẩn, có khi sẽ kích thích tiềm năng trong người, giúp cô tăng thêm ham muốn sống còn mà kháng bệnh. Như vậy, còn tốt bằng mấy dùng Kháng Long Đan ấy chứ!

Tiên Bích tinh thông y thuật, Lục Tiệm nghe lời bàn đó, gã thôi không đề cập trở lại vấn đề nữa!

Ngày đó, Tô Văn Hương đánh hơi được nguồn nước, bèn dò theo, tìm đến dược một vùng ốc đảo cây cỏ xanh tươi, mọi người thi nhau múc nước dự trữ, mua được từ mục dân ở đấy dăm chục con lạc đà, bàn nhau cùng nghỉ lại đấy nửa ngày, rồi sẽ đi tiếp. Đêm đến, mọi người quây quần quanh lửa trại, Tiết Nhĩ dạo nhạc cụ "Ô lý oa lạp", Thanh Nga thổi ống tiêu hồng ngọc hoà theo, Tần Tri Vị thui một con dê béo đến vàng rượm, mùi thịt nướng bốc ngào ngạt khiến ai nấy ứ nước miếng đầy miệng.

Sau bao ngày kiêm trình dọc theo vùng vách đá chân núi khô khốc, hoạ hoằn, khó khăn lắm họ mới lại được thấy mầu sắc xanh tươi của thảo mộc, cuả mạch nước, được thấy đông người, ngựa, dê, lạc đà.... trong lòng đoàn người, ai nấy thảy đều sung sướng vô ngần, đến Diêu Tình cũng nhấm nháp một ngụm rượu sữa ngựa, cô đang ốm yếu trong mình, rượu vào đến bụng, làm đôi gò má đỏ hây hây.

Riêng mình Ngu Chiếu chê rượu quá nhạt, vừa nốc ượu, vừa càu nhàu "Cái này mà cũng gọi là rượu ư? Nó... so với nước tè còn thua xa... Lão tử mà có uống liên tục một năm liền cũng chả say nổi!" Gã cứ mỗi câu càu nhàu, mỗi nốc một cốc, lúc làu bàu xong, hũ rượu cũng cạn queo, mà thấy còn chưa đã, bèn nhào qua cướp hũ rượu của Cốc Chẩn.

Hai người giằng co hũ rượu, một người bảo:

- Lão đệ, thương tình huiynh với chứ!

Một người đáp:

- Nhưng bụng đệ vẫn hãy còn đang rỗng tuếch đây!

Một người nói:

- Lão đệ, đệ chẳng biết trượng nghĩa là gì hết!

Một người lại đáp:

- Lão huynh, gì cũng nhường cho huynh được hết, duy có khoản này thì đệ không nhường được... Nhường cho huynh rồi, sâu rượu nó quậy trong bụng, đệ lấy gì mà dẹp yên chúng nó?

Nhìn hai người, Tiên Bích vừa thấy bực vừa tức cười, cô ngoảnh nhìn chỗ khác, lên tiếng hỏi Tả Phi Khanh chuyện bị bắt làm con tin ngày đó ra sao, Tả Phi Khanh còn chưa kịp trả lời, Ninh Ngưng bỗng bảo:

- Tả sư huynh, muội có dăm câu muốn thưa cùng huynh.

Nói xong, cô đứng lên, đi ra một góc xa xa.

Tả Phi Khanh hơi ngần ngừ, gã nhìn vào Tiên Bích, nói:

- Để lúc trở lại sẽ thuật đầy đủ...

Chợt thấy ánh mắt lạ lẫm của Tiên Bích, lập tức có cảm giác nóng mày nóng mặt, gã do dự một chút, rồi đi về phía Ninh Ngưng.

Khi hai người đến một góc khuất, Ninh Ngưng bèn nói:

- Tả sư huynh, muội có chuyện này muốn thỉnh cầu huynh. Muội... bố muội... cái chết ra sao, chỉ huynh biết, chỉ muội biết, mong huynh đừng đem kể cho người khác nghe!

Tả Phi Khanh lấy làm lạ, hỏi:

- Sao vậy?

Gắng một nụ cười ảm đạm, cô đáp:

- Bố muội hồi sinh tiền làm chuyện ác đã nhiều, quá nửa số người ở đây mang lòng thù hận cùng ông, ngay cả khi không cừu hận, họ cũng không mấy ưa ông. Nên nếu nghe tin ông đã từ trần, tuy họ sẽ không nói ra miệng, nhưng trong lòng thể nào cũng hết sức khoái chí! Tả sư huynh, huynh cũng biết là bố muội hy sinh chết để muội được sống, cho dù sinh thời, ông tác ác thế nào đi nữa, muội cũng không muốn sau khi ông mất, mà hãy còn bị chúng khinh khi!

Tả Phi Khanh đang định trả lời "Muội chỉ giấu được một quãng thời gian, chứ làm sao mà giấu mãi được?", lời chưa ra đến miệng, nom thần tình thảm thiết của Ninh Ngưng, gã đành nuốt câu nói trở vào, gật đầu, bảo:

- Được! Ta sẽ coi như chẳng hề xảy ra chuyện gì trong Ngọc Hà cốc, có ai hỏi, ta sẽ nói là muội và ta đã bị Vạn Quy Tàng bắt lúc chúng ta tìm về chỗ đỉnh Tây Thiên môn!

Ninh Ngưng buồn vui lẫn lộn, cô run giọng nói:

- Đa tạ Tả sư huynh...

Câu nói chưa dứt, nuớc mắt cô đã lã chã tuôn rơi.

Tả Phi Khanh thở dài, lấy từ tay áo ra một tấm khăn tay trắng như tuyết, đặt vào tay Ninh Ngưng.

Ninh Ngưng lau nước mắt, đưa trả khăn lại Tả Phi Khanh, liếc sơ qua gã, rồi hỏi:

- Tả sư huynh, huynh trúng thương hai lần, thương thế huynh giờ đỡ chưa?

Tả Phi Khanh thoáng sững sờ, cười, đáp:

- Chuyện không có gì đáng lo! Ta dùng thuốc của Tiên Bích, nhờ phần nội lực bản thân, chút đỉnh thương thế đó còn tạm cầm cự được!

Ninh Ngưng gật gật đầu, nói:

- Thân phụ muội có dạy muội một phép trị liệu nội thương, cũng khá hữu hiệu, nếu huynh không thấy phiền, để muội liệu thương cho huynh, được không?

Tả Phi Khanh vui vẻ nói:

- Muốn còn không được! Sư muội mà còn có điều gì bất ổn trong lòng, nếu không giãi bày được cùng ai khác, cứ mạnh dạn nói cho ta hay, Tả mỗ tuy không khéo ăn nói, nhưng khéo biết nghe người ta nói!

Ninh Ngưng bất giác hân hoan, cô mỉm cười. Hai người cùng tính tình cô tịch, phần thân thế có điểm tương đồng, họ cùng nhau chuyện trò qua lại đôi ba câu, đã thấy hợp tình, hợp ý.

Lúc họ trở lại chỗ lửa trại, món dê quay của Tần Chi Vị đã làm xong, da con dê thui vàng rượm, buồng gan dê xem xém cháy vành ngoài, óc dê ướp gia vị nướng chín, đồ bạc nhạc đem nấu súp, thịt băm nhỏ đem nhồi nhân bánh... mọi người quây quần thưởng thức các món ăn tuyệt diệu, chuyện trò rôm rả, ngoài Tiên Bích, không ai khác để ý sự vắng mặt hai người họ.

Sáng sớm hôm sau, sao mai vừa mọc, mọi người tiếp tục hành trình, đi sâu dần vào sa mạc, giặc cướp đại mạc gặp trên đường, mỗi lúc một cường bạo, nhưng đoàn người đó tụ họp nhau lại, lực lượng hùng mạnh không thua một quân đoàn, khiến giặc cướp, con số nhiều ít bao nhiêu. rủi chạm vào họ coi như đã gặp vận xui xẻo. Nhất là Cốc Chẩn hành sự tuyệt hảo, mỗi bận đụng độ đạo tặc, không những giết trừ giặc, mà còn cướp lấy tài vật của chúng, mỗi khi bắt được đầu sỏ, đều bức bách đồng đảng phải giao nộp cho gã toàn bộ số châu báu, kim ngân, nếu toán giặc cưỡng mệnh, thủ lãnh chúng coi như đoản mạng. Ngày thường, gã nói cười tạo thoải mái lên khắp cả, nhưng đối đầu giặc cướp, gã trở thành ác độc khôn lường, đến nỗi hai người Ngu Chiếu, Tả Phi Khanh từng kinh qua trăm trận mà cũng phải lấy làm hãi sợ.

Có lần, Ngu Chiếu không dằn được, đã bảo hắn:

- Cốc lão đệ, ta chứng kiến nơi đệ hai bộ mặt khác nhau, một là của Thiện Tài đồng tử phục thị dưới chân ngài Quan Thế Âm, một là của lão quỷ vô thường tay chân vua Diêm La chốn âm phủ.

Cốc Chẩn cười cười, đáp:

- Ngu huynh không biết đấy thôi, đó là đệ học binh thư Tôn Tử, trong đó dạy "Binh vô thường thế, thủy vô thường hình".Gặp người đàng hoàng, đệ lấy đạo đức đối xử, gặp lũ ác nhân chuyên chú vũ lực, đệ sẽ lấy vũ lực mà chơi lại. Đứa nào sắp đặt mưu thần chước quỷ với đệ, đệ cũng sẽ mưu thần chước quỷ đối chọi lại. Cái gì mà lấy đức thu phục người, đệ là đệ không làm nổi.

Ngu Chiếu nghe thế, chỉ biết lắc đầu, cười gượng.

Vượt khỏi sa mạc, chẳng mấy chốc, họ đến đại ấp Phong Đô. Cốc Chẩn dùng tài bảo thu được từ giặc cướp oa khấu, mua một ít thớt ngựa, dùng tiền làm thông hành, đút lót quan lại. Hai Hồ nữ Lan U, Thanh Nga sinh trưởng phương tây, lại theo hầu Ngải Y Ti một thời gian dài, không những họ thông thạo khá nhiều ngoại ngữ, mà còn quen biết nhiều thương nhân, do đó đã thành hai cánh tay tả hữu đắc lực cho Cốc Chẩn, vừa làm thông dịch giỏi, vừa làm người dẫn đường tốt. Qua sự trợ giúp của hai cô, Cốc Chẩn mua được ba mươi bẩy thớt ngựa hảo hạng, dư dùng cho cả đoàn, số ngựa còn lại dùng thay đổi, rôi lo lót tiền bạc mua đường đi lối lại, từ đó phát hiện rằng không chỉ dưới triều Đại Minh, khắp thiên hạ, lũ quan lại đâu đâu cũng tham ô, cũng nhận của đút lót Tài bảo của Cốc Chẩn giúp đoàn người quan ải nào cũng đi qua thông suốt, người người cứ thoải mái ra roi, giục ngựa, ngày vượt ngàn dặm dễ dàng như không.

Thấm thoắt mười ngày qua, toà cự tháp thành Constantinople đã bỏ lại sau lưng. Thời ấy, châu Âu chia năm sẻ bảy làm nhiều tiểu quốc, chiến tranh liên miên dài ngày, mỗi mỗi tấc đất mỗi mỗi máu đào nhuộm đỏ, dân đen khổ sở khôn xiết, nghèo đói vô bỉ, đạo tặc nổi như rươi, tràn lan cùng khắp. Đoàn người gặp nhiều toán kỵ sĩ khôi giáp, mũ trụ nặng nề, có khi là vệ sỹ tiểu quốc, có khi là đám lính đánh thuê, đoàn Cốc Chẩn vượt qua những tiểu quốc, lãnh địa ấy, gã đã có sẵn hai sách lược đối phó, trước hết chi tiền, chi tiền không xong thì động võ. Trong mắt dân cư các vùng đất ấy, đoàn người này thần thông như có pháp thuật ma quái, những dáo dài, trọng phủ đều không phải địch thủ, có xảy ra động thủ động cước, đám dân cư nếu không bỏ mạng tại trận thì đành ôm đầu máu mà tẩu thoát, mà lủi như chuột.

Riêng Lục Tiệm ngày càng lo lắng, sức khoẻ suy sụp của Diêu Tình càng ngày càng hư nhược thấy rõ, xưa kia, cô còn sức tranh hơi cùng Cốc Chẩn, hiện thời, sức lực cũng không đủ để trò chuyện cùng gã, cô suốt ngày ngủ mê mệt, đôi lúc tỉnh cơn ngủ, thần khí u u mê mê. Số nhân sâm Lục Tiệm mang theo còn không bao nhiêu, Diêu Tình sở dĩ còn chi trì được đến giờ toàn trông vào "Đại Kim Cương thần lực". Tuy mọi người xem thấy đều than thầm bất diệu, lộ vẻ rầu rĩ, riêng mình Cốc Chẩn đấu chí chẳng giảm, gã không ngừng khuyến khích mọi người, cổ vũ cả đoàn bước tới.

Bữa đó, sau khi rong ruổi ngày đêm, đoàn người nghe từ phía trước vọng về tiềng nước cuồn cuộn, Tiết Nhĩ lắng tai, rồi hỏi:

- Phia trước phải chăng có biển cả?

Tất cả giục ngựa phóng nhanh đến, quả nhiên một mầu xanh ngắt vô ngần, biển trải rộng vạn dặm, Cốc Chẩn hỏi:

- Đây là biển gì vậy? Sợ rằng trong sách "Sơn Hải kinh" cũng không thấy nói tới?

Lan U bảo:

- Đây là một eo biển, chỗ mình đang đứng đây, xưa kia là lãnh địa của công tước Normandy, bên bờ bên kia, tất là xứ Anh Cát Lợi rồi.

Tiên Bích khẽ gật đầu, nói:

- Năm đó, vua William đáp chiến thuyền nơi này, sang chinh phục Anh Cát Lợi

Lan U, Thanh Nga đồng lúc thấy quặn thắt trong tim, hai cô ngó Tiên Bích, giọng ngạc nhiên, hỏi:

- Tiên Bích tỷ tỷ, tỷ cũng biết thiên cố sự đó ư?

Tiên Bích tủm tỉm cười, không đáp. Lục Tiệm giải thích:

- Thân phụ Tiên Bích tỷ tỷ là người Anh Quốc.

Lan U vui vẻ nói:

- Thất kính thất kính, hèn chi hai chị em tôi thấy Tiên Bích tỷ tỷ trông không giống những người Tây Vực bình thường khác, đâu dè tỷ ấy xuất xứ từ một nơi xa xôi đến thế. Nói thêm là, chị em chúng tôi tuy được tháp tùng chủ nhân đi buôn bán xa, nhưng chỉ mới ghé qua Pháp quốc, cái xứ sở bên kia biển chưa hề đặt chân đến.

Tiên Bích mỉm một nụ cười nhè nhẹ, nói:

- Ta cũng chưa hề đến đấy, chỉ là hồi nhỏ, có được nghe qua.

Cốc Chẩn nhíu mi nhíu mày, quay sang Mạc Ất, thì thấy gã đang chăm chú vào "Tử Vi nghi", co ngón tay tính toán, mộtr lúc sau, hắn bỗng la lớn:

- Mình phải vượt biển!

Ruột gan mọi người đều chùng hẳn xuống. Bấy lâu nay, họ mải miết ngày đêm kiêm trình, chừng như không có được nhiều cơ hội chợp mắt, ai nấy, bất kể nam hay nữ, đều vô cùng mỏi mệt. Giờ đây, xem ra, đoạn đường trước mắt chừng như vô tận, họ đều chẳng khỏi thẫn thờ. Vả lại, biển cả không giống lục địa, dù lục địa có sa mạc, có núi non chớn chở, có đạo tặc, phỉ đồ, nhưng những thứ đó không làm khó được nhóm cao thủ này. Trên biển, gió máy thay đổi, lại thập phần không liệu định trước được, có gió bão to nổi lên, là có tai hoạ mất mạng, dù võ công cao đến đâu, cũng vô ích. Hải trình gặp phải gió ngược, không sao đi nhanh tới được như đi trên đất bằng. Trong tình trạng ốm đau của Diêu Tình, dù không bị bão táp, biển động, ngồi thuyền lâu ngày dễ khiến cô chết sớm. Ý nghĩ trong đầu đó, không ai thốt ra miệng, nhưng nó hằn sâu trên ánh mắt. Lục Tiệm là trông thấy rõ ràng, ruột gan gã quặn thắt, một niềm tuyệt vọng sâu thẳm dâng mạnh trong gã.

Đang lúc ấy, bỗng Cốc Chẩn hô một tiếng lớn, gã tuột vù xuống khỏi yên ngựa, rảo vài bước tới mé biển, nhúng ngón trỏ vào sâu xuống nước, rồi đút ngón tay vào miệng, chép chép lưỡi, chừng như muốn thăm dò tư vị...

Ngu Chiếu chẳng khỏi lấy làm lạ, cất tiếng hỏi:

- Lão đệ, bên dưới biển đó bộ có rượu à?

Cốc Chẩn vui vẻ đáp:

- Rượu đâu mà rượu! Toàn nước!

Ngu Chiếu hỏi:

- Nếu không phải rượu, đệ nếm nước đó làm gì thế?

Cốc Chẩn cười, đáp:

- Đệ muốn xem thử xem cái nước biển này so với nước ở biển Đông Hải, cái nào mặn hơn!

Ngu Chiếu bỗng cười vang, hỏi:

- Kết quả ra sao?

Cốc Chẩn bảo:

- Nước ở đây có hơi mặn hơn một chút!

Tiên Bích chẳng dằn nổi nữa, cô hỏi:

- Cốc Chẩn, đến nước này mà đệ vẫn còn lòng dạ cười đùa nữa sao? Rốt cục, có vượt biển hay không?

Mấy lúc sau này, mọi người nghiễm nhiên coi gã làm trưởng đoàn, chuyện lớn nhỏ gì đều phó mặc gã giải quyết. Mà Cốc Chẩn cũng đều ra tay thu xếp chu đáo, khiến mọi người hài lòng, bây giờ, chuyện vượt biển là chuyện lớn, tất nhiên cũng để gã quyết định, nhất thời, hai mươi con mắt đổ dồn vào gã.

Cốc Chẩn liếc vòng quanh vào từng người, dáng cười cợt, nói:

- Vượt chứ! Sao lại không vượt! Trèo non vượt núi đã được chín phần đường rồi, lẽ đâu bỏ dở một phần cuối?

Tiên Bích khổ não nói:

- Chỉ e phần còn lại này quanh co khúc mắc, dễ khiến người ta nản chí!

Cốc Chẩn bảo:

- Mọi người nghĩ sao thì đệ không biết, nhưng trong tự điển của Cốc Chẩn đệ đây, không có hai chữ nản chí. Ngay khi chìm đắm dưới Cửu U tuyệt ngục, không thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng, phải ăn hẩm uống hiu, đệ chưa từng nản chí một lần. Người ta sống trên đời, không ai thoát khỏi chết. Cốc Chẩn đệ đây, có chết, cũng phải chết cho hoành tráng, dẫu danh không lưu sử xanh, cũng phải làm cho người người trong thiên hạ biết đệ là ai!

Gã nói đến đây, khắp một vùng bờ biển, người người lặng thinh ngẫm nghĩ, chỉ còn nghe tiếng sóng rì rầm hoà cùng tiếng ngưạ thở phì phò. Đôi mắt Cốc Chẩn thâm trầm liếc vào Lục Tiệm, rồi gã tung mình phóng ngồi lên yên ngựa, cả tiếng hỏi:

- Ai theo ta đi tìm thuyền?

Thanh Nga cất cao giọng đáp:

- Tôi đi.

Tiết Nhĩ cũng nói:

- Tô cũng đi nữa!

Cốc Chẩn dòm hai người, vui vẻ bảo:

- Hai người này đúng là "Phụ xướng Phu tuỳ", khiến người ta thấy mà phải nể!

Thanh Nga thoáng hiện nét cười, Tiết Nhĩ thì lại vừa ngượng, vừa vui, mặt mày gã đỏ ửng, đầu cúi gằm xuống. Cốc Chẩn nhìn thấy, gã thôi không châm chọc y nữa, cười hi hi, giục ngựa chạy đi trước.

Qua chừng hai thời thần, ba người đáp một con thuyền hai buồm trở về, thuyền khá nhỏ, chỉ đủ chỗ chứa người, thiếu chỗ cho ngựa, mọi người đành phải rầu rĩ bỏ ngựa lại. Cho đến giờ, đàn ngựa vất vả chở mọi ngườI từ Ba Tư tới đây, chúng đều vô cùng mệt mỏi, nhưng cùng nhau ròng rã ngày đêm đường trường, người và ngựa đã nảy sinh tình quyến luyến, lúc này phải xa rời, dĩ nhiên trong lòng ai nấy đều không tránh khỏi cảm giác nghèn nghẹn, một vài nữ tử trong đoàn ngoái trông mấy thân ngựa còm cõi, khoé mắt có hơi ưng ửng hồng.

Thuỷ thủ phần lớn người Pháp, họ thấy khách nhân hình dung khác lạ, người Hoa người Hồ lẫn lộn, đều không khỏi sinh hiếu kỳ khôn tả, xúm xít nhau lại dòm ngó, cho đến khi thuyền trưởng thúc giục, mới tản ra về chỗ của mỗi người họ. Mà đoàn hành khách bôn ba dặm trường nhiều ngày, cũng mệt bã người, nhân dịp đổi lên đi thuyền, thì hoặc ngủ, hoặc đả toạ, ra sức khôi phục thể lực.

Lo lắng cho quãng đường phía trước, Cốc Chẩn không bụng dạ đâu mà ngủ, đã nhờ Lan U làm thông ngôn, đến hỏi han tình hình bờ bên kia nơi thuyền trưởng.

Thuyền trưởng là một lão già khoảng năm mươi tuổi, gặp cô nương ưa nhìn, trong lòng có phần cao hứng, chuyện trò rôm rả, đại khái:

- Các vị hỏi tình hình bên kia ư? Mới đây, Nữ hoàng Mary băng hà, để lại cho cái cô nhỏ Elizabeth đó một đống những rối rắm, rặt những chuyện nhức đầu. Cô nhỏ Elizabeth này theo Tân giáo, không phải đạo Thiên Chúa, làm cho vua nước Pháp và vua Phillip phía nam đều không mấy thích thú, đến cả Giáo đoàn ở La Mã cũng thấy khó chịu. Là họ chỉ ưa Mary Stuart của Scotland, không ưng ý Nữ hoàng Elizabeth. Xem tình hình đó, thấy sắp loạn lạc to đến nơi. Bọn đại thuyền Tây Ban nha hệt như lũ lưu manh, chỉ chăm chăm lượn lờ quanh vùng biển Anh Cát Lợi, nội tháng này, đã đếm được bảy chiếc rồi. Anh Cát Lợi thì giống như gà con vừa ra ràng, cứ bị lũ chim ưng rình mò, nên đã không làm ăn gì được, coi tình hình, chắc chắn sẽ loạn lớn đến nơi, Cô nhỏ Elizabeth chắc phải thoái vị, để cho Mary Stuart của Scotland lên thế chỗ.

Nghe lão nói, Cốc Chẩn như đi lạc trong sương mù, bèn hỏi kỹ, mới tàm tạm hiểu, bờ biển bên kia có hai nuớc là Anh Quốc và Scotland, đều do nữ vương trị vì, bà hoàng Scotland theo đạo Thiên Chúa, nữ vương Anh Quốc lại theo Tân giáo, đúng là hỏng bét, bờ biển bên này, vua nước Pháp và Tây Ban nha đều theo đạo Thiên Chúa, Hai tôn giáo đó, phần thờ phụng thần minh thì không khác, nhưng giáo quy, nghi thức thì lại bất đồng. Tín đồ Tân giáo lên làm nữ hoàng trị vì, điều đó làm vua các nước vùng biển lân cận bực tức, muốn làm khó dễ Elizabeth.

Cốc Chẩn cũng vẫn chưa hiểu rõ, cứ hỏi thêm gốc rễ sự việc, nhưng lão thuyền trưởng này dần dà trở thành thiếu nhẫn nại, chỉ nói cho qua chuyện:

- Rồi thì Elizabeth cũng sẽ phải thoái vị, ừm... trong thời cuộc tao loạn này, tôi báo trước cho các vị biết, sẽ cho các vị xuống thuyên ở một nơi gần đây nhất, tôi không sao đi xa hơn được, tôi không muốn bị trở thành gà con của Anh Cát Lợi cho lũ chim ưng Tây Ban Nha xơi gọn!

Thấy thuyền trưởng này kiến thức hạn hẹp, có hỏi thêm cũng chẳng moi thêm được gì hay ho, Cốc Chẩn thấy hãy còn may mắn đã nắm được một ít tình hình vùng đất bên bờ bên kia, đành để lão thuyền trưởng thối lui. Rồi bảo Lan U về nghỉ ngơi bên trong khoang thuyền, gã thân lên sàn thuyền, đưa mắt dõi nhìn, bờ biền đàng sau lưng vách núi cao ngất, đá dựng san sát, che chắn ánh sang không qua lọt, làm vùng biển nơi ấy tối ám, âm u màu sắc ma quỷ, nước biển sầm sậm cũng chuyển từ sắc xanh sang màu xám ngắt, đôi ba chỗ đen ngòm, không rõ nông sâu bao lăm, như là vùng ẩn náu của âm hồn biển cả, là chốn chất chứa nộ khí của thương mang đại hải.

Cốc Chẩn cứ như thế, hệt một pho tượng đá, gã đứng trông ra biển khơi, mang nặng tâm sự gì đó, cho đến khi thuyền cập bờ.

Sau một ngày ngơi nghỉ, mọi người đã khôi phục được khá nhiều tinh lực, hành trình trên đất liền xem ra cho thêm được một ít sinh khí. Mạc Ất ngày đêm tính toán trên "Tử Vi nghi", gã nói rõ, điểm đến là ở về phía tây nam vùng đất này, nếu đi nhanh, độ ba ngày nữa sẽ đến. Mọi người nghe tin tốt, thảy đều lên tinh thần.

Ngày kế, mọi người nghỉ chân tại một lữ quán, lúc Diêu Tình tỉnh dậy, không còn bị dằn xóc trên lưng ngựa, tinh thần cô xem chừng khá hơn mấy ngày trước nhiều, bèn hỏi:

- Lục Tiệm, đây là đâu vậy?

Lục Tiệm đáp:

- Đất gì có tên na ná như Anh Cát Lợi.

Mặt Diêu Tình lộ sắc vui mừng, cô bảo:

- Anh Cát Lợi, chả phải cũng là quê hương của sư phụ sao? Ngươi đưa ta ra ngoài để ta xem xem.

Lục Tiệm nghĩ thầm "Thì ra Địa Mẫu nương nương là người gốc gác ở đây!" Gã hơi ngần ngừ, bảo:

- A Tình, bên ngoài gió to, ở trong này có phần êm ấm hơn.

Khoé mắt ửng đỏ, Diêu Tình bảo

- Ngươi chỉ muốn ta buồn chán đến chết trong này chắc?

Thấy thần tình thảm thương của cô, Lục Tiệm không làm gì khác được, đành lấy áo lông trùm cô thật kỹ, cõng cô, đi ra ngoài lữ quán. Hai người men theo một con đường mòn ngoằn ngoèo nho nhỏ mặt đất mầu hồng nhạt, vừa đi vừa ngắm cảnh vật chung quanh. Diêu Tình rất thích thú, miệng lẩm nhẩm một vài khúc dân ca không rõ tên, tay ngắt lá bên đường, thổi tan lớp sương đọng trên ấy, chăm chú quan sát, mắt lấp lánh sáng.

Bầu trời miền đất lạ này cao vòi vọi, thoáng sáng màu xanh lam, ven đường mòn là một khoảnh rừng lớn, sương thu giăng mắc nhuốm một màu tím đầm đậm, từ trong rừng vụt bay ra một con quạ, như một vầng mây đen nho nhỏ, nó lượn lờ trên đầu hai người một lúc, rồi biến dạng vào khoảng rừng sâu. Mặt đất tràn lan kỳ hoa dị thảo không rõ tên, cái thì khô quằn héo hắt, cái thì tươi tắn mơn mởn, Diêu Tình nhận biết chủng loại, cô trỏ tay, nói:

- Đây là Thiên Diệp tử, còn đây là...

Vừa nêu được mấy chữ tên bụi cây, cô chợt chóng mặt, nhắm nghiền mắt, lệ ứa cạnh bên khoé. Ruột gan se thắt, Lục Tiệm hỏi:

- A Tình, cô mệt rồi chăng?

Diêu Tình đáp:

- Ta không mệt, ngươi trông kìa, bên kia có cái gò, mình qua đó dạo chơi nhé?

Tính cô xưa nay kiểu tiểu thư được nuông chiều mất nết, dễ nổi hung, hiếm khi có giọng lưỡi mềm mỏng với gã như vậy, Lục Tiệm nghe qua, trong lòng cảm giác êm dịu, nhưng thoắt cái, gã đã buồn rầu trở lại.

Trèo lên gò rồi, dưới chân gò bên kia là một đại lộ rải đá trắng, hai bên mọc sầm uất những cây sồi, cây chò, thoáng ẩn hiện nơi đỉnh núi đầu đường một toà cổ bảo nguy nga, mỏm chóp đầu cuả cổ bảo nhọn hoắt tựa mũi nhọn bảo kiếm, giữa làn sương khói huyền hoặc mùa thu, mũi nhọn đó như đâm toạc lên không trung xanh ngát bên trên.

Diêu Tình tựa đầu vào vai Lục Tiệm, mắt ngắm nghiá một phiến lá trong tay, miệng nói:

- Ngươi biết không, tiết mùa xuân trên Tây thành, màu sắc ngàn hồng muôn tía, sang mùa hè, thành xanh ngút ngàn, thành thử, bọn ta đều ngán ngẩm mùa thu, khi gió thu trổi lên, hoa héo tàn, lá rụng sạch, sợ nhất là khu hoa viên trở thành tiêu điều, cả đám không mấy ai muốn vào xem. Nhưng đâu có làm gì được, trước sau gì, thu cũng sang. Hãy còn khá, tiết thu còn coi được, mùa đông đến, tuyết lại rơi khắp, cỏ cây ngập tràn là tuyết, lấp lánh sáng trắng, se se lạnh, trông cũng hay đấy. Lục Tiệm này, ngươi nghĩ xem, nếu không có mùa thu, chỉ có tiết đông thôi, hay biết mấy!

Lục Tiệm đáp:

- Có mùa thu hay không là tuỳ thuộc ông trời, bọn mình đâu làm gì được!

Diêu Tình lườm gã, ngán ngẩm:

- Đúng vậy! Mình đâu có làm gì được, mùa thu rồi cũng phải đến, cái đó đich thực làm người ta thấy vô cùng cô đơn!

Lục Tiệm càng nghe cô nói, càng thấy khó hiểu, gã dòm vào cô, hỏi:

- A Tình,cô nói những gì vậy? Tôi thật chẳng hiểu gì hết!

Diêu Tình ngước trông, cô định mỉm miệng cười, nhưng lệ nóng đã tuôn trào lai láng, cô nghẹn ngào nói:

- Ngốc ạ! Ngươi không hiểu gì hết! Thu dến, lá cây rơi rụng hết, hoa héo tàn cả, như thể... như ta ngày hôm nay, thu đã sang rồi, mùa đông của ta chẳng còn đâu xa!

Ruột gan quặn thắt, nước mắt Lục Tiệm lã chã tuôn rơi, gã gắng hit vào một hơi mạnh, cố đè nén, không để bật tiếng nức nở, gượng một nụ cười:

- A Tình, cô không chết đâu, theo lời Mạc Ất nói, cái manh mối kế tiếp còn không xa, nếu đi mau, chỉ trong vòng ba ngày thôi!

Diêu Tình cười cười, nói:

- Ngươi rõ là ngốc nghếch đến hồ đồ, nói toàn những lời lẩm cẩm! Kế đây còn có Kình Tung, rồi sau đó, lại còn Viên Đẩu Vĩ nè, còn Xà Quật. Chỉ mới Mã Ảnh, Kình Tung mà đã vất vả gần chết, ngã gục biết bao nhiêu lạc đà, tiêu vong mất không ít thớt ngựa, đã mất đứt mất hơn một tháng rồi, hai mối Viên, Xà kia... còn cần bao lâu nữa, có trời mới biết!

- A Tình! - Lục Tiệm vùng ôm chặt Diêu Tình vào lòng, kêu gào thảm thiết.

Diêu Tình vẫn cười, nói:

- Ngốc ơi! Tay ngươi tay mạnh bạo, ôm xiết ta đau quá chừng!

Lục Tiệm vội buông cô ra, luôn miệng "Xin lỗi, xin lỗi!"

Diêu Tình khẽ cười, đưa tay áo gạt nước mắt, cô nói:

- Ngốc ạ! Trươc giờ, ngươi chưa hề tệ với ta, chính là ta đã không tốt với ngươi. Nhưng không cách gì khác, ta thân thể thế này, có thay đổi, cũng chẳng được. Vừa rồi, nói với ngươi nhiều vậy, cũng chỉ muốn bảo là, đời người, cũng như cỏ đến mùa thu, rồi cũng chết khi mùa thu qua, có muốn tránh né cũng chả xong! Ta mà chết đi rồi, ngươi cũng đừng quá đau lòng! Người ta chết đi, cũng giống bông hoa tuyết mùa đông, tuy có lạnh lẽo đáy, nhưng lại không nhiễm bụi trần, không chút tiếc nuối!

Lục Tiệm bảo:

- Ngươi nói ta ngốc tận gốc rễ, ta đúng là ngốc nghếch đến tận cùng....

Lòng Diêu Tình xốn xang, đôi mắt cô tối xầm, cô hầu như sắp ngất xỉu!

Bỗng Lục Tiệm vươn người dậy, gã nhiu nhíu mày, chăm chú ngó về nơi xa xa.

Diêu Tình hít vào một hơi thở, hỏi:

- Ngươi nhìn gì thế?

Lục Tiệm đáp:

- Vừa qua, mình đã không để ý, vạt rừng hai bên con lộ đó dường như có người, ồ... còn có cả ngựa nữa...

Diêu Tình nói:

- Cái đó thì có gì lạ đâu! Có khi trong rừng ấy hoặc là phường săn, hoặc người đang đi dạo.

Lục Tiệm bảo:

- Nếu là phường săn, khoảnh rừng lại qua sức yên ắng, còn nếu đi dạo, sao đông người, ngựa thế?

Diêu Tình vui vẻ nói:

- Ngươi thiệt là...đầu óc càng ngày càng tinh minh nhiều hơn lên. Nói không chừng, chẳng mấy nỗi, ta không thể theo kịp ngươi được nữa!

Lục Tiệm cười cười, đáp:

- Đâu thế được! Tôi mà có tinh minh hơn lên, còn khuya bằng được một góc của cô!

Diêu Tình xịu mặt, nói:

- Hay chưa... Ngươi dám bảo ta tinh khôn nhiều chuyện hả? Hãy chờ đấy, xem ta chỉnh ngươi ra sao nhá!

Nói xong, cô định vươn người lên, khốn thay, đến một đầu ngón tay cô cũng không sao cựa quậy được! Thấy thế, Lục Tiệm hi hi cười, gã cúi thấp xuống, cầm tay cô, rồi dùng nó vả nhè nhẹ vào mặt mình, bảo:

- Tôi thay cô chỉnh tôi rồi đấy!

Hai người mặt kề mặt, bốn ánh mắt trao đổi, chan chứa nhu tình.

Diêu Tình hứ một tiếng, mỉm cười, bảo:

- Tiểu tử nhà ngươi, càng ngày càng lém lỉnh, chỉ đi học toàn những trò không hay từ xú hồ ly!