Mê Hiệp Ký

Quyển 1 - Chương 3



Sương mù chưa tan, thậm chí ở giữa hồ lại càng lúc càng dàyhơn, dày đến mức chẳng nhìn rõ đám lá sen phía đằng xa bên cạnh cây cầu cửukhúc[1] nữa.

[1] Cửu khúc kiều là loại cầu có chín lần gấp khúc, chiathành chín đoạn, bởi theo quan niệm của người Trung Quốc, số chín vừa là số tônquý vừa là số may mắn.

Lúc Hà Y tìm thấy Mộ Dung Vô Phong, chàng đang ngồi một mìnhtrong đình nhỏ ở giữa hồ thưởng trà. Một lư sưởi đặt ngay cạnh ghế của chàng, củikhô đang cháy phát ra tiếng kêu tí tách, tựa như giúp chàng xua đi không khí ẩmướt. Trên chân chàng phủ một chiếc chăn lông chồn trắng muốt mềm mại. Trong lànsương mù, nước da trắng bệch cùng bộ y phục cũng một màu trắng phau đang khoáctrên người khiến chàng như hòa tan vào sương khói.

Có vẻ như chàng đang đặt toàn bộ tâm tư nghĩ ngợi đến điềugì đó. Đến mức Hà Y đã tới bên cạnh cũng bắt đầu đắn đo xem rốt cuộc có nên quấyrầy chàng không. Thực ra nàng nghĩ mãi không hiểu, một người sao có thể ngồiyên trong một tư thế lâu đến vậy.

Chàng cứ chăm chú nhìn về nơi xa, có vẻ như hoàn toàn khôngđể ý đến Hà Y đã tới đằng sau lưng mình nhưng đến khi Hà Y lại gần chàng độtnhiên cất tiếng: “Sao cô nương lại quay về sớm như thế?”.

Hà Y vốn rất tự tin vào khinh công của mình, nàng là mộttrong số rất ít người trong thiên hạ có khả năng đi lại mà hoàn toàn không hềphát ra tiếng bước chân. Vậy mà Mộ Dung Vô Phong, một người tàn phế vốn chẳngcó chút võ công lại có trực giác đáng sợ như thế.

Hà Y không nhịn được hỏi: “Làm sao ngài biết chắc người saulưng ngài chính là tôi?”.

Mộ Dung Vô Phong lạnh nhạt đáp: “Tôi có thể cảm giác thấy”.

Hà Y vòng tới trước mặt chàng, với một chiếc ghế rồi ngồi xuốngnói: “Tôi có việc tìm ngài”.

Mộ Dung Vô Phong ngẩng đầu nhìn, đợi nàng nói tiếp.

Đúng lúc Hà Y đang định mở miệng chợt thấy một người áo trắngbưng hai bát thuốc đi tới rồi đặt xuống bàn đá. Bát thuốc tỏa lên một mùi đắngchát nồng nồng.

Người áo trắng tuổi khoảng năm mươi, dung mạo thanh thoát,thân hình cao lớn, hẳn lúc còn trai trẻ phải là một trang mỹ nam tử.

Ông ta đặt khay thuốc xuống bàn rồi ghé vào tai Mộ Dung VôPhong nhỏ giọng nói vài câu, dáng vẻ rất mực cung kính. Mộ Dung Vô Phong gật đầu,nói với Hà Y: “Vị này là Tạ tổng quản, Tạ Đình Vân”.

Hà Y nói: “Rất hân hạnh. Tôi họ Sở, gọi là Sở Hà Y”.

Tạ Đình Vân khẽ cười nói: “Tin cô nương một kiếm đánh bạiPhi Ngư đường tại hạ vừa được nghe kể. Bội phục vô cùng”. Dáng vẻ của ông takhi gặp gỡ người khác rất chân thành, không phải loại người dẻo mồm nói lắm.Không đợi Hà Y tiếp tục hàn huyên, ông ta nói tiếp: “Cô nương thong thả ngồi lại,tôi có việc, xin lui trước”.

Mộ Dung Vô Phong thấy ông ta đã đi xa mới nhấc tay, đem toànbộ số thuốc đổ thẳng xuống hồ.

Hà Y trợn tròn mắt, nhíu chặt mi, kinh ngạc nhìn chàng, nói:“Thuốc này… ngài không uống?”.

Mộ Dung Vô Phong đáp: “Không uống”.

Hà Y nói: “Nếu như bệnh nhân của ngài không chịu uống thuốc,có phải ngài cũng khuyên anh ta đổ thuốc đi?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Đơn thuốc tôi kê, bọn họ sao dámkhông uống?”.

Hà Y nói: “Thuốc vừa rồi là do ai kê đơn?”.

Mộ Dung Vô Phong nghĩ một chút rồi đáp: “Tôi”.

Hà Y bật cười. Nàng không sao nghĩ tới, lời nói của một ngườilại có thể mâu thuẫn đến vậy. Nàng còn đang muốn hỏi lại cho rõ, Mộ Dung VôPhong lại không muốn tiếp tục nói về mình, bèn đổi chủ đề, nói: “Cô nương vộitìm tôi thế, có phải đã nghe được tin gì không?”.

Hà Y đáp: “Tin ngài muốn nghe thì không có. Chỉ nghe được mộttin tức liên quan tới chính tôi thôi”.

“Tin gì thế?”.

“Mười ngày nữa tôi sẽ tỉ kiếm với Hạ Hồi ở Phi Diên cốc.”

“Tôi nghe qua rồi”, chàng lãnh đạm nói.

“Ngài nghe rồi?”, nàng ngạc nhiên hỏi.

“Cuối cùng thì cô nương đi hay không đi?”

“Đi.”

“Hình như hôm qua cô nương có nói không muốn đi.”

“Tôi đổi ý rồi.”

“Cô nương nắm chắc phần thắng?”

“Không hề.”

Mộ Dung Vô Phong thong thả rót một chén trà, một hơi uống cạn,không nói câu nào chỉ lạnh lùng nhìn nàng.

Hà Y hỏi: “Ngài trợn mắt nhìn tôi làm gì?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô chớ quên, vụ làm ăn giữa chúng tađã có ước định trước, việc cô với Hạ Hồi so kiếm là sau này. Cô nên bỏ qua nhữngthứ lằng nhằng khác, chuyên tâm làm việc cho tôi mới đúng”.

Hà Y nói: “Ngài nói có lý, chỉ là…”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô vẫn muốn đi?”.

Hà Y gật đầu cười khổ: “Ngài đừng quên tôi là một kiếmkhách. Ngài là đại phu cho nên việc của ngài là trị bệnh cho người. Tôi là kiếmkhách nên việc của tôi là so kiếm. Công việc của chúng ta chính là như thế, kểcả ngài không muốn, người khác vẫn cứ tìm đến ngài”, nàng ngừng một chút rồinói tiếp: “Đương nhiên tôi không giống ngài. Ngài trời sinh đã là một đại phu,còn tôi thì vừa mới phát hiện ra mình là một kiếm khách”.

Với Hà Y mà nói, tình huống xấu nhất một người gặp phảikhông gì hơn là bị người khác “phát hiện”. Trên người nàng có quá nhiều thứ màbản thân nàng vốn cũng chẳng biết, thế mà bị người khác đột nhiên “phát hiện”ra rồi.

Nàng không đợi Mộ Dung Vô Phong đáp lời mà chuyển ngay đềtài, nói: “Liệu tôi có thể tới phòng của mẫu thân ngài ở trước đây xem xétkhông, có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy đầu mối gì ở đó chăng?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Phòng của bà ở ngay cạnh phòng củatôi, xin hãy theo tôi”.

Hai người đi men theo bức tường hoa tới một cánh cửa màu sonở hành lang bên phải, Mộ Dung Vô Phong đẩy cửa nói: “Mời vào”.

Hà Y tiến vào, thấy trong phòng sạch sẽ gọn gàng như mới, đằngsau tấm bình phong là phòng trong rộng rãi, giữa phòng có đặt một chiếc thái sưký[2] bằng gỗ tử đàn có lót đệm lông cừu màu hồng đậm. Một bên đặt lò hâm trà,tuy không đốt xạ hương nhưng vẫn có than. Một bên đặt bình hoa mai, hoa lá đềuđã khô héo, chỉ còn trơ cành khẳng khiu. Cạnh ghế còn một cái bình lớn bêntrong cắm mấy cuộn tranh. Hà Y rút ra một cuộn, lật giở xem, chỉ thấy bên trongvẽ một mỹ nhân, tóc đen vấn cao, trắng trẻo tựa trăng đêm, mắt trong và tĩnh lặngtựa như nước hồ thu, môi đỏ như son. Hà Y đặt cuộn tranh xuống, rồi lại mở thêmsáu cuộn khác, trừ hai cuộn bên trong vẽ sơn thủy và điểu thú[3], còn lại đềulà vẽ cùng một vị mỹ nhân, chẳng qua lúc thì là áo khoác hồng ánh bạc, áo lụa mỏng,quần hoa hòe; khi thì áo vàng đỏ, khăn choàng thêu hoa, quần xanh nhạt. Mái tóccũng vẽ mỗi lúc mỗi khác, hoặc vấn cao, hoặc buông xõa, khi bện tròn. Tư thếthì khi dựa lan can, lúc giỡn nước, lúc lại là cảnh đùa chơi với mèo… có khi lạiđang mỉm cười một mình, phong phú muôn vẻ.

[2] Một loại ghế của Trung Quốc.

[3] Tranh sơn thủy (núi sông) và điểu thú (động vật) là haiđề tài truyền thống trong hội họa cổ của Trung Quốc. Như tên gọi tranh sơn thủychủ yếu họa cảnh sơn thanh thủy tú, núi sông tươi đẹp; tranh điểu thú lấy đềtài là các loại động vật, phổ biến là kê (gà), mã (ngựa), hồ, ưng…

Hà Y xem kỹ tất cả rồi cuộn lại cắm trả vào bình, nói: “Ngườiđược vẽ trong tranh chính là mẫu thân của ngài?”.

Mộ Dung Vô Phong gật đầu.

Hà Y nói: “Dáng vẻ của bà tựa như rất thanh nhàn”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Đây là hình dáng của bà năm mười bảytuổi trở về trước. Ngày bà mười bảy tuổi đột nhiên mất tích, trong cốc không thấyđâu nữa”.

Hà Y kinh ngạc nói: “Mất tích?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Sau này bà cũng không quay trở lại.Không ai biết bà đã đi đâu”.

Hà Y nói: “Ba đông Tam Hiệp đèo thăm thẳm, Vượn hú ba câu lệướt y[4]. Tôi nghe nói sâu trong núi vùng này thường có vượn khỉ tới lui, lũ vượn,khỉ này hình như đều đã sống trên trăm năm, đã thành tinh, toàn thân lông trắng,mừng giận thất thường, thích ghẹo mỹ nữ, trông thấy người có chút nhan sắc thìnhất định sẽ cướp đi”.

[4] Lời ca của nhân vật ngư phủ trong Thủy Kinh Chú – GiangThủy của nhà địa lý, tản văn Lịch Đạo Nguyên (470 – 527) thời Bắc Ngụy (386 –557), Trung Quốc. (Nguyên văn: Ba Tây Tam Hiệp u hiệp trường, Viên đề/Minh tamthanh lệ triêm thường: Đèo Tam Hiệp phía đông đất Ba thăm thẳm âm u, Vượn kêuba tiếng người sợ mà khóc ướt đẫm áo)

Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: “Cô muốn nói, phụ thân củatôi là một con vượn?”.

Hà Y cứng lưỡi, nói: “Đâu dám thế. Chỉ có điều, nếu như mẫuthân của ngài không hề quay lại, vậy làm sao ngài tới được đây? Khi mẫu thânngài rời đi, hình như không phải là đi lấy chồng?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Nếu như tôi biết thì còn bỏ ngân lượngthuê cô làm gì nữa?”.

Hà Y nói: “Vậy còn chuyện nói mẫu thân ngài do đẻ khó mà quađời? Nếu như bà ấy đã mất tích, làm sao ngài biết bà ấy do đẻ khó mà mất?”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Đây là do ông ngoại tôi kể lại. Ôngcòn nói, mẫu thân tôi qua đời ở chính căn phòng này, rồi được chôn cất ở saunúi. Lời của ông cũng không thể tin chút nào được”.

Hà Y nói: “Ông ngoại của ngài trước sau gì cũng không hề nóicho ngài biết phụ thân ngài là ai”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Tính tình của ông rất khó chịu, so vớitôi chỉ có hơn chứ không có kém. Chẳng qua về việc này có thể chính ông ngoạicũng không biết”.

Hà Y nói: “Bây giờ nhìn lại, vấn đề có vẻ như càng lúc càngnhiều rồi. Tôi xem xét kỹ lưỡng. Có thể mẫu thân ngài vẫn còn tại thế chăng?”.

Mộ Dung Vô Phong đáp: “Tôi không rõ. Chí ít, từ nhỏ tới giờtôi chưa hề gặp bà. Cô xem xong chưa?”, có vẻ như chàng không muốn ở lại cănphòng này thêm chút nào nữa.

Hà Y nói: “Chưa, tôi còn rất nhiều chuyện chưa hiểu rõ”.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Cô không cần hỏi tôi. Bởi những điềutôi biết thực sự rất ít, kể cả có biết đi chăng nữa thì cũng đều không đúng sựthật”.

Hà Y hỏi: “Tôi nghe ngóng được Thính Phong Lâu có một tay tiểunhị, chuyên kể những câu chuyện vùng này, tôi định tối nay tìm anh ta. Ngài cómuốn đi với tôi không? Hay là để tôi đi về rồi kể lại cho ngài?”.

Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Lúc nào?”.

Hà Y đáp: “Giờ Dậu hai khắc[5]”.

[5] Trung Quốc thời cổ dùng mười hai con giáp để định giờ,giờ Dậu là từ 17 – 19 giờ. Một khắc là mười lăm phút, bốn khắc là một tiếng đồnghồ.

Mộ Dung Vô Phong nói: “Tôi vẫn còn vài bệnh nhân, đúng giờ ấychúng ta gặp nhau ở Thính Phong lâu”.

Con đường từ Vân Mộng cốc thông đến Thần Nông trấn thì ra rộngdài hơn khá nhiều so với tưởng tượng của Hà Y, phóng ngựa phi nhanh cũng phải nửagiờ mới có thể đi hết. Vừa nghĩ tới việc mười ngày nữa phải so kiếm. Hà Y cảmthấy đầu mình như to ra. Lại còn thêm việc mà Mộ Dung Vô Phong giao phó, có vẻnhư càng lúc càng tối tăm mặt mũi, bỗng dưng thấy tâm sự trùng trùng. Con đườngthấp thoáng dưới tán rừng rậm, sương mù chưa tan, bốn phía tĩnh mịch chẳng cótiếng người. Mới đi được nửa tuần hương, Hà Y chợt phát hiện phía xa có bóngngười. Bóng người ấy đứng bất động giữa đường.

Hà Y dừng ngựa, trông thấy một người áo xám đang trợn trừngmắt nhìn mình. Trên mặt người này có một vết sẹo dài do đao chém.

“Thẩm Bân”, nàng có chút ngạc nhiên kêu lên.

Thẩm Bân nói: “Tôi ở đây đợi cô nương”.

Hà Y nói: “Chẳng lẽ Lưu trại chủ lại có gì sai khiến?”.

Thẩm Bân nói: “Sư huynh tôi nghe xong lời cô nương nói, cảmthấy rất thất vọng”.

Hà Y nói: “Vậy à. Lần này các hạ đến là muốn?”.

Thẩm Bân nói: “Sư huynh không chỉ thất vọng về cô nương, màcòn thất vọng về tôi”.

Hà Y nói: “Cho nên ngài đến là muốn tôi thay đổi ý kiến?”.

Thẩm Bân nói: “Từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ cầu xin nữnhân. Nếu như phải cầu xin, đó cũng là chuyện của kiếp sau”.

Hà Y cười nói: “Có khí phách, vậy thì sau này gặp lại thôi”.

Nàng vừa nói hai chữ “gặp lại” đã thấy Thẩm Bân chầm chậmđưa tay tới đốc kiếm. Chữ “thôi” chưa kịp dứt, Thẩm Bân đã rút kiếm ra khỏi vỏ.Tốc độ xuất kiếm rõ ràng nhanh hơn Lưu Côn nhiều. Hà Y nhìn thấy sống kiếm cóđường vân màu máu, bên trong càng đỏ đậm hơn. Tay trái Thẩm Bân bắt kiếm quyết,nói: “Rút kiếm của cô ra”.

Hà Y nói: “Võ công của ngài rõ ràng cao hơn lệnh sư huynh, vậymà cam lòng ở dưới ông ta, thật bội phục, bội phục”.

Thẩm Bân nói: “Trong Giang hồ danh nhân phổ[6] tôi xếp thứmười hai, sư huynh mười lăm. Con mắt của Phần Trai lão nhân, rốt cuộc vẫn rấtcông bằng”.

[6] Sách xếp hạng các nhân vật nổi tiếng trong giang hồ.

Hà Y hỏi: “Hạ Hồi xếp thứ mấy?”.

Thẩm Bân đáp: “Không biết. Cuốn sách ấy của Phần Trai lãonhân chỉ xếp thứ tự những người ông ta quen biết và từng gặp mặt. Ông ta chưa từnggặp Hạ Hồi”.

Hà Y nói: “Nếu như ngài muốn so tài, chúng ta tỉ thí mộtphen cũng chẳng sao”, nàng cũng rút kiếm, vừa dứt lời bỗng nghe thấy một tiếngnói vọng tới: “Lẽ nào cô nương không nhận ra? Hắn ta muốn thăm dò võ công củacô nương, rồi đem điểm yếu về báo cho Hạ Hồi, đảm bảo Hạ Hồi tất thắng”.

Tiếng nói lúc gần lúc xa, khi to khi nhỏ, hai người nhìn bốnphía xung quanh chẳng thấy bóng dáng ai. Hà Y cao giọng đáp: “Cảm ơn ý tốt nhắcnhở, chỉ là bạn hữu đã đến giúp đỡ, sao không ra đây gặp mặt?”.

Tiếng nói ấy cất lên: “Ta đang ở đây”. Tiếng nói đang nhỏ chợtthành to, Hà Y ngẩng đầu nhìn trên cành cao cách mặt đất mấy chục trượng, Hà Ytung người nhảy lên cây, bóng xám ấy lùi lại mấy trượng, theo hướng đông bắc màđi mất. Hà Y vận khí, phi thân đuổi theo. Tốc độ hai người tương đương, láchqua cây cối um tùm trong rừng, bóng xám kia tựa như có ý dụ nàng vào sâu trongrừng. Hà Y nghĩ ngợi chợt thấy không ổn, vội xoay người quay về, bỗng ngửi thấymùi máu tanh, định thần nhìn lại, Thẩm Bân đã đầu một nơi thân một nẻo, nằmtrong một vũng máu lớn! Hai mắt vẫn còn trợn trừng, dáng vẻ tựa như đang cực kỳsợ hãi. Hà Y quay đầu nhìn ra xa, bóng xám kia đã mất dạng.

Nàng chợt cảm thấy da đầu tê tê, sợ đến ướt đẫm mồ hôi, sốnglưng lạnh toát. Đến cả dũng khí quay lại nhìn xác chết một cái cũng không có.

Đây là lần đầu tiên nàng chứng kiến một người phút trướcđang còn sống, phút sau đã bị giết một cách tàn nhẫn như thế. Khinh công củabóng xám kia rõ ràng tương đương với nàng, Hà Y cũng không tin hắn ta có thuậtphân thân. Xung quanh nhất định vẫn còn một người nữa ẩn nấp. Mà võ công củangười thứ hai này, nhất định cao hơn Thẩm Bân.

Vậy mà nàng lại không phát giác được gì. Điều này cho thấy,rõ ràng khinh công của người thứ hai không thể thấp hơn nàng. Nếu hai người nàyliên thủ…

Nàng nhìn lại con ngựa của mình. Nó không bị kinh hãi chútnào. Rất bình thường đứng ở ven đường ăn cỏ. Trên lưng ngựa là bọc hành lý củanàng, trong bọc có ngân phiếu vài trăm lượng.

Một cơn gió nhè nhẹ ở trong rừng lùa tới. Từ phía cây cốibên trái đường, bỗng có một âm thanh rất nhỏ phát ra. “Vụt” một tiếng, thânhình nàng lao đi, kiếm như chớp giật đâm về phía ấy! Quả nhiên một bóng xám lướtđi mười trượng lui về phía bắc.

Tuy lần này bóng xám cũng dẫn dụ nàng vào sâu trong rừng,nhưng Hà Y không chút do dự đuổi theo. Khi nàng dốc hết sức chạy theo, tốc độ cựcnhanh, chẳng bao lâu sau, hai người chỉ còn cách nhau chưa đến mười bước, ngườiáo xám lại tựa như cố tình chậm lại. Hà Y cũng chậm lại theo, trước sau giữ khoảngcách năm bước với hắn ta. Trong rừng là cảnh tranh tối tranh sáng, nàng khôngthể không đề cao cảnh giác, cẩn thận đề phòng đồng bọn của kẻ áo xám này độtnhiên xuất hiện.

Không đợi nàng nghĩ xong, kẻ áo xám đã vung tay ném một nắmmạt sắt như mưa về phía nàng, trong đám mạt sắt có lẫn một mùi kỳ lạ, trong đócó độc! Hà Y vung kiếm như gió, miễn cưỡng tránh thoát, lại thấy một kẻ áo xámkhác vung kiếm xông đến, tạo thành thế liên thủ công kích nàng. Hà Y thầm quyếtđịnh, bất kể thế nào bản thân cũng phải tránh kẻ dùng độc kia trước. Tay tráivung ra, dải lụa trắng quấn lấy một cành cây trên đỉnh đầu, mượn lực bay vútlên, một kiếm đâm thẳng tới cổ họng kẻ áo xám.

Trước sau đều là kẻ địch, nàng không thể yếu lòng nữa, xuấtra sát chiêu.

Mà kẻ dùng độc kia lại không hề liên thủ với đồng bọn, ngượclại còn thoái lui về phía rừng cây.

Kẻ áo xám kia, nương theo thế kiếm của Hà Y, lùi một bướcdài ba thước, thừa cơ hóa giải lực kiếm của Hà Y rồi vung kiếm đâm trả, chỉnghe “keng” một tiếng, hai kiếm tóe lửa, hai luồng lực đạo xô nhau, Hà Y chỉ cảmthấy một luồng lực rất lớn men theo sống kiếm truyền đến, chấn động tới mức hổkhẩu[7] tê dại. Kiếm pháp của nàng vốn theo hướng nhẹ nhàng linh hoạt, khéoléo, phải đấu với người có nội lực thâm hậu, về phương diện thể lực mà nói,không tránh khỏi phải ăn quả đắng. Huống chi kiếm pháp của người này lão luyện,tinh thâm, chẳng phải chỉ là một cao thủ bình thường.

[7] Khoảng giữa ngón cái và ngón trỏ gọi là hổ khẩu.

Dưới tình huống này, nàng nghĩ tới phương án thích hợp nhất“chạy”. Chạy thật nhanh. Nhưng kiếm của nàng lại chẳng chịu nghe lời, tựa nhưdây dưa không chịu đi. Chính bởi nàng không thể chịu được việc bản thân vẫnchưa nỗ lực hết sức đã nhận thua. Huống chi trong chuyện này vẫn còn một ThẩmBân. Bất kể như thế nào, ít nhất cũng phải nghĩ cách làm rõ thân phận thật sự củahung thủ.

Trong lúc suy nghĩ ấy, hai người đã đấu hai mươi chiêu rồi,kiếm pháp của kẻ áo xám càng thêm quyết liệt mà Hà Y thì càng chiến càng quả cảm.Sau ba mươi chiêu, nàng đã phát hiện ra một sơ hở của kẻ áo xám. Nàng xoay ngườiđâm một nhát, đánh thẳng tới cổ tay phải của kẻ áo xám, nhưng kẻ áo xám lại tựanhư đã lường trước chiêu này của nàng, hạ thấp người xuống, tay trái đánh ra mộtchưởng, nhắm thẳng đỉnh đầu nàng, buộc nàng thu kiếm tự vệ. Hà Y vặn eo mộtcái, nghiêng người tránh thoát trong gang tấc, vung tay, dải lụa trắng cuốn lấytay trái của hắn ta, thân hình nàng nương theo lực kéo của dải lụa phóng tớisau lưng kẻ áo xám.

Cùng với thân hình còn có kiếm của nàng. Cuối cùng nàng cũngthở phào được một tiếng. Lần này nàng tính toán đúng rồi. Toàn bộ tấm lưng củakẻ áo xám đã như một cánh cửa mở rộng ra cho nàng.

Nhát kiếm này nhắm đâm tới điểm cách tim của hắn ba tấc vềbên phải. Ấy là bởi nàng đã dự liệu trước, kẻ áo xám nghe thấy tiếng gió sẽtránh về bên phải. Sau đó nàng nghe “keng” một tiếng. Thanh kiếm của nàng đãđâm trúng sống kiếm của kẻ áo xám. Hắn nghiễm nhiên không tránh né, lại đoánchính xác nơi kiếm của nàng nhắm tới, đem kiếm làm khiên, vừa khéo bảo vệ bảnthân.

Cao thủ giao đấu, quả nhiên chỉ trong gang tấc. Mảy may sailầm, giá phải trả chính là tính mạng.

Hai kiếm giao nhau, hai người ai nấy đều lùi lại ba thước. Kẻáo xám đột nhiên lên tiếng: “Ngươi không phải Đường Thập”.

Trong rừng đã tối tới mức chỉ còn nhìn thấy hai bóng người.

Hà Y lạnh lùng hừ một tiếng, nói: “Không phải. Chính ngươigiết Thẩm Bân?”.

Kẻ áo xám đáp: “Không hề”.

Hà Y hỏi: “Các hạ là ai?”.

“Tạ Đình Vân.”

“Tạ tổng quản?” Hà Y kinh ngạc: “Tôi là Sở Hà Y, ngài… saongài lại ở đây?”.

Kẻ áo xám thoáng động, cũng rất ngạc nhiên, nói: “Là Sở cônương? Tại hạ và Đường môn có chút thù riêng, đang ở chỗ này giải quyết. Đanggiao đấu với Đường Thập, hắn bị thương bỏ chạy”, ông ta ngừng một lát rồi nóitiếp: “Độc của Đường Lục không làm cô nương bị thương chứ?”.

Thì ra là Đường môn. Độc của Đường môn, dính phải một chútcoi như mất mạng.

Hà Y bán tín bán nghi nói: “Không sao. Ngài quả đúng là Tạ tổngquản?”.

Người đó cười, nói: “Chúng ta mới rồi còn ở đình giữa hồ gặpmặt, sao cô nương mau quên thế?”.

Quả nhiên là Tạ Đình Vân.

Hà Y thầm nhủ trong lòng một tiếng: “Thật xấu hổ”. Giả sửtrong hai người có một người võ công kém hơn một chút, há chẳng phải đã thànhma sao? Vân Mộng cốc quả là nơi ngọa hổ tàng long.

Hà Y thở ra một hơi, nói: “Tạ tổng quản sao biết được tôikhông phải Đường Thập? Lẽ nào Đường Thập cũng là nữ nhân?”.

Tạ Đình Vân đáp: “Không những là nữ nhân, mà còn là một nữnhân cực kỳ lợi hại. Cứ theo tính tình của cô ta, trong vòng mười chiêu nhất địnhsẽ phóng ra ngũ độc thần châm. Mà cô nương sau ba mươi chiêu vẫn không phóng raám khí, bởi thế tôi mới đoán có thể không phải là Đường Thập. Có điều tại hạ cómay mắn lĩnh giáo ‘Tố Thủy Băng Tiêu’ của cô nương rồi”.

Hà Y nói: “Xin hãy theo tôi”. Nàng dẫn Tạ Đình Vân đến chỗThẩm Bân bị giết, lại phát hiện ra thi thể của Thẩm Bân đã biến mất, đến baohành lý của mình trên lưng ngựa cũng chẳng thấy đâu nữa.

Tạ Đình Vân nói: “Xem ra đến khu rừng này hôm nay không chỉcó một nhóm người. Giết người thu xác tuyệt đối không phải là tác phong của Đườngmôn”.

Hà Y chau mày nói: “Có lẽ là người của chính phái Nga Mylàm. Thẩm Bân tới tìm tôi, nhất định có không ít sư huynh đệ biết chuyện. Hoặcgiả bọn họ sợ có điều gì ngoài ý muốn nên lén bám theo đến đây, vừa hay thu dọnthi thể”.

“Hy vọng không dẫn tới hiểu lầm gì”, Tạ Đình Vân thở dài mộttiếng: “Phái Nga My người đông thế mạnh, nhưng gần đây trên giang hồ lại liên tụcchịu nhục…”.

Hà Y lên ngựa, cười khổ nói: “Hiểu lầm giữa tôi với phái NgaMy đã chẳng ít. Tôi còn có việc, xin đi trước đây”.

“Cô nương cẩn thận.”

Phong lai tứ diện ngọa đương trung.[8]

[8] Câu cuối cùng trong bài thứ tư của chùm năm bài thơ MộngMộ Tạp Thư ngũ thủ (…) của họa gia nổi tiếng đời Thanh – Kim Nông (1687 – 1763)ý tả sự thanh cao thoát tục, nguyên văn:

Âu ba đình ngoại thủy mông mông,

Ký đắc kim thu huề điếu đồng.

Tiêu thụ bạch liên hoa thế giới,

Phong lai tứ diện ngọa đương trung.

(Chim âu bỡn nước ngoài đình,

Thu nay đã nhớ mang theo đồ câu cá.

Đắm mình trong thế giới tràn ngập hoa sen trắng,

Bốn phương gió nổi vẫn nhởn nha nằm giữa.)

Ngô Du để chân trần, cuộn mình nằm trên giường nhỏ đan bằngmây đặt trên gác nhỏ. Đôi chân của nàng mềm mại, tinh tế, móng chân sơn màu mậnchín.

Mái tóc dài đen tuyền rủ từ giường buông chạm đất.

Trên tóc có vương một vài chiếc lá ngô đồng khô vàng, nhưngnàng chỉ nhìn chúng, lười không đưa tay gỡ xuống.

“Tiểu thư, nên ăn cơm chiều thôi”, Nguyệt Nhi đặt một đĩabánh sữa, một đĩa bánh mật ong lên chiếc bàn trước giường. Bưng bát canh longnhãn tới trước mặt nàng.

Ngô Du ngồi dậy, uống được hai ngụm rồi đăm đăm nhìn bátcanh, ngây người ngơ ngẩn.

“Lại nghĩ ngợi linh tinh rồi”, Nguyệt Nhi than thở: “Tuyđúng là ngài ấy thích ăn long nhãn nhất nhưng tiểu thư có nhìn đắm đuối bátcanh ý đến chết cũng chẳng thấy được ngài ấy đâu”.

Vừa nhắc tới chàng, trong lòng Ngô Du nhói đau, cáu gắt: “Emlại nói linh tinh gì thế. Cái gì mà ta với ngài ấy. Em phải đi lấy bệnh án tiênsinh phê cho ta mới đúng”.

Nguyệt Nhi lấy trong người ra một tập giấy, nói: “Chẳng phảiđây rồi sao? Nguyệt Nhi có bao giờ dám quên đem theo bảo bối của tiểu thư chứ?Chỉ là bệnh án hôm nay quá nhiều, em sợ tiểu thư xem đến hoa mắt, cho nên chỉđem một nửa tới thôi”.

Tiện tay rút ra một tờ giấy mai hoa, bên trên có mấy chữ lốitiểu khải ngay ngắn cẩn thân do chính tay nàng viết:

Trẻ nhỏ ho về đêm, đau bụng, mặt xanh xao, ấy là chứng nhiễmlạnh. Một nhánh tỏi, năm phần trầm hương, giã nhuyễn vê thành viên to bằng hạtcải, mỗi lần uống bảy viên, chiêu bằng sữa. Lại thấy, co quắp chân mà ho, dángvẻ như động kinh, có đổ mồ hôi lạnh. Dùng viên An tức hương. Lại thêm một tiềnnghệ, mạt dược, trầm hương mỗi thứ hai tiền lấy ngọn, dùng mật vê thành viên tobằng hạt đỗ, mỗi lần uống một viên, rang câu đằng sắc nước để uống.

Bên dưới “viên An tức hương” có phê mực đỏ của chàng: “Nêndùng canh tía tô”.

Chữ viết có chút đá thảo. Xem ra hình như viết vào lúc tinhthần không tốt. Hay là… lại bệnh rồi?

Bình thường, lúc tinh thần của chàng tốt nhất, chữ viết từngnét từng dòng đều nắn nót không khác lối trong Ngô Hưng Phú[9]. Nhưng lúc bệnhphong thấp tái phát, nét bút lại có phần cứng chắc của Liễu thể[10]. Lúc cực kỳmệt mỏi, thì có thể viết thành hành thảo, khi bệnh tình nghiêm trọng hơn thì sẽlà chữ tiểu khải của Trần đại phu chép lại lời chàng. Chàng nghiêm khắc nhắccác đại phu tránh viết bệnh án theo lối thảo thư, bởi vì chữ thảo khó nhìn rõ,có lúc chỉ sai một chữ đã là mạng người rồi.

[9] Ngô Hưng Phú: Tác phẩm thư pháp nổi tiếng của thư phápgia đời Nguyên, Triệu Mạnh Phú (1254 – 1322). Ông là một trong bốn thư pháp giatiêu biểu của Khải thư (Khải thư tứ đại gia) ba người còn lại là Âu Dương Tuân,Nhan Chân Khanh, Liễu Công Quyền.

[10] Tức Khải thư viết theo lối của Liễu Công Quyền.

Còn nhớ lần đầu tiên nàng viết bệnh án, viết chính bằng lốithảo thư mình quen tay nhất, kết quả là bị chàng nghiêm khắc dứt khoát trả về,bắt phải viết lại.

Chàng là người không tùy tiện nói cười. Rất ít khi cười,cũng ít khi uể oải, ủ rũ. Phần lớn thời gian, trên mặt chàng chẳng thể hiệnchút biểu cảm nào.

Cứ cách mười ngày, trong cốc lại có một lần y hội, các đạiphu từ bốn phương tám hướng đều đến, có người trong cốc, có người ngoài cốc,người quen biết có, người không hề quen biết cũng có. Mọi người họp lại một chỗ,nghiên cứu các chứng bệnh khó chữa, có lúc cũng nói chuyện phiếm, chuyện cười.Sái đại phu là người cao hứng nhất trong ngày này. Sái đại phu thích náo nhiệt,lúc gặp gỡ luôn là người mồm miệng liến thoắng.

Những người tranh nhau đến tiếp chuyện chàng đương nhiên rấtnhiều. Có nhiều vị đại phu đến từ những nơi cách Vân Mộng cốc mấy trăm dặm. Họchớp lấy cơ hội, hỏi mãi không thôi. Mà chàng mỗi khi nói đến việc y thì luônthao thao bất tuyệt.

Nhưng kể cả những lúc như thế, chàng cũng rất ít khi cười.Trước sau rất khiêm tốn, khách khí mà tiếp chuyện mọi người. Bây giờ thịnh cáikiểu nhà Nho học sách y, các đại phu ai ấy đều là người từng học đạo thánh hiền,luôn tin một điều “không thành được tể tướng nổi danh, thì thành danh y nức tiếng”.Có lúc chàng cũng cùng bọn họ lý luận chuyện chữ nghĩa.

Có khi bên ngoài tổ chức kỳ bình văn, đôi khi cũng có đạiphu trong cốc tới tham gia. Nhưng chàng luôn từ chối.

Thực ra đúng là vì việc chữa bệnh bận rộn. Nhưng cũng là vìđi đứng bất tiện, mỗi lần ra khỏi cửa đều không tránh khỏi người đưa kẻ đón.

Chàng ghét nhất là làm phiền đến người khác, thậm chí đối vớichính bản thân mình cũng hà khắc quá mức.

Chàng không thích người khác nhắc tới bệnh tật của mình. Lúcphát bệnh cũng không chịu để người khác thăm khám.

Việc gì có thể lo liệu, chàng đều tự mình lo liệu. Cho đếnkhi thực sự không làm nổi nữa mới để Trần đại phu thay mặt làm.

Mỗi ngày, trước lúc đi ngủ, chàng đều phải phê duyệt tất cảbệnh án của các đại phu trong cốc. Những cái quan trọng thì tuyển chọn, sưu tầmbiên thành sách rồi truyền cho các đại phu đọc. Những cái không quá quan trọngthì trả về, để các đại phu tự lưu giữ.

Mười năm nay, chỉ cần chàng không ốm nặng, việc phê duyệtchưa hề gián đoạn.

Đúng là không thể nghĩ tới, một người thân thể yếu ớt nhưchàng lại có thể kiên cường cứng cỏi đến vậy.

Không biết vì sao, lần đầu tiên gặp chàng, khuôn mặt nàng đãđỏ ửng, tim đập thình thịch như muốn bắn ra khỏi ngực, hồi hộp tới mức khi đóchàng đang hỏi mình cái gì cũng không sao nhớ nổi.

Chàng vẫn đang trai trẻ, chỉ lớn hơn nàng vài tuổi. Dáng vẻvô cùng anh tuấn, cũng lạnh lùng vô cùng. Nhưng lại không có nửa phần ngạo mạnmà ngược lại đối với bản thân vẫn giữ thái độ khách khí. Tuy nàng là nữ đệ tử củachàng, nhưng trước giờ chàng đều gọi nàng là “Ngô đại phu”.

Có một lần hai người ngẫu nhiên gặp nhau trong hành lang,nàng bỗng thấy hốt hoảng, cũng chẳng rõ vì sao mặt mũi đỏ lựng lên, chân nhũnđi, tim đập dữ dội. Miệng thì lắp ba lắp bắp, nói mãi không thành câu.

Chàng vẫn rất bình tĩnh, điều khiển xe lăn sang một bên, nhườngđường cho nàng, nàng thì cứ thế mà cắm đầu chạy như gió.

Ngày hôm sau là ngày có y hội, bản thân nàng cảm thấy giữamình và chàng có một bức tường vô hình ngăn cách. Mọi người ai cũng muốn tiếp cậnchàng, còn nàng ngược lại luôn giữ mình cách chàng một khoảng, không có dũngkhí thu hẹp khoảng cách, hoặc mặt đối mặt nói chuyện. Cứ đến lúc đó là nàng cảmthấy hình như bản thân bị một sức mạnh vô hình nào đó trói buộc rồi, chỉ cần lạigần chàng một bước thôi là muốn xỉu.

Ngô Du đến Vân Mộng cốc đã ba năm, nói chuyện với Mộ Dung VôPhong, ngoài lúc ở y hội luận bàn việc khám bệnh không thể không trao đổi ra, cộnglại cũng chẳng được ba chục câu.

Chàng có bệnh nhân riêng của mình, không nhiều nhưng là nhữngca bệnh khó khăn nhất. Trong cốc có người mắc chứng bệnh nguy cấp khó chữa, nhữngđại phu khác không xử lý nổi nữa, cuối cùng đều chuyển đến tay chàng. Có lúccác đại phu gặp phải ca khó, cũng có thể mời chàng dời bước đến phòng mạch củamình để bàn bạc. Nếu như không bận, chàng sẽ đi. Có khi lưu lại cả một ngày,cơm trưa, cơm tối đều ăn ở hiên nhỏ bên cạnh phòng mạch. Các đại phu thì đến từnhiều miền khác nhau, cho nên nhà ăn của mỗi người đều nấu những món khác nhau.Chàng không kén chọn. Chàng ăn không nhiều nhưng cái gì cũng có thể ăn được. Cơhội để thân thiết hơn với chàng, chẳng có ai muốn bỏ qua. Ngô Du cũng từng mờichàng đến Ngẫu Phong hiên của mình hai lần. Ca bệnh làm nàng mất ăn mất ngủ mấyngày, đến tay chàng thì nhanh chóng thuốc vào bệnh hết. Cơm trưa do nàng từ buổisớm đã cẩn thận chú tâm chuẩn bị, thanh đạm mà tinh tế, thế nhưng chàng đều lấycớ có việc mà khước từ, nhanh chóng bỏ đi. Từ trước đến nay chàng chưa từngdùng cơm ở Ngẫu Phong hiên.

“Tổng cộng có mỗi năm chữ, có cần phải xem lâu đến vậykhông?”. Nguyệt Nhi nhìn dáng vẻ ngẩn ra của nàng, cũng nhón lấy tờ giấy: “Đểem cũng xem xem, ‘canh tía tô’ có phải tiểu thư mê chữ của ngài ấy rồi? Hay làđang thầm làm thơ đấy?”.

“Nói linh tinh”, nàng đẩy Nguyệt Nhi ra, cẩn thận thu tờ giấyấy lại. Nói cho cùng đây cũng là nét chữ do chính chàng viết.

“Tối nay làm gì?”

“Đọc sách. Tranh thủ xem cho kỹ tránh để tiên sinh lại dùngmực đỏ phê lại cho ta.”

“Đơn thuốc lại có gì sai rồi?”

“Cũng không sai, chỉ là còn thiếu cái gì đó thôi. Tối nay tacần tập trung, em ở cùng mài mực cho ta, gọi cả Cầm Nhi nữa.”

Nguyệt Nhi chớp chớp mắt nhìn nàng: “Tối nay cốc chủ làm gì,tiểu thư có biết không?”.

“Làm gì?”, nàng hỏi bâng quơ.

“Em vừa gặp Tiểu Bối chỗ Triệu tổng quản, cô ấy nói tối naycốc chủ muốn ra ngoài, chỉ đem theo hai tùy tùng. Dọa cho Triệu tổng quản thiếuchút nữa là quỳ xuống lạy ngài ấy.”

“Hả!”, Ngô Du kinh hãi: “Sao tiên sinh lại làm thế? Sao cóthể như thế?”.

“Tuy chân cốc chủ đi lại không tiện nhưng vẫn có thể cưỡi ngựa.Chỉ là không biết ngài ra khỏi cốc có việc gì?”.

“Tất nhiên là có bệnh nhân nguy kịch, ra ngoài chẩn bệnh.”

“Không phải đâu. Trước nay cốc chủ không bao giờ ra ngoài chẩnbệnh.” Nguyệt Nhi từ nhỏ đã ở trong cốc, những việc biết được tất nhiên là nhiềuhơn Ngô Du nhiều.

“Hôm trước em nhắc tới vị Sở cô nương ấy… cô ta… có phải côta vẫn ở tại Trúc Ngô viện?”

“Việc này… em không biết. Chỉ biết sáng nay cốc chủ dậy rấtmuộn, lại còn… hình như thân thể ngài có chút không khỏe. Đến chỗ Sái đại phu,ngồi lại chưa được nửa giờ đã về Trúc Ngô viện rồi.”

Tâm tình Ngô Du hỗn loạn, không nhịn được hỏi: “Sao tiênsinh lại không khỏe? Liệu có phải bệnh tim tái phát rồi?”.

“Có lẽ thế. Dù không phải bệnh tim tái phát, mấy ngày naysương nồm trời ẩm, cốc chủ chịu không nổi.”

“Nhưng mà, tối nay tiên sinh vẫn muốn ra ngoài?”.

“Vâng. Nếu không Triệu tổng quản sao phải lo lắng đến thế?”.

“Tiên sinh vẫn không chịu quan tâm đến sức khỏe của bảnthân”, nàng nhè nhẹ thở dài một tiếng, rồi lại tựa xuống giường: “Nguyệt Nhi,giúp ta đem đèn lên. Ta muốn ở đây đọc sách một lúc. Em với Cầm Nhi đi nghỉđi.”

Đột nhiên nàng cảm thấy tối nay chẳng còn hứng thú làm gì nữa.