Hoàng Tước Hành

Chương 7: Tề Đại



Khách khứa ngồi đây xì xào bàn tán. Mọi người đều biết dã tâm của Sở vương ở Kiến Khang, đặc biệt là bắt đầu từ đầu năm, chính lệnh đều xuất phát từ Sở vương, dường như Sở vương thay thế chỗ của Thái tử đã là chuyện hợp tình hợp lý. Giờ khắc này chợt nhận được một quẻ tính Đại hung như vậy, khó trách Sở vương phất tay áo bỏ đi. Tề Nham nhướng mày, lạnh lùng nói: “Nguyên Hóa Công ở đâu?”

Dù sao Tề Nham cũng là Thống lĩnh cấm quân Bắc quân, lời này vừa ra, cấm quân xung quanh đều rút bội kiếm. Đệ tử Nguyên Hóa Công hoảng sợ nói: “Gia sư có tội gì?”

“Yêu ngôn hoặc chúng*, nguyền rủa hoàng tử, phải chịu trói.” Ánh mắt Tề Nham lạnh như băng.

(*妖言惑众: tà thuyết mê hoặc người khác.)

“Không thể!” “Không thể làm Nguyên Hóa Công bị thương!” Các vị khách nghị luận sôi nổi. Tề Nham không dao động, Sở vương ngại với thân phận không tiện ở lại, Tề Nham cần phải lấy lại danh dự cho Sở vương ở Hội bàn suông, nếu không, chuyện Nguyên Hóa Công tính quẻ Đại Quá Quái cho Sở vương liền sẽ trở thành ngôn luận vô cùng bất lợi cho Sở vương.

Tề Nham đưa tay ra hiệu, cấm quân bắt đầu tản ra lùng sục, đao kiếm múa may trong không khí phát ra từng tiếng kít kít, gió thu vắng lặng, đao kiếm lạnh lẽo.

Khách dự hội đều nín thở nhìn chăm chú, không dám hành động thiếu suy nghĩ. Bỗng nhiên, một tiếng đàn cổ truyền đến, ting ting như mưa gió đột nhiên đến, thấm thoát, gió mát như nước suối trên đá. Trong lúc nhất thời, cho dù là khách khứa hay là cấm quân đều ngừng lại, như là bị người đánh đàn đưa vào bên trong tiếng đàn, buồn bã mất mát*. Tiếng đàn chảy xuôi trong rừng trúc, cuối cùng hòa cùng một thể với tiếng gió, tiếng lá rơi.

(*t恍然若失: hốt hoảng giống như mất đi gì đó, hình dung tâm thần không yên, không biết thế nào cho phải.)

Một khúc kết thúc, mọi người theo tiếng nhìn qua, thấy tiếng đàn đến từ một chiếc xe ngựa dừng ở lối vào của rừng trúc. Thật lâu, rèm hé mở, một thanh niên đi xuống xe, trên người mặc trường bào xanh nhạt, mặt như trăng rằm, ý cười nhẹ nhàng. Y đầy đủ lễ nghi, lấy thiếp mời ra, đi về phía Tề Nham một cách chân thành, mỉm cười nói: “Đại ca, Hội bàn suông chính là nơi của tử sĩ bàn suông, không chỗ câu thúc, chớ tổn thương hòa khí.”

Bồ Thần thấy người tới khí độ bất phàm, tuy tuổi còn trẻ, lại có khí độ tự nhiên tùy hứng, bào rộng tay lớn ở trên người y mới xem như bổ trợ cho nhau*.

(*相得益彰 tương đắc ích chung: trợ giúp nhau, bổ sung cho nhau, càng có thể biểu hiện ra sở trường của từng người.)

“Sao người này lại gọi Tề Nham là ‘đại ca’?” Đường Vũ ở một bên hỏi nhỏ.

Bồ Thần không quen thuộc sĩ tử ở Kiến Khang, lòng cũng đang nghi hoặc, chỉ nghe thấy một tràng cười truyền đến từ chỗ sâu trong rừng trúc, một vị lão giả tóc bạc chống gậy trúc đi tới, cất cao giọng: “Hiếm khi có được Quân Tự Quảng Lăng đến đây, hôm nay lão hủ may mắn nghe nói, quả thật như thế.”



“Tiên sinh.” “Nguyên Hóa Công.” Khách khứa xung quanh và các đệ tử vội đứng dậy nghênh đón. Nguyên Hóa Công gật đầu ra hiệu với bốn phía, lập tức đi tới chỗ thanh niên vừa mới đánh đàn.

Thanh niên kia chính là danh sĩ* Ngô Quận – Tề Đại, con thứ của Thừa tướng Tề Sâm, lại vẫn luôn không màng danh lợi, không muốn làm quan, nhiều năm ở Học cung** Quảng Lăng, hoặc học tập, hoặc đọc sách, rất ít đi vào Kiến Khang. Bồ Thần đương nhiên biết thanh danh của Tề Đại của Học cung Quảng Lăng, Tề Đại, tên chữ Tư Quân, vừa qua khỏi tuổi hai mươi đã dùng một quyển chấn động giới văn học. Văn dùng khí làm chủ, thơ của Tề Đại, văn từ hoa chỉ là thứ yếu, chủ yếu nhất là lời văn chân thật nghiêm khắc*, là một văn sĩ hiếm hoi trong sĩ tử Kiến Khang được Bồ Thần thưởng thức.

(*名士 danh sĩ: thời xưa chỉ những người rất có danh vọng nhưng không làm quan.)

(**学宫 học cung: học viện nghiên cứu học thuật. Giống trường học ngày nay í.)

(***清峻 thanh tuấn: từ này có nhiều nghĩa – chân thật và cao quý, đơn giản và nghiêm khắc, hay công bằng và ngay thẳng.)

Tề Đại cúi sâu với Nguyên Hóa Công, mỉm cười nói: “Gia huynh làm phiền buổi bàn suông của tiên sinh, mong tiên sinh rộng lòng tha thứ.”

Tề Nham liếc mắt nhìn Tề Đại một chút, đệ đệ này của gã, từ nhỏ chính là hòn ngọc quý trên tay, ba tuổi làm thơ, năm tuổi viết văn, mười mấy tuổi đã danh tiếng vang xa trong giới văn học. Tuy nói Tề thị ở Kiến Khang quyền thế ngập trời, nhưng sĩ tử Nam Cảnh vẫn luôn thật lòng khâm phục tài văn của Tề Đại. Tề Sâm cũng một lòng hy vọng y có thể sớm ngày làm quan, dựa vào danh tiếng của y trong nhóm sĩ tử và quyền lực kiên cố của Tề thị. Nhưng khổ nỗi Tề Đại đã sớm nói rõ không có lòng làm quan, Tề Nham có thể nói là vừa yêu vừa hận đối với người đệ đệ này của mình, vừa kinh diễm với tài hoa của y, vừa oán hận y không muốn xuất lực vì gia tộc, thậm chí ngay cả Kiến Khang đều rất ít đặt chân. Giờ khắc này bỗng nhiên nhìn thấy y ở chỗ này, quá mức kinh dị.

Tề Nham hừ lạnh: “Sở vương chính là dòng dõi hoàng thất, Nguyên Hóa Công giỏi việc bình luận việc đời, Sở vương đến vì ngưỡng mộ, không nghĩ Nguyên Hóa Công lại mở miệng nguyền rủa, há có thể nhân nhượng?”

Nguyên Hóa Công không tỏ ý kiến, biểu tình thay đổi thất thường, đưa tay vuốt nhẹ chùm râu bạc.

Tề Đại cười nói: “Đại ca có chỗ không biết, sáu mươi tư quẻ tượng chính là Văn Vương làm ra, thế gian muôn vàn hình dạng*. Nhìn từ quẻ tượng, tuy có chia ra cát, trung, hung, nhưng nếu lấy cái này để làm phán đoán suy luận thì quá mức nông cạn. Vạn vật trên đời, đều làphúc họa có nhau**, nhìn là đại hung, sau lưng lại có khả năng chuyển cơ, nhìn là đại cát lửa mạnh thêm dầu***, cũng chưa chắc tai họa sẽ không tới. Theo như ý kiến riêng*** của ta, Sở vương được quẻ Đại Quái Quá này, tuy quẻ này có chút quá đáng, nhưng tròn khuyết vô thường, vốn là lẽ tự nhiên, chỉ cần có hướng tới ắt sẽ có lợi.”

(*Nguyên câu 穷尽世间万象. Trong đó 万象 vạn tượng – toàn bộ sự vật hoặc hiện tượng trong ngoài vũ trụ.)

(**福祸相依 phúc họa tương y.)

(*** 烈火烹油 liệt hỏa phanh du: ý là tốt hơn.)

(***浅见: Ý kiến nông cạn, hẹp hòi; thường dùng với ý khiêm tốn để chỉ ý kiến của mình).

Nguyên Hóa Công nghe vậy trên mặt lộ ra ý cười.

Tề Nham lại không rõ nội tình, truy vấn: “Cái gì gọi là có hướng tới ắt sẽ có lợi?”

Tề Đại đáp: “Có đi mà không có lại thì thất lễ*. Quyền, lợi, đều là như thế, được lợi với người, cũng cần đưa lợi cho người**. Được quyền từ người, cũng cần đưa quyền cho người. Như vậy mới có liên hệ trên dưới, thiên hạ thái bình.”

(*”来而不往非礼也 Lai nhi bất vãng phi lễ dã: có tới mà không có đi thì không lịch sự/vô lễ vậy | có qua có lại mới toại lòng nhau.)



(*Nguyên câu 得利于人, 也需与人以利.)

“Ha ha ha, đúng là như thế. Lão hủ tuyệt đối không dám mở miệng nguyền rùa Sở vương, quẻ này cũng không phải là quẻ hung, chỉ cần nhớ rõ có hướng tới ắt có lợi, mọi thứ có thể được giải quyết.” Nguyên Hóa Công nói.

Như thế, Tề Nham cũng không tiện khó xử Nguyên Hóa Công nữa, gã mang theo ánh mắt phức tạp nhìn thoáng qua Tề Đại, nghĩ thầm chẳng lẽ đệ đệ của mình là nhân cơ hội này sinh ra lòng làm quan? Nếu y chịu xuất lực cho Sở vương, vậy lo gì nghiệp lớn không thành? Nghĩ đến đây, Tề Nham cảm thấy dễ chịu hơn một chút, liền dẫn theo cấm quân cáo từ, vội vàng về cung phục lệnh*.

(*复命: báo cáo lại sau khi chấp hành mệnh lệnh.)

Chu Ngự ngồi trên ghế nghe Tề Đại giải quẻ, thầm nghĩ quả nhiên người này rất có tài, tuyệt đối không phải loại người chỉ có danh hão*. Hiện giờ Sở vương ngo ngoe rục rịch, nhưng danh không chính ngôn không thuận, cưỡng ép đoạt quyền cũng không tốt. Không bằng thuận theo lời của Tề Đại, ủy quyền với người, chiếm được danh tiếng hiền vương, đến lúc đó sớm muộn gì có thể vào vị trí một cách thuận lợi, chỉ là không biết gã có nghe vào hay không. Nghĩ nghĩ Sở vương sống trong nhung lụa từ nhỏ, kiêu căng ngang ngược, Chu Ngự lại không khỏi lắc đầu, lấy quẻ tượng của mình ra với vẻ hứng thú, trên đó viết: Quẻ Trung Phu, mềm ở trong mà cứng ở giữa*, cát. Không biết Tề Đại sẽ giải thích quẻ này thế nào.

(*浪得虚名 lãng đắc hư danh.)

(**柔在内而刚得中.)

Sau khi Sở vương và Tề Nham rời khỏi, không lâu lắm Thái tử cũng rời tiệc trước với vẻ mặt mệt mỏi. Hội bàn suông trở nên náo nhiệt. Khách đang ngồi đây thảo luận về quẻ tượng và huyền học với Nguyên Hóa Công một cách đĩnh đạt hùng hồn, lại đưa ra đánh giá*của đám người Vương Bật**, Hướng Tú*** đối với Lão Trang**** của triều đại trước, vô cùng náo nhiệt.

(*注疏 chú giải.)

(**王弼 Vương Bật: kinh học gia, triết học gia của Tào Ngụy.)

(***老庄 Lão Trang: Chỉ chung Lão Tử và Trang Tử, hai triết gia lớn của Trung Hoa.)

(**** 向秀 Hướng Tú: tự Tử Kỳ.Thuở nhỏ đã quen biết Sơn Đào. Hướng Tú rất thông tuệ, hiểu biết rất sâu xa, theo cái học của Lão Trang.)

“Không biết Thiếu tướng quân cảm thấy sáu mươi bốn quẻ tượng như thế nào?” Nguyên Hóa Công thấy Bồ Thần không mấy hứng thú, không lên tiếng, cho nên mở miệng hỏi hắn.

Bồ Thần nói thẳng: “Bàn suông hại nước*. Hiện giờ Nam Cảnh loạn trong giặc ngoài, bệ hạ bệnh nặng, Đại Tư Mã vừa mất, bên ngoài lại có địch mạnh vòng quanh, ta thật sự không có lòng dạ đàm luận việc này.”

(*误国 ngộ quốc.)

Lời này vừa ra, đám người xôn xao. Cái gọi là bàn suông, chính là tránh đi lời thế tục, không nói chuyện quốc sự, không nói dân sinh. Bồ Thần nói vậy, gần như đắc tội toàn bộ khách khứa ở đây. Vẻ mặt hắn không đổi, vái một cái với Nguyên Hóa Công nói tiếp: “Năm đó cảm ơn tiên sinh ban cho gia phụ bốn chữ ‘Anh hùng loạn thế’. Gia phụ chinh chiến cả đời, giúp đỡ Nam Cảnh, đều nhờ lời hay của tiên sinh, cảm ơn tại đây. Chỉ là, ta tục vật quấn thân, liền không ở đây quấy rầy các vị bàn suông.” Dứt lời, đứng dậy muốn đi.

“Thiếu tướng quân chậm đã.” Chỉ nghe Tề Đại mở miệng giữ lại, y chậm rãi đứng lên cười nói, “Tuy Hội bàn suông lần này là của Nguyên Hóa Công, nhưng hiếm khi có cả Đại vương, Thiếu tướng quân đều ở đây. Thiếu tướng quân nói không sai, hiện giờ chính là thời kỳ Nam Cảnh kề bên tồn vong, ngồi ở đây không có ai không phải là người có tầm nhìn rộng. Không bằng mượn cơ hội này tâm sự việc nước, nhìn xem Nam Cảnh phải làm gì để thoát khỏi hoàn cảnh mờ mịt an phận ở một góc, vực dậy cuộc sống người dân ở bên trong, đẩy lùi kẻ địch mạnh ở bên ngoài.”

Thấy Tề Đại nói vậy, các vị khách sôi nổi gật đầu.



Bồ Thần sinh ra hứng thú, cao giọng: “Nam Cảnh mờ mịt, dĩ nhiên là do binh lực không đủ. Triều Cảnh năm đó diện tích lãnh thổ bao la, binh hùng tướng mạnh, hiện giờ binh lực chỉ có ba bốn phần mười của năm đó, ngoài quân Võ Xương của gia phụ và cấm quân Kiến Khang ra, thiên hạ cũng không còn binh để dùng, nói gì phục hưng?”

Chu Ngự vốn cũng không xen vào, nghe Bồ Thần nói tới binh của thiên hạ, đứng lên nói: “Nếu muốn có binh mạnh, một phải có người, hai phải có lương. Triều Cảnh năm đó dân cư nhiều ở phương bắc, hiện giờ toàn bộ phương bắc đều nằm trong tay Bắc Yến. Bổn vương ở Lư Châu tiếp nhận lưu dân dời nam, ngay cả mục nhận hộ tịch đều khó khăn trùng tùng, tuyển binh thế nào? Thứ hai, sau Loạn Bảy Vua, thế gia khó khăn, nhưng hầu hết đồng ruộng đều ở trên danh nghĩa của thế gia, hiện giờ cho dù có lưu dân dời nam, cũng không thể nào chia ruộng đó ra. Không người không lương thực, sao có binh mạnh?” Chu Ngự làm Chủ soái lưu dân mấy năm ở Lư Châu, hiểu biết về ảnh hưởng chính trị đối với Nam Cảnh vô cùng sâu sắc.

“Nếu theo như lời của Đại vương, Nam Cảnh mờ mịt, thế nhưng là lỗi của thế gia*?” Một vị khách nghe Đại vương nhắc đến lỗi của thế gia, rất khó chịu, “Thiếu tướng quân xuất thân Bồ thị Tấn Dương, nếu không có Bồ thị, đâu ra Nam Cảnh? Tề tiên sinh xuất thân từ Tề thị Quảng Lăng, nếu không có Tề thị, người nào phụ tá bệ hạ? Trong triều đình, các vị đang ngồi, vị nào không phải xuất thân thế gia, nếu không có thế gia, liền không có Nam Cảnh. Thế gia mới là căn cơ của Nam Cảnh, mất đi nâng đỡ của thế gia, Nam Cảnh lập quốc như thế nào, chống lại Bắc Yến như thế nào?”

(*世家之弊: Thế gia chi tệ.)

Buổi nói chuyện này nói đến nhiệt huyết sục sôi, khách ở đây không ai là không phải xuất thân từ thế gia hoặc lớn hoặc nhỏ, sôi nổi phụ họa.

“Tư Quân, ngươi thấy thế nào?” Nguyên Hóa Công thấy Tề Đại cũng không phụ họa, mà là nhíu chặt mày, dường như đang tự hỏi gì đó.

Tề Đại nhìn quanh bốn phía, ánh mắt dừng ở trên người Chu Ngự: “Triều Cảnh vong bởi thế gia loạn lạc là sự thật không thể chối cãi. Sau khi dời nam, thế gia đã là căn cơ của Nam Cảnh, lại là trở ngại phục hưng của Nam Cảnh. Từ khi triều Cảnh ra đời, thế gia môn phiệt lấy huyết thống làm cơ sở, sáp nhật thổ địa, bồi dưỡng con cháu. Người học văn có thể đứng hàng triều đình, người luyện võ có thể chiêu binh mãi mã*, thành một phương kiêu hùng. Quả thật, thế gia cung cấp duy trì cho Nam Cảnh, bồi dưỡng văn thần võ tướng, nhưng sự tồn tại của thế gia cũng đồng thời cản trở con đường phát triển của gia tộc bình dân**. Chính là bởi vì các vị ở đây, quan lại triều đình đều xuất thân từ thế gia, liền ý nghĩa vô số con cháu nhà nghèo***không có ruộng để trồng, không quan có thể làm. Mặc dù bọn họ tài hoa hơn xa ngươi ta, cũng sẽ bởi vì ý kiến của quý tộc bị ngăn ở bên ngoài triều đình, cả đời trôi giạt khắp nơi.”

(*招兵买马: chiêu mộ binh sĩ.)

(**寒族 hàn tộc: ý là người xuất thân thấp hèn.)

(**寒门子弟 hàn môn tử đệ: đứa trẻ gia cảnh không tốt.)

“Vậy theo ý của Tư Quân, lỗi của thế gia, phải giải thế nào? Nếu Nam Cảnh lại không có thế gia, người tài đến từ đâu?” Chu Ngự nhìn chằm chằm Tề Đại.

Tề Đại giống như muốn nói lại thôi, nhìn quanh bốn phía, khẽ thở dài: “Không thể giải.”

Chu Ngự nhìn chằm chằm Tề Đại, trong đám người, ánh mắt bọn họ chạm vào nhau, cuối cùng biến thành một làn gió ở trong rừng trúc.