Hình Đồ

Chương 311: Theo giá (3)



Trung lang kỵ tướng, nói một cách dễ hiểu, chính là kỵ quân cấm vệ quan, là một giáo kỵ quân thống lĩnh Trung úy quân. Phẩm trật đương nhiênkhông bằng chức Đô Úy Tứ Thủy vốn có của Lưu Khám, nhưng những ngườimuốn làm chức Trung lang kỵ tướng đếm không xuể. Nguyên nhân không ngoài điều gì khác: Trung úy quân là cấm vệ quân của Thủy Hoàng đế, cũng làhộ vệ quân của cung Hàm Dương. Ai cũng biết, Đại Tần có trăm vạn hùngsư, nhưng luận về tinh nhuệ nhất, có sức chiến đấu nhất, đứng đầu làTrung úy quân. Bất luận là trang bị hay là đãi ngộ, thậm chí đến Thú vệquân đều không bì được.

Còn Trung lang Kỵ tướng, lại là quancấm vệ quân của Thủy Hoàng đế, không phải người tâm phúc thì không thểđảm đương. Không chỉ cần trung thành, mà còn cần chân tài thực học. Muốn dựa vào mối quan hệ mà vào quân Trung Úy, gần như là một chuyện khôngthể nào. Bởi vì quân chức trong Trung Úy quân, vượt qua phủ Đại tướngquân, phải do Thủy Hoàng đế trực tiếp ban chức. Cho dù là một quân tốtbình thường trong Trung Úy quân, cũng phải phù hợp với ba điều kiện. Đầu tiên, là người Lão Tần. Người Lão Tần ở Tây Thùy đương nhiên là tốtnhất.

Tây Thùy là cách gọi phía Tây thời nhà Ân. Cũng là nơiLão Tần hưng thịnh. Thuở ban đầu, người Lão Tần vì giỏi nuôi ngụa, nênngụ ở Tây Thùy. Chu Hiếu Vương phong Doanh Phi Tử là nước chư hầu, từ đó có bộ tộc Lão Tần. Năm 770 trước công nguyên, Tần Tương Công hộ tốngChu Bình Vương di chuyển về phía đông, vì công phong thưởng, khởi đầuxây dựng nước Tần. Nguyên Châu Triều bị người Nhung và người Địch báchiếm, là lãnh địa Thiểm Tây thời hậu thế. Đây mới bắt đầu bước chân Đại Tần bành trướng. Năm 677 trước Công nguyên, Tần lập đô ở đất Ung. Sauđó ba trăm năm, đô thành nhiều lần thay đổi, lãnh địa cũng thay đổitheo, diện tích trở nên càng ngày càng rộng.

Từ bước đầu tiên Lão Tần đi đến Tây Thùy trở đi, Đô Thành đã thay đổi tám lần. Từ Tần Ấp (nay Cam Túc), đến Ấp (nay Đông Nam, huyện Lũng, Sơn Tây), sau đó VịChi Hội (nay Đông Bắc, huyện Mi, Sơn Tây), Bình Dương (nay huyện Mi,Thiểm Tây), Ung Thành (nay huyện Phượng TƯờng, Thiểm Tây), Kính Dương,Lịch Dương (nay bắc huyện Đồng, Thiểm Tây), đến Hàm Dương sau cùng.

Năm trăm năm hưng suy luân đổi, người Lão Tần cuối cùng sừng sững ở Quan Trung.

Trong quá trình này, người Tây Thùy chiến đấu đẫm máu, tử thương khó mà đếm hết. Nhẫn nhục chịu khó, trong khó khăn cuối cùng, trước sau kiênđịnh đứng bên cạnh bộ tộc Doanh Thị. Đến nay, vùng đất Tây Thùy, ngườikhông quá một vạn, nhưng lại nghe đợi triệu gọi từ cung Hàm Dương bất cứ lúc nào. Cho nên, từ lúc Tần Thủy Hoàng tự mình chấp chính đến nay, lấy người Tây Thùy làm gốc, xây dựng Trung Úy quân, thế nhưng, trước naykhông chịu để cho Trung Úy quân tham chiến.

Đội nhân mã này, trừ Đế Vương DoanhThị ra, không ai có thể triệu gọi. Điều kiện thứ hai tham dự gia vàoTrung Úy quân, cần phải có võ nghệ cao cường. Trừ những điều cơ bản nàyra, còn cần phải dày công tu luyện chiến thuật, tinh thông quân trậnpháp. Lão Tần từ thời Tư Mã Thác trở đi, đã có kĩ thuật đào tạo ThiếtƯng Duệ sĩ. Tuy nhiên, muốn trở thành duệ sĩ, đúng là vô cùng gian nan.Nghìn người chọn một, vạn người chọn một, mới có thể trở thành Thiết ưng Duệ sĩ, trở thành dũng sĩ của Đại Tần. Lại bố trí như thế nào? Thế làTư Mã Thác lại từ trong những dũng sĩ, chọn ra những người tinh nhuệ,tập hợp thành tiền thân của Trung Úy quân.

Đến lúc Thủy Hoàng đế đăng cơ, lại có cách nói âm dương ngũ hành Trâu Diễn. Quốc Úy ÚyLiêu dựa vào âm dương ngũ hành này, lại diễn ra trận Ngũ Chùy, chuyêndùng cho diễn luyện Trung Úy quân. Bộ Tốt Ngũ Chùy Trận, Kỵ Quân TamChùy Trận, có thể chia thành tiểu trận, cũng có thể hội tụ thành đạitrận, nghe nói uy lực vô song.

Nhưng, sức chiến đấu của Trung Úy quân trước nay chưa ai được nhìn thấy. Chỉ là người bên ngoài đồnđại, Trung Úy quân đệ nhất Quan Trung, đệ nhất thiên hạ. Một đội binh mã như vậy, nếu như không phải là người tâm phúc của Thủy Hoàng đế, sao có thể thống lĩnh? Cho nên nói, lúc Lưu Khám tiếp nhận Trung Lang Kỵtướng, ngay lập tức ngẩn người.

Niềm vinh hạnh này, thật sự là đến quá nhanh!

Nhanh đến nỗi khiến Lưu Khám có chút khó có thể tiếp nhận...

Đêm đó, có nội thị dâng đến trang bị áo giáp của Trung lang kỵ tướng,cùng với một quyển binh có đóng dấu son đỏ của Nội phủ, là binh tácchiến chỉ huy trận Tam Chùy. Lưu Khám nâng áo giáp, có chút khóc khôngnổi cười không xong. Người khác nhìn vào, đây chính là vinh quang, nhưng đối với hắn mà nói lại là áp lực!

Đêm đã sâu. Giờ Tuất, gióthổi mạnh, nhiệt độ bỗng nhiên giảm. Trong cung Lạc Dương lại ấm áp nhưxuân. Mười mấy chậu than đặt ở trong đại điển. Thủy Hoàng đế ngồi ở phía trên cao lật xem công văn. Những công văn này đều là từ Hàm Dương dùngsáu trăm dặm cấp tốc gửi đến.

Tuy là Thủy Hoàng đế không ởHàm Dương, nhưng đối với chính sự vẫn siêng năng như cũ. Cha con PhùngKiếp, Phùng Khứ Tật ngày nào cũng dâng công văn lên cho Bệ hạ. Nếu nhưlà trước đây, lúc chưa phát minh là giấy trình công, tấu chương mấy trăm cân, vận chuyển vô cùng khó khăn. Nhưng mà bây giờ, có giấy Trình côngrồi, vận chuyển công văn cũng dễ dàng hơn nhiều.

Thủy Hoàngđế vô cùng chăm chú phê duyệt công văn. Dưới đại điện, nội thị Triệu Cao lặng lẽ chắp tay đứng thẳng, một hơi thở phải chia thành nhiều lần thởra.

Ở bên cạnh Thủy Hoàng đế lâu rồi, Triệu Cao đương nhiênrõ tính tình của Thủy Hoàng đế. Đó là một người cuồng công việc, một khi bắt đầu công việc, không xử lí hoàn tất công việc, căn bản không thểnghỉ ngơi. Hơn nữa, trong thời gian Thủy Hoàng đế phê duyệt tấu chương,ghét nhất là có người làm phiền, kể cả một tiếng ho, thậm chí là tiếnghít thở to một chút, đều sẽ khiến cho lão nổi trận lôi đình. Vì điềunày, quan Hàm Dương không hiểu chuyện chết không ít người, vết xe đổ,Triệu Cao sao có thể dẫm lên?

Ngoài đại điện, gió bắc gào thét.

Thủy Hoàng đế phê chuẩn tấu chương cuối cùng, buông bút lông, vươn vai mạnh một cái.

- Triệu Cao, tấu chương mà Hàm Dương đưa tới, chỉ có thế này thôi sao?

Chỉ thế này?

Tuy rằng đã dùng giấy trình công để sao chép, nhưng những tấu chươngnày, cũng phải đến hơn năm cân. Có lúc, Triệu Cao thật sự rất phục tinhlực của Bệ hạ, nếu đổi lại là người khác, cứ coi như là trẻ hơn Bệ hạ cả chục tuổi, e là cũng không thể chịu nổi công việc bận rộn đêm ngày nhưvậy.

- Bệ hạ, chỉ thế này thôi ạ!

Triệu Cao khẽ nói:

- Mùa tuyết đầu tiên ở Quan Trung đã tới. Hữu Thừa tướng phái người tới nói, tấu chương phía sau chắc phải đến muộn mấy ngày, xin bệ hạ thứtội.

- Ừ...

Thủy Hoàng đế gật đầu, biểu thị đã biết.

Lão đứng lên, chuẩn bị đi về phía điện, nhưng đi được hai bước, độtnhiên dừng lại, quay đầu nói với Triệu Cao đang theo sát:

- Mệt mỏi cả đêm rồi, có chuyện gì, doanh canh lược lược đi.

Những lời Thủy Hoàng đế nói là phương ngôn Hàm Dương, ý là: bây giờ nói đi.

Doanh canh, trong phương ngôn Hàm Dương, chính là ý bây giờ, lược lược, cũng chính là ý cứ nói.

Triệu Cao cười ngượng ngùng:

- Ngày kia bệ hạ phải đi Huỳnh Dương triệu kiến bách quan rồi, sau đóphải đi tuần phía đông. Tại sao bây giờ lại để cho con trai của Lưu Thịđảm nhiệm chức Trung Quân kỵ tướng? Con trai Lưu Thị tuổi tác còn nhỏ,lại chưa được huấn luyện trong đại doanh Lam Điền, hình như có chút...

- Trẫm nói hắn thích hợp là hắn thích hợp!

Thủy Hoàng đế cắt đứt lời nói của Triệu Cao.

- Từ lúc con trai Lưu Thị đó xuất hiện ở Bắc Cương, trẫm luôn để ý đếnhắn. Tên tiểu tử này võ dũng, điều này không cần phải bàn. Nói hắn làmãnh sĩ đệ nhất Lão Tần cũng không có gì quá đáng. Để cho hắn nhậm chức ở Lâu Thương, hắn cũng làm không tồi. Lúc loạn Tam Điền, rất biết tínhtoán. Xuất thân của hắn tốt, lại có chiến công, hơn nữa lại là con rểcủa Trinh Mẫu. Rất tốt. Rất tốt.

Nói đến mức này rồi, Triệu Cao còn có thể nói gì nữa.