Tuổi Thơ Dữ Dội

Chương 10: Phần thứ tư (2)



7

Ðã hơn mười một giờ đêm- Thành phố Huế vùi dần Trong yên tĩnh. Con sôngHương sau một ngày náo động mệt lả bởi đò dọc đò ngang, ca nô, xuồng máy giặc chạy ngược, chạy xuôi, lúc này dường như cũng đã thiu thiu ngủ.Tiếng sóng vỗ bờ uể oải như tiếng thở dài buồn bã trong mơ.

Giờ thiết quân luật, cả thành phố không còn một bóng người dân qua lại. Thỉnhthoảng một chiếc xe tuần tiễu của giặc ầm ầm lướt qua dọc các đại lộ hai bên cầu Tràng Tiền- Trên xe lố nhố bóng mũ sắt và nòng súng.

Một vài toán Bảo Vệ Quân xách súng đi rong nện giầy đinh côm cốp trên hè phố.

Riêng trong khu vực thành nội im ắng hoàn toàn.

Bọn giặc ỷ thành nội có thành cao, hào sâu, các cửa thành như Thượng Tứ,đông Ba, Nhà đồ, Chánh Tây đều có bốt gác, Việt Minh khó lòng đột nhậpnổi, nên chúng không tổ chức tuần tra nghiêm ngặt như ngoài phố. Nhiềucon đường tối om không có đèn đóm gì.

Nhiều công sở không có línhgác. đại Nội, hồ Tĩnh Tâm, khu Tam Tòa lục bộ, khu Ngọ Môn, dãy nhà đểsúng thần công v.v... Vắng lặng đến rợn người.

Chính giữa cảnh tốităm vắng lặng đó, bỗng xuất hiện hai bóng đen nhỏ bé, lúc ẩn lúc hiện,dọc con đường um tùm bóng cây, chạy qua khu Tam Tòa lục bộ.

Một bóng đen đeo một cái giỏ, còn bóng kia cầm cái cần câu dài ngoằng- Hai thằng bé câu ếch.

Một phần trời tối, một phần chúng đi len lỏi dưới bóng các tán cây đen xẩm, nên không thể nhìn rõ mặt Xem chừng chúng chỉ đeo giỏ vác cần cho có lệ chứ chẳng câu kéo gì hết- Mà cung cách chúng đi có vẻ dè dặt, lén lút,lo sợ người bắt gặp- Ngang qua một gốc cây một cột điện hoặc cổng mộtngôi nhà công sở. Hai đứa đều dừng lại. Thằng vác cần câu rút trong ngực áo ra- một vuông trăng trắng, kêu sột soạt. Thằng đeo giỏ thọc vàomiệng giỏ một cái que đen đen, rồi cầm que quệt quệt lên gốc cây cộtđiện. Thằng vác cần câu dùng cả hai tay áp vật trăng trắng vào đó. Thằng đeo giỏ thì thào: “Khéo cả lộn ngược!” - Thằng vác cần nói, đầu khôngngoái lại- “Cứ yên trí!“. Khi hai đứa rời chỗ, trên thân cây, cột điện,bức tường màu xám nhờ, hiện ra một hình chữ nhật trăng trắng như độtngột trổ ra một khuôn cửa nhỏ.

Cứ như thế hai đứa đi dọc theo các con đường lớn trong thành nội. Và lúc qua nửa đêm, hai thằng mất hút saudãy nhà dài để súng thần công trước cửa Ngọ Môn.

° ° °

Một giờ hai mươi phút sáng. Phía khu vực đồn HỘ Thành bỗng lóe chớp và tiếp theo là một tiếng nổ lay chuyển cả trời đêm- Rồi tiếng súng máy, súng trường và cả tiếng lựu đạn nổ dồn dập, xối xả. Ðạn lửa bay đỏ lừ, rạch ngang rạch dọc bóng tối như muốn cắt thành từng tảng lớn nhỏ.

ôi quang cảnh hào hùng, sôi sục của năm mươi lăm ngày đêm chiến đấu bao vây giặc như bỗng chốc hiện về, dựng cả thành phố dậy. Cả thành phố đang ngủ say nhảyquáng quàng trên giường xuống đất, nằm bẹp, co đầu, rụt cổ. đồng bào vừa kinh ngạc, vừa mừng, vừa sợ.

HỌ thi thào hỏi nhau trong bóng tối:“Răng tụi hắn rải truyền đơn, đăng nhật trình, nói là Việt Minh đã bịtụi hắn tiêu diệt sạch rồi!”- “Cứ chờ đó mà coi, chưa biết ai tiêu ai!“. Và phần đông bà con trong bụng chỉ thầm mong tiếng súng cứ thế mà nổmãi, nổ mãi, to hơn nữa, mạnh hơn nữa, rung trời rung đất hơn nữa? Dù có phải tản cư lần nữa, dù có phải mất hết đồ đạc, tan cửa nát nhà lầnnữa, HỌ cũng sướng bụng.

Chỉ mới trong vòng một tháng sống trong lòng thành phố giặc chiếm, mà đồng bào đã thấy thấm thía gớm ghê nỗi tủi cực của người dân mất nước.

Nhưng thật đau lòng, chỉ khoảng một tiếng đồng hồ sau, tiếng súng thưa dần rồi im hẳn.

Rạng sáng hôm sau, một tin lan truyền đi rất nhanh khắp thành phố: Vệ Quốcđoàn không biết bằng cách nào đã lọt vào được thành nội, tập kích đồn HỘ Thành do hai trung đội Bảo Vệ Quân đóng giữ. HỌ đã giật bom sập rụicổng đồn, giết hơn một chục lính Bảo vệ cắt mất mấy ngàn thước dây điệnthoại- đặc biệt hơn nữa, trên nhiều gốc cây, cột đèn điện, tường cáccông sở, dán trắng xóa truyền đơn của Việt Minh.

Truyền đơn kêu gọiđồng bào Huế hãy tin tưởng vào kháng chiến. Trường kỳ kháng chiến nhấtđịnh thắng lợi? Cảnh cáo bọn người cam tâm làm tay sai cho giặc, bánnước hại dân. mật thám, an ninh, Bảo Vệ Quân v. v... Kháng chiến không Ở đâu xa mà ngay sát nách chúng. Nếu chúng không mau mau hồi tỉnh thìkháng chiến sẽ thẳng tay trừng trị. Nhiều người còn thêm thắt đồn đại là truyền đơn được dán bằng một thứ hồ gì mà dính đến nỗi tụi cảnh sát bóc mãi không ra, phải lấy lưỡi lê mà cạo.

Bọn Pháp và tay sai bị mộtđòn sấm sét bất ngờ, vừa khiếp đảm, vừa tức tối. Chúng đã bị Việt Minhlàm cho mất mặt với đồng bào Huế. Mới hôm qua, báo, loa còn oang oangnói thánh nói tướng nào là trật tự hoàn toàn đã được lập lại trên toàncõi Ðông Dương, nào là bọn đội Việt Minh đã bị tiêu diệt đến tên cuốicùng. Thế mà đùng một cái, Việt Minh chơi cho một vố ngay giữa trung tâm thành nội, có thành cao hào sâu bao bọc.

để vớt lại thanh thế, bọngiặc huy động một lực lượng quân khá đông, vây ráp khu thành nội. Từ năm giờ sáng, chúng đã cho đóng chặt các cửa ra vào, đặt các trạm kiểm soát trước mỗi cửa thành- Chúng ra lệnh dân chúng thành nội, nội bất xuất,ngoại bất nhập. Ai dám trái lệnh, xích cổ đưa về lao Thừa Phủ. Chúngchia quân thành nhiều toán, súng cắm lưỡi lê, đạn lên nòng, lùng soátvây ráp, ngồi trên xe bọc thép có gắn đại liên, chạy ngược chạy xuôi như ngựa tế. Tên chỉ huy vây ráp oang oang ra lệnh cho các toán quân vâyráp: “Kẻ nào khả nghi, có ý chạy trốn hoặc chống lại, cho phép nổ súnghạ sát ngay tại chỗ!“.

8

Chính vào lúc đó, trên con đường kiệt Ởngã tư âm Hồn, đột ngột xuất hiện Tư-dát và Lượm. Chúng đang đi về phíacổng Tam Tòa, nơi bọn giặc đang đi lại lố nhố rất đông. Hai đứa đầu trần chân đất, mặc sơ mi cộc tay màu cháo lòng, quần đùi xanh- Nếu nhìn kỹ,khắp trên hai má, cánh tay, cẳng chân, nốt muỗi đốt dày dịt, và nhiềuvết gai cào xước. Lượm đi tay không, Tư-đát tay ôm một quả bóng tết bằng lá chuối khô và dây chuối. Trông dáng bộ nó ôm quả bóng lá chuối khô mà giống hệt một cầu thủ nhà nghề ôm bóng da ra sân cỏ. Thỉnh thoảng nólàm điệu dội bóng xuống mặt đường, nhưng quả bóng nằm bẹp dí như cụcbùn- NÓ lấy bàn chân hất ngược bóng lên, bắt lấy, cầm quả bóng xoayxoay, xem xét.

- Banh non hơi! - nó nói - đi đá tranh giải vô địch, đoạt “cúp” sư tử vàng mà banh biếc ra ri thì gay thiệt!

Ngang qua một gốc cây có dán tờ truyền đơn mà bọn cảnh sát chưa kịp bóc, nóvội lánh xa sang bên kia lề đường, mắt liếc xéo một cái rất nhanh nóinhỏ với Lượm:

- Dán lộn ngược rồi mi ơi! Chừ ai muốn đọc là phải làmxiếc trèo lên cây, móc hai chân vào cành cây đầu chúc xuống đất mà đọc.Khổ!

Lượm phì cười nói:

- Theo tao thì nhổ cây lên, dựng ngược rễlên trời mà đọc đỡ mệt hơn. - Hay để tao sang bóc ra dán lại hí! - NÓdợm chấn như định chạy sang bên gốc cây bóc tờ truyền đơn. Biết nó đùamà Lượm vẫn hoảng, chụp níu tay nó lại, cau mắt nói khẽ.

- Ba láp vừa chứ mi?

Cả hai đứa đều nhớ rõ là đêm qua khi dán đến tờ - truyền đơn này, tờtruyền đơn cuối cùng thì phía đồn HỘ Thành rung lên tiếng bom nổ- Haiđứa giật mình, chui bùa qua một hàng rào bông cẩn cao quá đầu người,ngồi thụp xuống chân rào- Lượm thì thầm hồi hộp nói:

”Chắc là các anh lớn lọt vô choảng tụi nó rồi! Hèn chi trong tờ lệnh của ban Tham mưutrung đoàn tối hôm qua tao đưa về cho anh Ðồng-râu, có dặn là tổ mìnhphải rải truyền đơn đúng vô đêm ni. Lúc đọc cái lệnh đó tao đãhơi.ngờ...” - Không biết đơn vị mô đang chơi trận ni mi hè?

Tao đoán là tiểu đoàn mười tám- Vỡ mặt trận, không thấy tiểu đoàn mười tám rút lên chiến khu Hòa Mỹ.

Chửng hai tai lắng nghe tiếng súng một lúc một nổ rát- Tư-dát băn khoăn.

- Các anh lọt vô lối mô được mi hè? các cửa thành thì không qua được rồinghe, lính gác đặc! Mà trèo thành thì trèo làm răng- Cao nghêu, lại cóhồ sát chân thành?

XÌ-- mi cứ lo chim không biết bay?

Tư-dát vẫnmải theo đuổi ý nghĩ của mình- NÓ nói- - Nếu là tiểu đoàn mười tám thìchưa chừng có thằng Vệ-to đầu đang đánh Ở đó- Tao nhớ hắn quá mi ơi?

Tiếng súng, tiếng lựu đạn, thưa thớt dần rồi im hẳn.

Lượm nói:

- Chắc các anh rút rồi.

- Rứa, tau với mi cũng phải tìm cách mà chuồn ra khỏi thành thôi chứ mi?

- Chuồn lúc ni là rất nguy. Tao chắc tụi lính gác các cửa thành đang đốthết đèn đóm lên, canh gác còn ngặt gấp mười lúc thường- Theo tao chuihẳn vô giữa vườn tìm chỗ kín núp chờ cho trời sáng. Cửa thành mở, ta cứđàng hoàng đi ra, tụi hắn mới khỏi nghi.

Tư-dát nghe phải. Hai đứalủi như hai con chuột vào giữa vườn, ngồi dựa vào lưng nhau dưới gốc một cây bưởi. Xung quanh cỏ tốt ngập đầu, muỗi hơn trấu. Muỗi bâu lại cắnhai đứa mỗi lúc một dày đặc. Chốc chốc, hai đứa lại đưa bàn tay xoa mộtcái, lòng bàn tay dính dính máu. Tư-dát đã thiu ngủ. NÓ giả giọng “cácmệ” nói trong trạng thái dở thức dở ngủ:

- Mi mắc cái màn buồm với trải cái đệm lông chim cho “mệ” nghỉ lưng một chút-.. Mệ hơi oải ba sườn.

NÓ nằm dài luôn xuống đất lổn nhổn gạch đá, đầu gối bừa lên một búi cỏ, và bắt đầu ngáy. Lượm cũng mệt và muốn ngủ không kém, nhưng nó cố hết sứcchống chọi- Hai đứa, phải có một đứa thức, lỡ gặp phải chuyện chi cònbiết đường mà xoay trở - NÓ nghĩ vậy. NÓ căng mắt cố nhìn xuyên bóng tối bao quát cả khu vườn. Khu vườn như bỏ hoang lâu ngày không có ngườichăm xóc, chắc chủ nhà chưa hồi cư... điều nhận xét này làm cho nó hơiyên bụng. NÓ nâng đầu Tư-dát đặt lên đùi nó rồi nhổ búi cỏ làm phất trần xua muỗi cho bạn và cho mình. Tư-dát vẫn ngủ say mê mệt. NÓ còn ú Ớ nói mê khá to, làm Lượm hốt hoảng đưa tay bịt mồm nó lại.

Ðến một lúc, - Lượm cũng không còn đủ sức chống lại cơn buồn ngủ. Búi cỏ làm phất trần tự nhiên tuột khỏi tay, đầu nó ngoẹo sang một bên, gật lia gật lịa rồidựa hẳn vào gốc cây ngủ thiếp luôn.

Khi hai đứa choàng tỉnh dậy, trời đã sáng trợt. Hai đứa bò trong cỏ rậm, định chui rào ra ngoài. Nhưngngoài đường tiếng xe chạy rầm rầm, tiếng giày đinh cồm cộp, tiếng súnglên đạn rôm rộp. Hai đứa vội thụt đầu bò lùi lại, nép sau một bụi chuối- Hú vía! Nếu chui ra thế nào cũng chạm trán tụi giặc đang vây ráp.

Nhưng Ở lại trong vườn cũng không xong. Lỡ chủ nhà đi ra vườn, trông thấy hai đứa, họ hô hoán lên lại càng chết. Chưa biết làm cách nào, Lượm chợttrông thấy những bẹ lá chuối khô liền nảy ra một mẹo. NÓ ghé sát taiTư-dát thì thầm. Tư-dát gật gật đầu.

- Mẹo nghe được! Nghe được.

Lượm bứt lá chuối khô để thành một đống.

Tư-dát cuộn lá chuối lại, dùng dây chuối bện thành một quả banh lớn hơn quảbưởi. Tư-dát bện banh lá chuối phải nhận là thiện nghệ- Chỉ một loáng,đống lá chuối đã biến thành một quả banh khá tròn.

Chờ cho ngoài đường im ắng hẳn, hai đứa ôm banh chui ra...

Và lúc này hai đứa đang đi về phía cửa Thượng Tứ.

° ° °

Dọc đường hai đứa chạm trán hết toán lính Tây Lê Dương này, lại toán Bảo Vệ Quân khác - Súng cắm lưỡi lê sáng quắc, mắt trợn trừng trợn trạc, chúng hằm hè xông vào các khu vườn, các ngôi nhà hai bền đường, lúc soát.

Hễ nhìn thấy một toán giặc từ xa đi lại là Tư-dát thả quả banh xuốngđường. Hai đứa làm bộ làm tịch tranh banh rất hăng - Vừa tranh banh vừala lối om sòm.

- ê? ê! Cấm chơi xấu! Cấm chơi xấu?

- Mi bị “manh” rồi! “Manh-pê-răng-ti” hẳn hoi nghe!

Mi bị cú “coóc-ne” thì có. Tau phải sút phạt mi cú “coóc-ne”!

Và hai đứa làm như vô tình sút luôn quả banh vào chân bọn giặc.

Tụi Bảo Vệ Quân tức tối nạt nộ:

đồ con ranh con lộn? Con cái nhà ai, hả?

- đây là chỗ tụi bay chơi đây, hả?

- Ai cho tụi bay được đá banh giữa đường?

- A lê cút?

Tư-dát vội nhặt quả banh, miệng liến thoắng rối rít:

Dạ, dạ... Tụi cháu lỡ... Xin các bác tha!

Khi chúng qua khỏi, hai đứa đưa mắt nháy nhau, nhe răng cười. Tư-dát nói nhỏ:

- Tụi hắn chắc đang tức Vệ Quốc Ðoàn nổ lòng bóng mi hè?

- Tức mà thôi à? Sợ đái ra quằn ấy chứ!

- Lọt ra thành thôi chứ mi?

Ra chưa được mô. Mi không nghe tụi hắn loa- Cấm dân trong thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập à?

Tư-dát nhăn nhó:

- Lỡ mả cha hắn động, cấm hết cả ngày ni thì làm răng Tau đói xều mếurồi. Tau xấu máu đói lắm. - - được, cứ để coi cái đã Lúc đó ta sẽ nghĩmẹo mà ra. Chừ tao với mi giả đò lừa banh đến trước cửa đồn HỘ Thành,điều tra tình hình coi các anh đánh có kết quả không, để về báo cáo vớianh đồng-râu.

Hai đứa vừa chạy đuổi nhau vừa lừa quả banh lá chuốiđến trước cửa đồn HỘ Thành. Cổng đồn xây bằng gạch khá kiên cố, lúc nàychỉ còn là một đống gạch vụn.

Bên trong đồn, giữa sân, đồ đạc 'bànghế vứt lung tung lộn tùng phèo như cảnh bị nhà cháy. Tụi lính nhốn nháo đi lại thu dọn, mang vác...

Hai đứa lừa banh qua cổng đồn, mắt liếcrất nhanh bao quát toàn cảnh bên trong- Mặt chúng tự nhiên ỉu xìu, trong lòng dậy lên một nỗi buồn tiếc ghê gớm- Chỉ trừ cái cổng đồn, còn nhàngang dãy dọc vẫn nguyên vẹn cả. lúc mà đêm qua, ngồi trong khu vườnhoang lắng nghe tiếng bom tiếng súng, chúng hồi hộp, hả hê hình dung cảcái đồn này đang bị các anh nghiền thành cám.

Bên trái cổng đồn, cạnh đống gạch vụn ngổn ngang, có một xác chết đặt nằm giữa trên tấm cửachớp. Xác chết ăn mặc áo quần Vệ Quốc đoàn, da mặt đen xạm dập nát, bámđầy bụi vôi, bồ hóng, miệng há to như đang hét xung phong. Vạt áo trước. rách tả tơi, loang lổ máu khô bầm. Bên vai anh vẫn còn đeo một đòn bánh tét Ruồi, nhặng xanh vo ve bâu kín mảng áo dính máu, bò ngang bò dọctrên mặt anh. Chắc anh bị thương rồi chết vùi dưới vôi gạch, đơn vị rútvội không kịp phát hiện để mang đi. Bọn giặc bới được xác đem bêu ra đây cho người qua lại ngó thấy.

Lừa quả banh qua khỏi cổng đồn chừng vài trăm thước. Lượm như bỗng kiệt sức. NÓ lảo đảo ngồi phịch xuống lềđường. Cặp mắt đỏ hoe, chăm chăm nhìn về phía cổng đồn. Tư-dát tái mặtlay lay vai bạn nói gần như van vỉ:

- đi mi! đi. Ngồi đây lâu, tụi hắn nghi chết.

Lượm như không nghe thấy bạn nói gì. NÓ lắp bắp thì thào như trong cơn mơ ngủ.

- Thấy mấy con ruồi xanh bò bò trên mắt anh, tao chỉ muốn chạy lại xuatay đuổi... Ngó mà không làm chi được tao đau ruột quá mi ơi. Nói đếnđó, miệng Lượm bỗng mếu xệch.

Tư-dát nhìn bạn, miệng tự nhiên cũng mếu theo. NÓ ngồi xuống cạnh bạn, giọng dỗ dành:

- Nhưng biết làm răng được chừ... mi- Tụi hắn chết mười, bên mình chết có một... như rứa chắc anh ấy cũng thỏa.

Lượm nghẹn ngào:

- Cớ chi biết được nhà cha mạ anh ấy Ở mô hè... mà tìm báo cho cha mạ anh biết, lên xin đem xác về chôn...

Tư dát đứng ra giữa đường đo bóng nắng, kêu:

- Trưa quá rồi mi ơi. Phải tìm cách mà lọt ra thôi.

Anh đồng-râu Ở nhà chắc đang nóng ruột lắm.

Lượm như chợt tỉnh, đứng lên- Hai đứa lại lừa trái banh lá chuối về phía cửa đông Ba.

Lúc này bọn giặc đã mở cửa thành, cho người vào ra, nhưng lục soát rất gắtgao. Một toán vừa Bảo Vệ Quân vừa Cảnh Sát, An Ninh, đứa súng trường,đứa súng lục đứng lố nhố trước cửa thành.

Còn cách cửa thành chừngtrăm thước. Lượm với Tư-dát sút banh thảng về phía cửa thành- Tư-dát lăn xả vào chặn banh, nhảy như choi choi, miệng la bai bải:

- ê- Không được chơi xấu? Không được chơi xấu!

khi trái banh lăn tới còn cách cửa thành chừng chục bước, Lượm la lên:

- É “manh rồi”! “Manh” pê-răng-ti hẳn hoi nghe!

- “Manh” mô mà “manh”' Chi trúng Ở cùi chỏ thôi!

Tư-dát gân cố cãi.

- Mi chơi ăn gian! “Manh pê-răng-ti” sờ sờ còn chối- Biết điều thì giữ gôn đi cho người ta sút phạt!

Tư-dát tỏ ý chịu thua- Hai đứa loay hoay tìm chỗ làm cọc gôn. Tư-dát chỉ từ bên này lề đường sang bên kia lề đường:

”Gôn” ri được chưa?

Hẹp quá! - Rộng thì có! Mi coi cổng gôn ngoài “Xịt tát” cũng còn hẹp hơn.

Lượm chịu. Tư-dát đứng ra giữa đường, chổng mông ra phía cửa. Nó xắn tay áo, lưng cúi lom khom, vẻ mặt căng thẳng, làm bộ tịch anh giữ gôn đang sẵnsàng đón bắt quả banh sút phạt đền sáu mét.

- Ðúng sáu bước nghe!

Một tên Bảo Vệ-quân, cầm cây roi [bad word] bò bước đến quát:

- Tụi con ranh con lộn' Chỗ ni là chỗ tụi bay chơi đấy hả? - Hắn quấtluôn một roi vào cái mông nhọn veo của Tư-dát đang chổng về phía hắn.

Tư-dát nhảy dựng lên kêu: “ối?” Vừa lúc đó, Lượm sút rất mạnh, quả banh vọtqua chân Tư-dát, lăn ra đến tận bên ngoài cửa thành. Lượm nhảy lên reoto.

- Bờ-ra-vô! Thủng lưới rồi!

Tư-dát ôm cái mông gày nhom, nhăn nhó.

- Phải sút lại! sút lại' Tại bác Bảo Vệ đánh tau đau quá, tau mới khôngbắt được. - Nó quay lại, mếu máo nói với tên Bảo Vệ Quân:

- Bác làm cháu bắt trật mất cú phạt “manh pê răng-ti” oan quá!

Tên Bảo Vệ Quân giáng cao cây roi lên, chửi:

Con mạ mi, Có xéo ngay không?

Tư-dát nhảy tránh ra gần phía cửa, mắt le lé nhìn cây roi trong tay tên Bảo Vệ Quân, Lượm chạy đến kêu:

- Ðược rồi, cho mi chạy ra nhặt banh vô, tao sút lại.

Lần này mà còn bắt trật là mặc kệ mi đó nghe!

Làm bộ quá mải chơi, hai đứa cùng một lúc chạy ùa ra khỏi cửa thành, xô đến bên trái banh lá chuối nằm lăn lóc cạnh lề đường. Chúng vừa la hét ầm ĩ vừa gàn chân nhau giành banh, hăng hái như một trận quyết đấu vậy Rồilàm như vô tình, hai đứa cứ sút mãi trái banh mỗi lúc một xa cổng thành, trước hàng chục cặp mắt của bọn lính Bảo Vệ Quân, Cảnh Sát, An Ninh.

9

Khoảng mười giờ sáng hôm đó. Kim-điệu từ phía -trường Pơ-rô-vi-đăng đi rađường ngang- Ðến Nông khố ngân hàng cũ, (bây giờ là một đống gạch vụn)nó rẽ xuồng con đường qua đập Ðá để sang Vĩ Dạ- Chiều qua, trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, anh dặn cả tổ: Muộn lắm là mười giờ sáng mai phảicó mặt ở nhà để báo cáo công tác.

Nhưng mới đi được mấy bước, nó lộntrở lại, vòng lên lối Trung bộ phủ cũ, và ra bến đò ngang sông Hương-“Bây giờ chưa đến mười giờ, ta qua chợ Ðông Ba, ních bụng bánh khoái rồi về cũng không sao - nó nghĩ vậy“. Nó không bao giờ ngờ được rằng, mấybước lộn trở lại đó đã mang lại biết bao nhiêu tại họa khủng khiếp chocả tổ quân báo... Và cho chính cả cuộc đời nó.

Từ tám giờ đêm hômqua, nó đã rải xong số truyền đơn được giao. Nó không khỏi hứng chí tựđắc về thành tích của mình - Mấy buổi đầu bắt tay vào công tác tình báonội thành nó run lắm. Gặp khó khăn nguy hiểm nó dễ hốt hoảng, rối trí,mất bình tĩnh. Nhưng chỉ sau một tuần, quen dần với hoàn cảnh và côngviệc, qua vài lần rải truyền đơn, dán báo giết giặc”, vẽ bản đồ khotàng, vị trí địch trót lọt, được anh Ðồng-râu biểu dương trước cả tổ,thế là nó phổng mũi- Nó sinh chủ quan, nghĩ bụng: Tướng công tác tìnhbáo nội thành khó khăn như răng, chứ dễ ợt như ri thì mình có thể hoạtđộng được cả đời Cầu trời, ban quân báo Trung đoàn giao cho mình nhữngcông tác thật khó thật nguy hiểm cả đội không đứa mô làm nổi. Mình làmnổi, cả đội phải phục lác mắt. Vụt thấy mình tài giỏi, can đảm hơn hẳncác bạn, nó đã tự ý làm một vài việc không cần thiết, có thể dẫn đến tai họa. Chẳng hạn, đêm qua nó dành lại một tập truyền đơn và sáng nay nóđi thật sớm, đem rải trước ngõ mấy nhà những đứa bạn trước đây cùng họcvới nó ở trường Khải định. Hoặc như lúc này, đáng lý phải về ngay nơitrú quân nó lại lẻn qua chợ Ðông Ba ních bánh khoái.

Con đò ngang ởbên kia bờ. Trên bến, lác đác mấy người gồng gánh ngồi, đứng đợi đò.Kim-điệu hai tay đút túi quần, miệng khe khẽ huýt sáo điệu nhạc bài hát“nước non Lam Sơn”, năm đầu ngón chân khẽ nhịp nhịp.,Ngắm làn nước xanh trong, nhăn nhăn sóng, nó thấy lòng rộn ràng vui thích. Nó đang tưởngtượng cái cảnh mấy thằng bạn thân lúc ra ngõ vớ được những tờ truyền đơn nó vừa rải sáng nay... Tụi hắn lượm lên gọi nhau í ới, châu đầu lạiđọc. Mới đọc được mấy dòng, mặt đứa nào cũng xanh mét cả lại. Chúng nóchạy té tát hết vào nhà, nói lắp bắp không thành tiếng “Truyền đơn ViệtMinh rải trắng ngõ nhà mình, cha ơi! mạ ơi!..” Tụi hắn chắc đứa mô cũngtưởng cái ông Việt Minh gan cóc tía dám đi rải những tờ truyền đơn đó,phải tài giỏi lắm- Võ nghệ cao cường lại có tài biến hóa xuất quỷ nhậpthần như Long hình quái khách người Nhạn trắng. Côn lôn tiểu khách. Tụi hắn có đến nằm mê cũng không đám tin cái ông Việt Minh rải truyền đơnđó lại chính là thằng Kim, bạn nối khố của tụi hắn!

Nghĩ đến đó nókhoái chí, bật cười to, làm mấy người ngồi đợi đò phải ngoảnh lại nhìn.Nó cứ tiếp tục huýt sáo, nhịp chân, tảng lờ như không biết.

Ðò vẫnchưa sang. Người tụ tập đợi đò mỗi lúc một đông. Tụm năm, tụm bảy, họthì thầm bàn tán về trận đánh đồn Hộ Thành tối qua, chuyện truyền đơnViệt Minh rải tứ tung bát giác, khắp cả ngoài phố, trong thành, mấy trăm Bảo vệ quân chia nhau đi lượm cả buổi sáng không hết!

- Nghe nói đi rải truyền đơn toàn là quân cảm tử.

Kim-điệu thôi huýt sáo. Nó lắng nghe chuyện mọi người thì thầm bàn tán. Nó khoái chí đến tột độ. Da mặt như căng lên, rần rật, nó bỗng thấy ngứa mồmngứa miệng cách chi! Nó thèm được bước lên mấy bước, vỗ ngực nói vớinhững người đợi đò: “Quân cảm tử Việt Minh chính là tôi đây! Chắc bà con không ai ngờ hè?” Vừa lúc đó có mấy tên lính Bảo vệ quân mang súng điđến. Chúng nghiêng nghiêng, ngó ngó, nhìn những người đợi đò, trợn trạc, dò xét, nhác trông thấy tụi lính, sự thèm muốn khoe khoang ngông cuồngtrong lòng nó vụt tan biến hết. Mặt nó tự nhiên hơi tái đi, chân runrun, tim đập thon thót. Nó chụm môi lại cố huýt sáo, nhưng huýt mãikhông thành tiếng. Nó hụt hơi.

Ðò cập bến. Người dưới đò bước lên. Người trên đò tranh nhau bước xuống.

Con đò sang đến bến chợ Ðông Ba. Kim đi vào chợ.

Nó lượn một vòng quanh chợ, rồi sà luôn vào cửa hàng bánh khoái. ăn mộtbụng no nê đã đời, môi đỏ mọng lên vì húp nước lèo và cắn rau ráu ớttươi.

Nó bước khỏi cửa hàng mấy bước thì bất ngờ chạm trán Nguyễn Trì, ông anh nuôi của nó hồi còn ở Trung đoàn bộ.

Phải gánh vác trách nhiệm nặng nề của người chiến sĩ cứu nước, nhưng các đội viên đội Thiếu niên trinh sát vẫn còn là những chú bé. Các em thèm khát được yêu thương, vỗ về, chăm chút, và thỉnh thoảng được làm nũng vớicha, mạ, anh chị... Xa gia đình, cha, mạ, anh, chị ruột các em nhận chanuôi, mẹ nuôi, anh, chị nuôi.

Anh, chị nuôi là các chiến sĩ hơn tuổicùng đơn vị, hoặc ở các đơn vị khác mà mỗi em cảm thấy gắn bó, yêuthương. Phần lớn các đội viên trong đội Thiếu niên trinh.sát đều có anh nuôi, chị nuôi. Riêng Kim-điệu không những chỉ có một mà đến ba bốn ông anh nuôi, ba bốn bà chị nuôi. Nó xinh trai, láu lỉnh nhất đội nên đượcnhiều anh, nhiều chị thích nhận làm em nuôi. Và nó rất biết lợi dụng cái ưu thế của nó. Nó nhận anh chị nuôi này một thời gian thấy không thíchnữa, lại bỏ, nhận anh chị nuôi khác. Và nó cũng rất thích thú, hãnh diện khi thấy vì nó mà các anh chị nuôi, nhất là các chị nuôi, giận hờn,ghen tức nhau. Có chị còn khóc đỏ cả mắt khi thấy người khác tranh mấtđứa em nuôi xinh trai của mình.

Nguyễn Trì là ông anh nuôi thânthiết, gắn bó nhất của nó. Trước ngày Huế nổ súng, Nguyễn Trì làm quảnlý của cơ quan Trung đoàn bộ. Ngày đó Lượm và Kim đều là liên lạc củatrung đoàn bộ. Nguyễn Trì yêu Kim bao nhiêu thì ghét Lượm bấy nhiêu.Ngược lại Lượm cũng ghét Nguyễn Trì ra mặt ngay từ buổi đầu mới gặp Lượm thấy ghét Nguyễn Trì mà chính nó cũng không hiểu tại sao. Không nhữngghét Nguyễn Trì, nó còn ghét luôn cả Lê Thành, thư ký đánh máy của Trung đoàn bộ, bạn thân của Trì. Do ghét mà tự nhiên Lượm thường xuyên để mắt xem xét lời nói, việc làm của Trì và Thành. Một hôm nó nghe lỏm đượcNguyễn Trì bàn với Lê Thành: sáng hôm sau đi nhận gạo ở kho quân lươngcủa Trung đoàn, Nguyễn Trì sẽ lấy cắp hai bao một trăm cân gạo, giao cho Lê Thành đi bán. Trì hẹn Thành đón gạo ở chân cầu Ðông Ba cũ. Lượm gặptham mưu trưởng Phùng Ðông - sau này là chi huy trưởng mặt trận C - báocáo điều nghe lỏm được. Tham mưu trưởng bèn bố trí lính cảnh vệ bí mậttheo dõi, và bắt quả tang hai đứa ăn cắp gạo. Cả hai bị tống cải hốithất.

Sau khi ra khỏi cải hối thất, tham mưu trưởng đưa Nguyễn Trì về một đại đội làm lính trơn. ít lâu sau nhờ chú em nuôi Kim, Nguyễn Trìbiết được chính Lượm đã tố cáo hắn. Ðối với Lượm, Nguyễn Trì không phảichỉ là ghét mà thù hận. Có lần Trì nói với chú em nuôi dễ thương và xinh trai của mình: “Nếu tình cờ anh gặp thằng chó chết đó ngoài mặt trận,anh thề sẽ cho hắn ăn đạn“. Nét mặt Trì sa sầm và cười gằn một cách dữtợn.

Kim lo lắng kể chuyện lại với - Lượm, và khuyên:

”Hay là mi chịu khó tìm anh ấy mà xin lỗi...“.

Lượm tức tối nói: “Việc chi tau phải xin lỗi thằng ăn cắp của Vệ Quốc đoàn? Hắn có đạn cho tau ăn dễ chừng tau không có đạn cho hắn ăn chắc?”

° ° °

Nguyễn Trì đang từ cửa hàng bún bò khô đi ra. Trì vẫn như ngày làm quản lý ởTrung đoàn bộ. Mặt đầy trứng cá, nặn nhiều nên từng đám đen bầm, đầu tóc đít vịt chải bị-dăng-tin bóng loáng tưởng ruồi đậu cũng phải trượt chân ngã oạch; cổ tay đồng hồ vàng lấp lánh.

Chỉ có khác trước kia là Trì mặc quân phục kaki gabađin, bây giờ mặc “Com lê” mới tinh như vừa lấy ở hiệu may ra, chân dận giày da đen mõm nhái soi gương được đầu đội mũphớt, mắt đeo kính râm.

Kim đâm bổ tới, mừng rỡ gọi:

- Anh Trì, anh Trì!

Trì quay lại, nhìn Kim vẻ hơi ngớ ra một chút.

Nhưng chỉ thoáng một giây, Trì đã đổi ngay nét mặt tươi cười vồn vã:

- Kim đấy à? Dạo này chú em lớn và đẹp trai quá ta?

Mặt Kim rạng rỡ lên vì được khen. Nó bước đến sát bên anh nuôi thì thầm hỏi:

- Chớ anh về đây khi mô?

Trì đưa mắt nhìn quanh vẻ sợ sệt, nhíu trán lại nói khẽ với Kim:

- Ðứng đây nói chuyện không tiện. Anh em mình ra cái ghế đá ngoài kia.

Trì dắt tay Kim ra khỏi chợ, đến cái ghế đá gần đầu cầu Tràng Tiền- Hai anh em ngồi sát bên nhau. Trì rút thuốc lá châm hút, vừa thở khói vừa hỏi:

- Em đi mô mà qua đây?

Em ở bên nhà qua. Mạ em biểu qua chợ mua mấy hộp hương vòng thắp bàn thờPhật... - Lúc này Kim đã nhớ lại lời dặn của anh đồng-râu.

Em hồi cư lâu chưa? Chạy đến mô thì lộn lại?

- Em rút theo Trung đoàn bộ, ra đến Hiền Sĩ thì gặp gia đình em tản cư ở đó. Em liền bỏ trốn về nhà.

Em theo cha mạ hồi cư đã được gần tháng nay. Rứa anh?

- Anh thì chán quá! - Nguyễn Trì lắc lắc đầu vẻ buồn bã trả lời- Chạy rađến Cổ Bi bị lạc mất đơn vị- Anh tìm đỏ cả mắt đến tận Mỹ Chánh cũngchẳng thấy tăm dạng. Chắc các cha hoảng quá, chạy tuốt ra thấu Vinh hayrút lên núi rồi cũng nên. Anh đành phải chôn súng chôn đạn bò về Huế.Dọc đường, mấy lần suýt bị Tây bắn chết...

Nguyên Trì thở dài, búng cái tàn thuốc ra xa, nói tiếp giọng uất ức:

- Không ngờ Vệ Quốc Ðoàn ta lại tan rã mau đến rứa! Bao nhiêu công laocướp chính quyền, làm cách mạng, rứa là tan ra mây khói hết?...

Kim-điệu lúc này tự nhiên thấy thương hại cho ông anh nuôi to xác, diện ngấttrời của mình. “Chắc là anh ấy chưa được biết chuyện chiến khu, chưađược học tập về ba giai đoạn kháng chiến... nó nghĩ thầm vậy“. Nó nói,mặt hơi vênh lên:

- Anh cứ tưởng rứa chứ tan răng được anh?

- Em nói không tan, răng chẳng còn thấy bóng một mống Việt Minh nào?

- Rứa anh không nghe chuyện Vệ Quốc Ðoàn đánh đồn Hộ Thành đêm qua vớitruyền đơn rải trắng đường phố đó à? - Nó suýt buột miệng khoe- “Chínhem rải truyền đơn đó chứ ai. Anh đang ngồi cạnh Việt Minh chính cống màanh không biết“. Nhưng nó đã cố gắng hết sức kiềm lại được. Nguyễn Trìchâm điều thuốc khác, chuyển giọng trầm trồ thán phục.

- Không biết đơn vị mô của Trung đoàn mình chơi cái vố Hộ Thành tối qua khá thiệt!

Kim-điệu hơi ngập ngừng một chút, rồi hỏi:

- Giả dụ anh mà được gặp họ anh có theo không?

Nguyễn Trì đang đưa lưng vào thành ghế đá, thở khói liền ngồi thẳng ngay dậy, giọng sôi nổi.

- Răng lại không theo? Em tưởng anh không nát ruột nát gan trước cảnh nước mất nhà tan ni à?

- Tưởng anh bây giờ đã đi làm việc cho Tây?...

Làm cho Tây ấy à? - Nguyễn Trì khinh bỉ nhổ toẹt một bãi nước bọt qua kẽrăng. - Thà chết đói chết khát, xách bị đi ăn mày, chứ đời mô thanh danh là mọt thằng lính Vệ Quốc đoàn cũ như anh lại chịu nhục đi làm việc cho Tây.

Vẻ mặt và giọng nói cảm khái của ông anh nuôi làm Kim-điệu tanbiến hết mọi lo lắng, nghi ngờ. Nó cho rằng đã có thể thổ lộ với NguyễnTrì những điều bí mật, và cùng chia sẻ với anh nuôi nỗi vui thích hãnhdiện đang tràn ứ trong lòng. Nó còn nảy ra ý định sẽ dắt Nguyễn Trì vềVĩ Dạ giới thiệu với anh đồng-râu, đề nghị anh kết nạp Trì vào tổ quânbáo- “Thêm được một người, tổ mình càng mạnh, thả sức mà hoạt động” Nhưđoán được chú em nuôi xinh.trai, bồng bột, nhẹ dạ đang nghĩ gì, NguyễnTrì làm vẻ mặt đau đáu, thở dài nói:

- Nếu anh mà được biết quân mình bây giờ đang ở đâu, thì a-lê hấp! Anh sẽ quăng hết những thứ này xuốngsông. - Trì trỏ bộ áo quần, giày, mũ phớt, đồng hồ vàng. - Dù họ có ởtận rừng xanh, rú đó anh cũng mò tới tìm theo.

Kim hạ thấp giọng:

- Em chắc quân mình không ở xa mô. Có khi ở sát ngay bên nách anh em mình cũng nên...

Làm chi có chuyện đó em- - Nguyễn Trì ném mẩu thuốc lá xuống đất. - đánhxong là phải tìm đường rút.- Tây, Bảo vệ quân ở đầy thành phố. Việt Minh có ba đầu sáu tay cũng chẳng dám ở lại...

Kim nói gần như thì thầm:

- Rứa anh có dám tham gia hoạt động không?

- Hoạt động cái chi rứa? - Nguyễn Trì hỏi lại giọng ngờ nghệch.

- Hoạt động tình báo!

Nguyễn Trì ghé sát mặt chú em nuôi, giọng run lên hồi hộp: - Nhưng biết chỗ họ ở mô mà đến xin hoạt động em?

- ở đây chứ còn ở mô nữa! - Kim đưa ngón tay cái chỉ vào ngực mình, cặpmắt long lanh đắc thắng hãnh diện. Nó thích thú thấy Nguyễn Trì cứ nhìnnó, mặt ngây ra. - Em không giấu gì anh, không phải em theo gia đình hồi cư mô... Em được Trung đoàn cử về Huế hoạt động tình báo. Tất cảnhững truyền đơn đó đều do tay em rải cả.

Nó đưa tay lên định phácmột cử chỉ để nhấn mạnh thêm cho điều bí mật quan trọng mà nó vừa tiếtlộ. Bất ngờ tay nó chạm phải một vật cứng và lạnh dắt bên sườn ông anhnuôi khuất bên trong áo vét tông. Tay nó rụt ngay lại như chạm phải lửa. “Ui trời? Súng lục:“. nói muốn kêu lên vậy mà không thành tiếng. - Haylà. Nó bàng hoàng nhìn Nguyễn Trì. Nó vùng đứng ngay dậy, định bỏ chạy.Nhưng ông anh nuôi với bàn tay cứng như sất nguội đã chộp lấy vai nó kéo giằng xuống, và nói qua kẽ răng:

- Ngồi im đó- Cựa quậy tao cho ăn đạn ngay!

Kim-điệu mặt tái nhợt, nhìn ông anh nuôi, giọng như sắp òa khóc:

- Anh Trì, anh mà nở đối với em rứa à?

Nguyễn Trì không trả lời, đưa mắt nhìn sang bên kia đường, đưa hai ngón tay lên búng tách một cái ra hiệu.

Từ dãy phố bên kia đường, một thanh niên mặc áo ca rô, đầu đội bê-rê lệch, quần ống tuýp, đi giày bốt tin trắng, vừa huýt sáo vừa băng qua đường,đến đứng khép nép trước mặt Nguyễn Trì, Trì nói nhỏ giọng ra lệnh:

- Giữ thằng này ngồi yên tại đây, chờ tao. Việt Minh chính cống đó. Coi chừng để nó thoát là mày phải thế mạng.

- Thưa xếp, thằng em đã canh giữ, thì nó có chạy đằng trời? Thằng mặc áoca rô ngồi xuống sát bên Kim đưa tay choàng qua vai ra chiều thân mật,kiểu đôi bạn tri kỷ khoác vai nhau dốc bầu tâm sự- Kim vừa quay ngườilại thì một hóng súng lục thúc đau nhói bên mạng sườn- Hắn gằn giọngnói:

- Cứ ngồi yên vị như lứa? Mi mà cựa quậy, con “chó lửa” ni tứcmình sủa lên là rồi đời đó nghe! - Hắn thúc mạnh hơn họng súng vào mạngsườn Kim để nhấn mạnh cho lời hăm dọa. Kim-điệu ngồi chết cứng trên ghếđá, mồ hôi vã ra, ướt đẫm suốt từ đầu tới chân.

Nguyễn Trì đi đến một bót cảnh sát gần đó.

Chừng hai chục phút sau một chiếc xe “jép” chạy đến đỗ xích sát lề đường,trước mặt ghế đá, máy vẫn nổ rù rù- Trên xe, ngoài thằng lái xe, còn cóhai tên Bảo vệ quân cầm tiểu liên. Nguyễn Trì từ phía bót cảnh sát điNAME = Desktop đến. Hắn đưa hai ngón tay búng đánh tách, ra lệnh chothằng mặc áo ca rô:

- đưa nó về Ty An Ninh!

Thằng này đứng lên, xốc nách Kim đứng lên theo dìu đến bên cửa xe, nói:

- Mời chú em lên xe!

Kim như người mất hồn, run rẩy đặt một chân lên thùng xe. Thằng này lên gối thúc mạnh vào lưng Kim.

Mất đà, nó ngã nhào vào trong xe, đầu va phải cái cạnh ghế ngồi, máu lõa ra, chảy đỏ lòm cả mặt.

Chiếc xe rồ máy lao đi, giữa những cặp mắt hãi hùng ngơ ngác cửa những người qua đường.

10

Gần hai giờ chiều. ở Vĩ Dạ, anh Ðồng-râu hết đi ra lại đi vào. Anh bồn chồn nóng ruột, đợi mãi không thấy Kim về. Mâm cơm để phần nó vẫn còn úplồng bàn trên phản.

Lượm và tư-dát về từ lúc mười một giờ kém mườilăm. Hai đứa ăn cơm chưa kịp uống nước, xỉa răng đã phải tất tả mang báo cáo về cho tổ liên lạc ở Sịa. Lần này anh cử Tư-dát cùng đi với Lượm,để nó quen đường.

Lở khi Lượm vắng mặt, nó có thể đi thay. Theo thông báo của ban quân báo trung đoàn, lần này phải chuyển về Huế khá nhiềutruyền đơn và báo Giết giặc.

Tư-dát cùng đi với Lượm, lở đọc đường gặp chuyện bất trắc, hai đứa có thể giúp nhau, bàn bạc, giải quyết.

Bà o cũng vừa cắp rổ đi chợ. ở nhà chỉ còn một mình anh. Quanh xóm im ắngkhác thường. Xóm này người hồi cư còn thưa thớt. Nhiều nhà còn cửa đóng, then cài, sân đầy rêu, bậc cửa mốc meo.

Anh vào buồng định chợp mắt một tí- Chờ đến ba giờ nêu không thấy Kim về, anh sẽ nhờ bà o lên phố dò la tin tức.

Anh vừa đặt lưng xuống giường, bỗng nghe ở phía đầu xóm có tiếng lao xao lạ tai- Anh bật ngồi dậy dỏng tai chăm chú lắng nghe- Tiếng nhiều bướcchân huỳnh huỵch và tiếng xát quy-lát súng. Tiếng một con chó sủa vánglên, hốt hoảng. Linh tính dường như báo cho anh biết có sự chẳng lành-Anh nhảy đến góc buồng, mở thập gạo, thọc tay vào lôi ra một khẩu súngmô-de, quấn trong cái khăn mặt cũ. Anh mở ra, lau nhanh khẩu súng, tháobăng đạn, kiểm tra rồi lắp vào và bật chốt an toàn. Ngay lúc đó, phíatrước ngõ nổi lên một tiếng còi chói tai, và tiếng hàng rào bị đạp gãyrăng rắc.

Tiếng hô dữ tợn vang lên:

- Không được để nó chạy thoát!

Biết mình đã bị bao vây, anh Ðồng-râu đạp mạnh bức phên sát đầu chõng tre(bức phên này anh đã cẩn thận mở bứt nhiều nốt lạt buộc từ trước). Bứcphên đổ ụp' Anh dẫm lên bức phên đổ lao ra phía vườn sau. Anh thấy lốnhố giữa những hàng cầy ăn quả, mũ sắt và những họng súng.

- Nó thoát ra phía ni bay ơi Bắn!

Một viên đạn rít, nóng bỏng sát sau gáy anh. Anh cúi khom người, siết chặtkhẩu súng trong tay, bươn về phía bờ tre bên trái khu vườn.

Tiếng bọn giặc nhao nhao hò hét:

- đứng lại? Ðứng lại! Hàng thì sống!

Súng nổ từng loạt, tiếng chân rầm rập đuổi theo anh Ðồng-râu vọt qua bờ tre- Gai tre móc áo, kéo rách toạc từ ngực ra lưng.

- Bắt sống? Bắt sống, Vòng ra bên trái đón đầu nó.

Tiếng bọn giặc la hét rầm rầm. Anh vẫn chạy quay khẩu mô-de, bắn một phátqua vai. Một tiếng kêu rú đau đớn- ôi? Tiếng người ngã đánh uych. Nhiềutiếng la ré.

- Thằng ni có súng Cẩn thận đấy?

Gặp một con đườngkiệt, anh rẽ ngang định lao ra bờ sông- Nhưng muộn mất rồi. Nhiều họngsúng đón đầu anh- Cùng đường, anh lùi lại, vọt bừa qua mấy hàng rào đầygai, bươn đến một ngôi đình bị phá hoại chỉ còn trơ mấy bức tường. Anhvọt mấy bậc tam cấp xây đá, lên nền đình ngổn ngang gạch vụn Ðưa mắt bao quát địa hình, anh đứng nép sau bức tường rạn nứt, cao quá đầu- Anh cúi khom người nhìn qua khe nứt, thấy bốn năm tên giặc, cầm súng lăm lămchạy vào sân đình, mắt nhớn nhác tìm kiếm.

Một thằng cao lòng khòng, tay cầm khẩu “côn-đu”, vẫy vẫy ra lệnh cho những thằng trước sân đình:

- Chặn tất cả các lối ra xóm! Hắn đang núp sau mấy bức tường nứt kia thôi!

Bắt tay lên miệng làm loa, tên này gọi to:

Ðồng-râu! Bỏ súng hàng đi! Chúng tao sẽ tha chết, Chống cự vô ích! Mày không thoát nổi mô!

Anh Ðồng-râu bàng hoàng trong khoảnh khắc “Tại sao tụi hắn biết tên mình! Thôi đúng rồi, Chắc là thằng Kim...“.

Một loạt đạn trung liên bắn thẳng vào bức tường anh đang nấp, cắt ngang ýnghĩ của anh. Vôi vữa gạch vụn bay rào rào quanh anh. Anh chỉ nòng khẩuMô-de qua khe nứt, nhắm đúng ngực thằng chỉ huy, siết cò- Trượt! Viênđạn bay vù qua vai hắn, làm đứt tung cái cầu vai áo khía. Thằng này nổinóng, vẫy khẩu “côn” bắn liền một băng vào khe tường nứt.

AnhÐồng-râu đổi vị trí bắn. Anh luồn sang bức tường bên phải, có cái cửatròn chữ Thọ. Anh quỳ xuống nâng súng ngắm một thằng cầm tiểu liên“Tôm-sơn” đang cúi lom khom, lò dò bước lên bậc tam cấp. Anh bắn liềnhai phát. Tên giặc đang cúi bỗng dướn thẳng người lên, cổ ngay ra như bị hóc xương, cặp mắt trợn ngược, miệng há to như sắp quát mắng. Bất thầnhắn ngã vật ra đằng sau, gáy đập mạnh vào thềm đá. Khẩu tiều liên văngsang một bên. Hắn co quắp giẫy giụa, kêu ú ớ, và một dòng máu đỏ tươivọt ra chính giữa trán.

Ðạn hết, anh thò tay vào túi áo móc mấy viênđạn dự trữ, định lắp tiếp vào súng. Nhưng ngay lúc đó, một tên giặc độimũ sắt, vòng ra phía sau ngôi đình, nhô đầu lên khỏi bức tường đổ. Anhchưa kịp quay đầu lại, hắn đã chĩa khẩu tiểu liên vào lưng anh, kéo hếtmột băng đạn. Cả băng đạn mấy chục viên ghim hết vào lưng anh.

Anhchết tức khắc. Thân hình anh đổ nhào xuống cái bệ vôi có đặt những chiếc bát nhang sành sứt mẻ. Tay phải anh vẫn nấm chặt khẩu mô-de hết đạn.Bàn tay trái ngón quặp chặt bốn viên đạn vừa móc trong túi ra. Mái tócrễ tre rậm lù xù thoáng điểm những sợi bạc, mồ hai dính bết trước trán.Chòm râu quai nón vênh ngược, bám trắng bụi vôi, đôi mắt có nhiều nếpnhăn rẽ quạt ở đuôi mắt mở to bất động.

Bọn giặc xúm đen xúm đỏ quanh xác anh. Chúng bẻ những ngón tay anh ra tước lấy khẩu súng và mấy viênđạn. Tên chỉ huy ra lệnh lấy dây dừa buộc hai chân anh, kẻo xác ra tậnđường cái. Một chiếc Ô tô tải G.M.C; thùng xe vải bạt bít kín, đỗ ở đó.Trong góc thùng xe, Kim-điệu mặt mũi tím bầm, sưng húp, ngồi thu lu, mặt gục xuống đầu gối.

Chính nó đã dẫn đường cho bọn giặc vây bắn anhÐồng-râu. Sự việc xảy ra khá đơn giản: Mười một giờ trưa hôm đó. NguyễnTrì đưa Kim về đến Ty An Ninh.

Lúc này nó đã rõ ông anh nuôi yêu quý, mà một giờ trước đãy nó có ý định giúp đỡ, dắt dẫn vào con đường hoạtđộng tình báo, lại chính là trưởng ban Di động của Ty An Ninh. Ban Diđộng của hắn đang lồng lộn tìm kiếm dầu vết, manh mồi của trận tấn côngđồn Hộ Thành và rải truyền đơn đêm qua. Cách đây mấy hôm các quan thầyPháp bên sở mật thám Phòng Nhì vừa “xà lù” Ty An ninh là kém cỏi, bấtlực. Việt Minh ngày càng làm mưa làm gió ngay trước mũi mà không tóm nổi một tên nào?

Cả Ty An Ninh lo sốt vó trước lời mắng mỏ của quanthầy. Dùi đánh đục, đục đánh sảng. Gã Ty trưởng trút hết nỗi lo sợ bựcdọc lên đầu hắn, người chỉ huy đội quân điều tra, chỉ điểm của Ty. Gãgọi hắn là “Trưởng ban ăn hại“.

Một sự may mắn tình cờ, hắn được gặp lại chú em nuôi quý hóa...

Chỉ sau mấy cái tát, mấy cú đấm của tên Năm-ngựa trước kia là dân dao búacôn đồ, bây giờ là chuyên nghiệp tra tấn của ty, Kim-điệu đã phun rahết. Cả Ty An Ninh mừng rơn. Một mặt, tên Ty trưởng cho điều một trungđội Bảo vệ quân về Vĩ Dạ, do Kim dẫn đường, vây bắt anh đồng-râu. Mặtkhác, Nguyễn Trì dẫn một tồ Di động viên về đầu cầu Bao Vinh đón bắtLượm và Tư-dát từ Sịa trở về.

Bọn Bảo vệ quân vứt xác anh đồng-râuvào thùng xe, ngay trước mặt Kim. Cái xác nằm ngửa. nhìn thấy cái vạtngực áo bà ba đũi Mỹ Lợi thân thuộc của người chỉ huy, đầm đìa nhữngmáu, và cặp mắt anh mở trừng, bất động, Kim kêu thét lên, hãi hùng,hoảng loạn. Nó ôm chặt lấy tên Bảo vệ quăn ngồi cạnh như cầu xin sự chechở.

Xe nổ máy, chở xác anh về đến đầu đập Ðá. Chúng đỗ xe, lôi xácanh xuống đặt nằm trên vạt cỏ sát lề đường. Cạnh xác chúng cắm một tấmbiển có dòng chữ:

”Tên Ðồng-râu. Việt Minh đầu sỏ chỉ huy đánh đồn Hộ Thành và các vụ ám sát nhân viên nhà nước đã bị Ty An Ninh Thừa Thiênđiều tra phát giác, phối hợp với Quân đội quốc gia lùng bắt được và bắnchết tại Vĩ Dạ vào lúc ba giờ bốn lăm phút ngày..-. tháng.-.. năm Chúngbêu xác anh tại đấy suốt ba ngày ba đêm khi đã gần thối rữa mới đemchôn.

11

Lượm và Tư-dát về đến trạm liên lạc khi mặt trời đã xế bóng. Trạm đóng trong nhà một cán bộ Việt Minh xã ở sâu cuối ngõ xóm.

ổ trạm lúc này chỉ có Hiền và Bồng. Châu đi liên lạc lên chiến khu từchiều hôm kia chưa về. Công việc của tổ liên lạc khá vất vả. Chỉ có bađứa mà phải lên về chiến khu xoành xoạch. Ðường từ Sịa lên chiến khuphải băng qua nhiều trảng cát, vượt đường quốc lộ Một lội qua mấy consông, len lỏi qua nhiều xóm ấp nằm sát bên vị trí địch, đi hàng mấy giờliền dọc những sườn đồi đá sỏi, gốc cỏ tranh mọc lởm chởm nhọn sắc nhưgai..

lúc lên về chiến khu, ba đứa phải cải trang làm trẻ chăn trâuđi tìm trâu lạc. Ðó là hình thức cải trang thuận tiện, che mắt giặc tốthơn cả.

Ðầu đội nón mê (tài liệu thường cài trong lá nón), tay cầmroi, áo quần cộc rách vá tứ tung, bùn lấm từ đầu đến chân; dọc đường, hễ gặp người lớn có khi là tề dõng. Bảo vệ quân, là chúng lại mếu máo hỏi: “Anh ơi chú ơi, hoặc ông ơi, có thấy con trâu Ô sừng quặp của tui chạylạc qua đây không?” Bồng mắc bệnh gì ngoài da không biết, cứ đến mùađông da nổi vẩy lên như vẩy rắn, cả đội gọi nó là Bồng-da-rắn. Nó khôngchịu, bảo vẩy nó giống vẩy trăn hơn. Nhưng cả đội không đứa nào chịu cải tên cho nó là Bồng-da-trăn, cứ gọi Bồng-da-rắn. Nó ức lắm, mấy lần sinh sự đánh nhau.

Bồng-da-rắn trước khi vào Vệ Quốc đoàn làm đủ nghề, bán đậu phụng rang, bắp rang, “bánh mì nóng mới ra lò”, “Cà-rem” v.v...

Châu có một vết rám ở má bên trái, như bị lửa cháy sém, các bạn gọiChâu-sém. Châu-sém là con nhà thuyền chài trên sông Hương. Châu-sém trạc tuổi Hiền, nhưng khỏe gấp hai gấp ba. Người nó đen trùi trũi, tay chânđã có bắp thịt săn chắc như thừng neo thuyền.

Bồng-da-rắn và Châu-sém cải trang làm trẻ chăn trâu thì không còn phải bàn. Như lột. Riêng Hiền trắng trẻo, xinh trai, dáng dấp đặc biệt học trò thành phố, đóng giảchăn trâu dễ lộ lắm. Nhưng nó vốn là đứa cứng đầu cứng cổ, không dễ gìchịu hàng trước khó khăn. Công việc càng khó khăn càng say mê hấp dẫnnó. Nhận lấy những việc thật khó, ít ai làm nổi, rồi làm tròn một cáchxuất sắc, đó là điều nó luôn luôn mơ tưởng. Ngược lại; những việc dễdàng làm cho nó buồn chán bỏ dở.

Khi mới bắt tay vào việc đi liên lạc lên chiến khu, Bồng-da-rắn, Châu-sém đều tỏ ý lo lắng, không tin tưởngHiền có thể đóng giả trẻ giữ trâu. Chúng nói:

”Nước da mi trắng nhưbột lọc, bàn tay bàn chân sạch bong như tay chân mấy o nữ sinh ÐồngKhánh rứa mà mi đòi giả đò đứa đi giữ trâu, thì tụi Tây, tụi Bảo Vệ Quân có mù cũng biết là giả đò! Hay thôi mi ở nhà giữ nhà đề hai đứa tau đicũng đủ.“.Hiền cười:

C- ảm ơn lòng tốt của tụi bay. Nếu ở nhà giữ nhà thì tao ở quách nhà tao, việc chi phải lặn lội đi Vệ Quốc Ðoàn làm chi cho mệt?

Và cũng từ hôm đó, nó cởi trần, mặc quần đùi chạy ngoài đồng cát dang nắng ngày này qua ngày khác-Chỉ mấy ngày mà tóc tai, da thịt nó khét lẹt mùi nắng- Nó để đầu tóc bù xù, tóc phủ gáy. trố như tổ quạ.Vốn là đứa sạchsẽ nhất đội, nhưng bây giờ nó tập ăn ở nhớp còn hơn cả Bồng-da-rắn làđứa nồi tiếng ở nhớp. Tay chân nó chỉ rửa qua quýt, móng tay móng chânghét dắt đen kịt. Tối đi ngủ, nó học Châu-sém, Bồng-da-rắn rửa chân khô: Ngồi lên chõng, xoa xoa hai bàn chân vào nhau, vỗ đánh bép một cái, thế là xong. Ðêm đầu tiên ngủ theo lối “rửa chân khô”, nó trằn trọc hoàikhông sao ngù được. Cái cảm giác gai gai, sạn sạn, nhớp nhúa ở hai bànchân như ngấm khắp cơ thể nó, làm nó mất ngủ- Nó đổi bộ áo quần đẹp nhất của nó lấy bộ áo quần vá chằng vá đụp, hôi rinh rích của một thằng béchăn trâu trong xóm- Lúc mặc bộ áo quần này vào người da thịt nó nổi hết gai ốc. Những hôm không phải đi liên lạc, nó ra bãi thả trâu, đánh bạnvới bọn giữ trâu. Nó học cách gọi trâu lạc, nghé lạc: “Nghé ơi, nghéơi!“..- Nó cỡi những con trâu đang nhởn nhơ gặm cỏ, nằm ép bụng lên lưng trâu để quần áo, da thịt nó ướp mùi trâu.

Chỉ sau chưa đầy một tháng, Tư-dát gặp lại nó, suýt nữa không nhận ra- Tư-dát há miệng trợn mắt kêu lên:

- Ui chao! Mi đó à Hiền?

Vẻ sửng sốt, ngạc nhiên của Tư-dát làm Hiền thích thú hãnh diện ra mặt.Thích thú và hãnh diện không kém gì những người vốn nghèo khổ, rách rưới nay trở nên giàu có, trưng diện làm bạn cũ suýt không nhận ra.

Trong ba đứa, nó đi bộ yếu nhất. Hồi còn ở nhà chân nó mấy khi rời khỏi đượcdép. Gót chân đỏ ong không có một vết nứt, một tí chai. Buổi đầu đi liên lạc lên chiến khu trở về, hai bàn chân nó sưng húp, gót chân nứt nẻ,rườm máu. Bồng-da rắn, Châu-sém thương nó quá. Hai đứa xúm lại chăm sóc. đứa nấu nước nóng, đứa đi mượn chậu hòa muối cho nó ngâm chân. Hai đứanhìn gan bàn chân nó, xót xa nói:

- úi chao, mi đi thêm vài lần nữa e què mất! Thôi để hai đứa tao đi thay cho.

Thằng Hiền lắc lắc cái đầu tóc bù rối như tổ qua nói giọng ông cụ non:

Hai đưa mi có đi thay lau cũng chỉ thay được năm bảy lần, chứ có thay được hết cả đời tau không?

- Rứa mi định đi liên lạc hết cả đời mi à?

- Ư, tau nghĩ kỹ rồi, tau phải rèn luyện cặp giò để làm chiến sĩ cách mạng như ông Minh-trâu mà thằng Lượm vẫn kể cho tau nghe.

- ông Minh-trâu là ông mô rứa?

- ông là đồng chí cách mạng với cha cậu Lượm. ông tên Minh nhưng dángngười cục mịch đen đúa như cụ trâu, nên các đồng chí ông đặt biệt hiệuMinh-trâu. Hai đứa mi chưa biết chứ thằng Lượm là con nhà cách mạng nòiđó. Cha hắn làm chiến sĩ cách mạng từ thời tụi mình chưa đẻ, bị Tây bắtrồi vượt ngục mấy lần- Tụi mật thám Tây bắn chết cha hắn ở nhà tù Cônsơn lúc hắn mới có hai tuổi. ông Minh-trâu làm chủ nhiệm Việt Minh huyện Hương Thủy. Hồi cách mạng tháng Tám, ông chỉ huy cả huyện nổi dậy cướpchính quyền.

Ngày còn hoạt động bí mật, ông chuyên việc đi liên lạccho Ðảng Cộng sản- Mà có phải đi liên lạc kiểu ấm ớ như mấy đứa mình từđây lên chiến khu, từ chiến khu về đây mô? ông đi phải đi từ Huế vô đếnCông Tum Ðắc Lắc, rồi ra tới Nghệ An, Thanh Hóa.

- Nhưng chắc ông ta đi mô, tàu hỏa?

- Ði tàu hỏa Ô tô, thì nói làm chi! ông toàn đi bộ, xuyên rừng mà đi!Mang toàn công văn tài liệu của Ðảng Cộng sản mà đi tàu hỏa, Ô tô, đểmật thám tóm cho rồi đời à!

Châu-sém, Bồng-da-rắn lè lười khiếp phục.

Thằng Lượm kể chi ngó hai bàn chân ông cũng đủ biết ông đã đi bộ mấy nghìnmấy vạn cây số. Bàn chân to mà vuông như lưỡi cuốc tượng, Gan bàn chândày cộm toàn chai, gót chân nứt nẻ như củ sắn bở luộc quá chín. Ði vấpphải mảnh lu, mảnh ghè, kêu cái cong!

Làm chủ nhiệm Việt Minh huyện mà ông vẫn cứ đi đất, chẳng có thứ giày dép mô vừa chân ông ta cả...

Hiền nhúng hai bàn chân sưng húp, rát bỏng vào chậu nước muối nóng, mắt đămđăm nhìn ra trảng cát chói nắng. Nó nói, giọng nghiêm trang như muốn thổ lộ một niềm tâm sự thầm kín, một nỗi áo ước nung nấu từ lâu:

- Saunày lớn lên, nếu tau cũng được vào đảng Cộng sản, đảng có hỏi tau: “Ðồng chí Hiền muốn nhận công tác chi?“. Tau sẽ xin với đảng: “Cho tui đượcđi liên lạc cho Ðảng như ông Minh-trâu“.

- Rứa mi không đi làm xiếc nữa à? - Bồng-da-rắn thật thà hỏi?

- xiếc xót chi! Tại hồi đó còn con nít nên tao hay thích loăng quăng.

Nó làm như bây giờ nó đã người lớn lắm, và cái hồi còn thích đi làm xiếc ấy đã cách đây hàng bao nhiêu năm.

Châu-sém và Bồng-da-rắn cũng lây niềm mơ ước sôi nổi của nó. Hai đứa cùng nói:

- Lớn lên tau cũng sẽ xin vô Ðảng Cộng sản như mi.

- Có được không mi hè? VÔ Ðảng Cộng sản là phải tài giỏi lắm, chứ mấy đứa liên lạc ấm ớ như tụi mình thì ai cho vô. - Châu-sém nói.

- Ðể hômmô gặp anh Ðồng-râu tụi mình hỏi thử coi- Giọng Hiền lộ vẻ băn khoăn. -Tau nghe lỏm mấy anh trên ban Tham mưu trung đoàn nói anh đồng-râu làÐảng viên Cộng sản từ thời còn bí mật.

Bồng-da-rắn nói:

- ThằngVịnh-sưa mà còn sống nhất định hắn phải được vô đảng Cộng sản- Hồi ở mặt trận Xê, tao hay nghe các anh lớn bàn nhau: Vô đảng Cộng sản trước hếtlà phải anh dũng. Cách mạng cần việc chi, làm việc đó Chết cũng khôngsợ. - Nó bỗng la lên, hết sức bất ngờ:

- Có hai con gà trống nhà ai đang đá nhau ngoài ngõ ghê quá bây ơi Ta ra coi đi!

Thế là cả ba đứa chạy ùa ra ngõ, xúm quanh đôi gà trống nhà ai đang cơn say máu chọi nhau, cánh đập phành phành, bụi đất, lông, bay mù. Mỗi cú đáhay, ba đứa đều nhảy dựng lên, cười reo, hoan hô, cổ vũ.

12

Lượm và tư-dát sửa soạn lên đường trở lại Huế thì châu-sém từ chiến khu về, tay xách ba đòn bánh tét khá to. Nó reo lên mừng rỡ:

- Hay quá? May tau về vừa kịp không thì ba đòn bánh tét ni để mấy hôm chờ mi, thiu mất.

Lượm hỏi:

- Bánh chi đó?

- Giết giặc!

Lượm hiểu ngay trong ruột bánh là báo “Giết giặc”, tờ báo kháng chiến của tỉnh Thừa Thiên.

Ngoài ba đòn “Giết giặc còn bốn đòn “truyền đơn đưa về Sịa từ hai hôm trước. Hai đứa phải mang cả bảy đòn này đưa về Huế.

Tư-dát cười hề hề:

- Mấy ông Tham mưu trung đoàn mất lập trường quá. Vệ Quốc đoàn mình thìđói vàng mắt lại cứ gửi bánh tét hết đòn to, đòn nhỏ cho Tây với Việtgian ăn!

Hiền hỏi:

- Truyền đơn rải còn dễ chứ báo Giết giặc thì tụi bay làm răng?

Lượm nói:

- Lúc đầu tụi tau cũng lúng túng lắm, không biết làm cách chi để đồng bào đọc được- Nếu đem rải như truyền đơn thì tờ báo to rứa, ai dám lượm?Sau anh Tư-dát nhà mình, - nó đưa mắt nhìn Tư-dát cười, - nghĩ được mộtmẹo- Mua báo Bình minh của tụi Việt gian, khổ cũng vừa in tờ Giết giặc,cắt lấy đầu đề báo, dán thay vô đầu đề báo Giết giặc. Rứa là mũ thì Bình minh mà đầu thì Giết giặc. Ba đứa tau cứ việc chia nhau báo, đem đi đón công khai giữa ban ngày, dán đúng vô những chỗ tụi hắn thường dán báo-Ðồng bào xúm xít tha hồ đọc.

Hiền, Châu-sém, Bồng-da-rắn ôm lấy Tư-dát vật xuống đất, cù cho một trận.

- Trời ơi, mi khôn thiệt! Mi cũng là loại cách mạng nòi.

Tư-dát lăn lộn dưới đất cười chảy cả nước mắt đứt dây lưng quần thì ê chề lắm!

Lượm hỏi Châu-sém:

- Tình hình chiến khu dạo ni ra răng? Ðội mình còn ở trên đó hay về đồng bằng hoạt động?

- à, tau quên chưa nói cho tụi bay biết. Tụi tây vừa kéo lên đóng đồn ởÐất đỏ, cách chiến khu chỉ non bốn cây số Nghe nói tụi Tây đóng đồn nitoàn là quân thiện chiến nhất nhì Ðông Dương- Tụi hắn muốn chặn ngang cổ họng chiến khu, không cho đồng bằng tiếp tế lên.

Nhìn thấy vẻ mặt lo lắng bồn chồn của các bạn, nó nói thêm như an ủi. - Nhưng ăn thua chi!Chặn đường đó ta đi đường khác. Chán vạn chỉ đường! Chừ nhà cửa chiếnkhu mọc lên nhiều lắm. Có cả bệnh viện, xưởng bào chế, xưởng quân giới,nhà Văn hóa đại chúng to rộng như cái đình. Còn đội mình không ở trongnúi xanh nữa mà ra làm lán ngoài tiền chiến khu, ngay trên bờ sông ÔLâu.

Các tổ được phân công về đồng bằng hết. Tổ bám đường quốc lộtheo dõi xe cộ giặc đi lại hàng ngày, tổ bám vị trí giặc nắm tình hìnhtin tức càn quét, hành quân.

Công việc tụi hắn cũng vất vả gớm lắmbay ạ. Cả đội chỉ còn lại thằng Mừng với thằng Quỳnh-sơn-ca ở nhà làmliên lạc cho đội trưởng. Hai đứa nhỏ mà đau luôn, nên đội trưởng bắtphải ở nhà. Tụi hắn khóc đã gớm. Ðội trưởng phải mua chè sắn dỗ mãi mớichịu nín. Thằng Mừng dạo ni chăm học lắm. Mấy lần lên chiến khu, tau đều gặp hắn ngồi trước cửa lán, cầm tờ báo Giết giặc, đánh vần đọc ê a. Lần vừa rồi lên, tao thấy hắn đang cởi trần phơi nắng, giăng áo ra bắt rận. Tau ngứa miệng nói chơi. “Mi đọc báo Giết giặc đó à? Có tin chi haykhông?” Hắn cau mặt, xạc tau luôn: “Anh ăn nói ba láp quá! Ai lại đi vícái áo rách đầy rận ni với tờ báo của Chiến khu giết giặc. Ui chao,giọng hắn răng mà giống đúc giọng thằng Vịnh-sưa hồi ở Huế. ThằngQuỳnh-sơn-ca mới làm được bài hát “Sông Ô Lâu kháng chiến”, hay lắm. Cảchiến khu ai cũng hát- Trung đoàn trưởng, chính ủy đều khen hay- Trungđoàn trưởng có viết thư gửi anh Dồng-râu đây, dặn anh mua cái đàn,,măng tre” “măng lồ-ô” chi đó, lần sau tụi bay mang ra đây để tao xách lêncho ông, ông thưởng cho hắn.

Châu-sém moi trong cán cái roi trâu ramột mảnh giấy cuộn tròn đưa cho Lượm- Tư-dát cầm đọc thư của Trung đoàntrưởng gửi anh Ðồng-râu, dặn anh tìm mua một cái đàn măng-đô-lin loạithật tốt, để thưởng cho em Quỳnh-sơn-ca đã có công sáng tác được một bài hát hay về dòng sông Ô Lâu, dòng sông của chiến khu cách mạng.

Tư-dát cười ngặt nghẹo:

- Ðàn măng-đô-lin mà mi nhớ ra thành đàn măng tre, măng lồ-ô, thì đến Bụt trên chùa cũng không nhịn được cười!

Châu-sém, cũng cười:

- Thì ai biết mô, cứ nghe nói măng là tao nghĩ là măng tre, măng lồ-ô,chứ cái măng-đô-lin thì cha ai mà nhớ được. ổng thử dặn tau mua cá coi.Có giống cá trời tau cũng nhớ!

13

Sắp đến gần cầu ván Mậu tài, Lượm nói với Tư-dát:

- Mi đưa bánh tét đây tao xách cho. Mi đi trước chừng trăm bước, giả đòbắn ná. Thấy có chi động dạng thì giương ná lên như sắp bắn, ra hiệu cho tao biết.

Tư-dát trao bảy đòn bánh tét cho Lượm, rút ná cao su trong túi ra, lắp đạn, đi vượt lên trước.

Bước lên cầu ván, Tư-dát lại gặp thằng Tặng ngồi vắt vẻo bên mép cầu câu cá.

Lúc sáng qua đây, hai đứa đã gặp nó ngồi ở đó rồi.

Lượm giới thiệu Tặng với Tư-dát. Hôm trước nó đã kể chuyện cho cả tổ nghetrường hợp oái oăm nó làm quen với thằng Tặng. Bây chừ được gặp mặt,Tư-dát thích lắm, cười nói:

- Không khéo mi rồi thành ông Lã Vọng mất.

Lã Vọng là việc chi không biết, chỉ biết là mới sáng hôm qua, thu tóm được một thằng Vê-giê đi qua đây Vê-giê chính cống chứ không phải loạiVê-giê ấm ớ như thằng ni mô. - Tặng cười khì khì chỉ vào Lượm.

Lượm sờ cằm:

- Ðúng là đánh nhau bể đầu mới nhận ra anh em chú bác. Cằm tau vẫn còn hơi ê ê.

- Rứa cho hai đứa bay đứng chờ đây, tau chạy về nhà chặt cây mía đến ănlà hết ê ê ngay. Nó định đứng lên chạy về nhà chặt mía, nhưng Lượm nói:

- Thôi Tặng ạ, để khi khác. Lần này hai đứa mình có việc vội lắm, phải đi ngay cho kịp.

Tặng nhìn hai đứa, vẻ ái ngại:

- Cuộc đời vê cu-đê coi bộ cũng tất tả gớm hè!

Tư-dát vừa cười vừa ngâm nga:

”Ðời cách mạng từ đây tui đã hiểu. Dấn thân vô là phải chịu tù đày- Là gươmkề tận cổ súng kề tai “ Mi chưa nghe nói đó à? - Nó bỗng nhìn xuống nước kêu ầm lên: Giật! Giật! Phao chìm rồi! - Nó chộp lấy cần câu trong tayTặng, giật phắt một cái thật mạnh làm lưỡi câu dính con cá rô văng ngược lên cành si và mắc luôn trên đó. Con cá bị treo mỏ giẫy giụa như điên,làm chỉ câu càng quấn chặt thêm vào cành si.

Tư-dát xắm nắm định trèo lên gở. Tặng nói:

- Ðể đó tau gở cho. Hai đứa bay cứ đi đi cho kịp công việc. Này! cái đờicách mạng chi mi vừa đọc đó, mi viết giúp cho tau vô tờ giấy, tao đánhvần đọc chơi nghe!

Ðó là thơ, - Tư-dát nhìn Tặng ngạc nhiên, - mi cũng thích thơ à? Bài đó dài lắm, để tau chép hết cả bài cho mi, tha hồ đọc.

- Nì, có viết nhớ viết rõ rõ mà chữ to vô nghe. Ðây mới học bình dân, chữ thảo mà ngoằn ngoèo như chỉ câu rối là đây xin hàng đó nghe!

Nghe nó nói, tự nhiên Tư-dát thấy gương mặt Tặng trở lên sáng sủa, thông minh và dễ thương quá chừng.

Bây giờ trở về, nhìn thấy Tặng ngồi câu, Tư-dát mới chợt nhớ là quên chưa chép thơ cho nó. Tư-dát cảm thấy ngượng ngùng, xấu hổ.

Bên cạnh chỗ ngồi. Tặng để sẵn hai đẵn mía tím, gióng rất dài, chặt rất đều như đo mà chặt. Hai đẵn mía để dằn lên một tờ giấy trắng khổ rộng, cókẻ dòng.

Tư-dát hỏi:

- Ðược mấy con rồi?

- Một trê, một diếc. - Tặng cầm một đẫn mía đưa cho Tư-dát. - Phần của mi. Còn đây là tờ giấy để mi viết thơ đời cách mạng.

Tư-dát xua tay:

- Thôi, thôi, giấy thì ở Huế thiếu chi. Mi để đó mà học. Lần sau đi quađây tau nhất định sẽ mang thơ cho mi. Tau sẽ chép đẹp như chữ in, khôngcần biết chữ cũng đọc được? Thằng Lượm đang đi sau kia- Chừ tao phải đicái đã... Tau làm nhiệm vụ xích hầu. Tư-dát vừa xướt mía ăn vừa vượtnhanh qua cầu để giữ đúng cự ly một trăm bước.

Lượm bước lên cầu. Tặng đứng lên, đưa mía cho Lượm.

- Cây mía ni tau chặt đúng cái bụi cây lần trước đó.

Ngọt hết chê!

Tặng chợt nhìn trật xuống xách bánh tét trong tay Lượm bằng cặp mắt ranh mãnh.

- Bánh tét mua à?

- Không- Của bà cụ quen ở Sịa gửi cho con gái bán hàng nước ở Cầu Ðông Ba cũ.

Tặng cười tủm tỉm:

- Bà cụ cậu quen chắc là hay lừa đảo ghê lắm Bánh gửi cho con gái ngó bộ thì to, mà xách thì nhẹ bỗng.

Chắc bên trong, bà chỉ độn toàn giấy nhật trình.

Nhận xét của Tặng làm Lượm giật bắn người. Ðó là một sơ xuất mà nó và tổliên lạc không nghĩ ra. Những đòn bánh tét này xách quá nhẹ.

Nó nói,giọng khâm phục: - Cậu mà làm Việt Minh thì chết cha Việt gian! Cậu màlàm Việt gian thì chết tổ Việt Minh? Nhưng cho biết làm răng hè? Khôngthể mở ra mà chêm thêm đá vô cho nặng được... Mà cứ xách kiểu ni về đếnHuế, lỡ gặp phải tụi kiểm soát cũng khôn như cậu thì rồi đời.

Tặng nghênh nghênh cái đầu húi “cua” gần như trọc, cái trán nhăn, vẻ nghĩ ngợi:

- ừ gay thiệt! Mở ra thì lôi thôi lắm. Chỉ còn một cách lả phải giả đò xách nặng...

Tặng cầm lấy xâu bánh tét trong tay Lượm, đi thử qua cầu. Một vai nó lệch về một bên, bàn chân phía tay xách dẫm lên ván cầu vẻ nặng hơn hẳn bànchần kia.

Lượm nhìn theo càng thêm cảm phục: “Trời ơi, điệu bộ nó mới tuyệt chứ! Nhìn đúng như nó đang xách xâu bánh tét thật, nặng hàng bảytám kí lô”! Tặng vòng lại đưa xâu bánh tét cho Lượm:

- Cậu đi đi, không thì về đến Huế tối mất!

Xách xâu bánh tét, qua khỏi cầu được một đoạn.

Lượm quay đầu lại. Tặng đang đứng giữa cầu nhìn theo cười ranh mãnh, đầu gật gật như có ý bảo- “Ðược đó, Ðược đó” đi như rứa được đó! Cứ rứa mà đinghe?”.

14

Nguyễn Trì đội mũ phớt, đeo kính rậm, mặc bộ áo quầnga-bạc-đin màu tro, ngồi vắt chéo chân trong tiệm cà phê nhỏ mới mở,cách cầu Bao Vinh chừng ba trăm thước. Hai tên nhân viên di động đứng ởbên kia đường.

Mỗi đứa dựa lưng vào một gốc cây, cách nhau vài trăm thước, vẻ như người đi đường dừng lại nghỉ chân.

Ba tên chó săn rình phục ở đây từ lúc một giờ ba mươi phút chiều. Coi bộ cả ba bồn chồn nóng ruột lắm.

Nguyễn Trì ngồi khuất sau tấm rèm cửa sổ nhìn ra đường, một tay lần lần trênmá nặn trứng cá, mắt hết nhìn phía cầu Bao Vinh lại nhìn đồng hồ đeotay. Hắn đã gọi đến cốc cà phê thứ ba, đốt hết điếu thuốc lá này đếnđiếu khác.

Theo lời khai của thằng Kim thì tên Lượm thường đi liênlạc về Sịa vào lúc mười giờ sáng và trở lại Huế khoảng ba bốn giờ chiều. Sao đến bây giờ đã gần bốn rưỡi, vẫn chưa thấy bóng hắn mò về? Hay nóvề rồi nhưng bằng con đường khác? hay chiều nay nó không về? Mỗi lúc hắn càng thêm tức tối nóng ruột. “ông nội mi! - Hắn gầm gừ chửi thầm, - tau mà tóm được, trước tiên tau phải cho mi rụng hàm răng cửa?” Bàn' tayhắn đang đặt trên đùi siết lại thành nắm đấm. Cánh tay giật giật như lên cơn động kinh- Hắn khoái trá tưởng tượng đến cái phút được giáng cậtlực nắm đấm vào miệng cái thằng đã từng làm cho hắn phải vô cải hối thất hồi ở Trung đoàn bộ..- Tự nhiên hắn nhếch mép cười gằn, làm o bán hàngcà phê liếc nhìn hắn, lo lắng, ngơ ngác.

Toàn bộ con người hắn, từdiện mạo đến cử chỉ toát ra cái vẻ hung hãn, liều lĩnh của kẻ phản bội,quyết bán mình cho giặc, vì tiền bạc và cả vì thù hận.

Ngày Huế vỡmặt trận, hắn theo đơn vị chạy ra đến Hiền Sĩ thì bỏ trốn. Hắn quanhquẩn trong vùng này cho đến ngày bọn Pháp tràn đến. Hắn ra hàng giặc vàtâng công bằng cách chỉ cho chúng bắt và bắn chết ba chiến sĩ bị thươngkhông rút kịp, sống trà trộn trong dân- Hắn lại chỉ cho giặc đào đượchai khẩu đại liên- hốt kít của đại đội liên pháo chôn giấu, mà do một sự tình cờ hắn biết được. Bọn giặc đưa hắn về Huế và cho làm trưởng ban Di động Ty An Ninh.

Thật ra, trong nghề mật thám, hắn chẳng có tài bagì, chỉ là loại lính mới tò te. Nhưng được cái hắn rất táo tợn, liềulĩnh và hay gặp vận may- Như việc bất ngờ gặp chú em nuôi sáng nay chẳng hạn.

Sau vụ quân ta đột kích đồn Hộ Thành và rải truyền đơn, dán báo Giết giặc, bọn Pháp hết sức lo lắng và tức giận- Vì ảnh hưởng của vụnày trong dân chúng quá lớn. Ba tổ chức mật thám của Pháp và ngụy quyền.

Phòng Nhì, sở Mật thám Liên bang và Ty An Ninh dưới sự chỉ huy chung của tênquan ba mặt thám Sô-lê, đã huy động gần hết lực lượng tác chiến để điềutra manh mối. Quan ba Sô-lê còn treo giải thưởng ba ngàn đồng Ðông Dương cho nhân viên nào phát hiện và bắt được những kẻ có liên quan trong vụnày.

Nhờ gặp chú em nuôi mà món tiền thưởng đó.

Nguyễn Trì coi như đã cầm chắc trong tay.

sau khi cùng với đội hành động bắn chết anh đồng-râu ở Vĩ Dạ. Nguyễn Trìdẫn hai nhân viên di động về phục ở đầu cầu Bao Vinh để đón bắt Lượmtrên đường từ Sịa về Huế. Hắn rất hy vọng sau vụ này, sẽ được bọn Phápcất nhắc lên chức phó ty An ninh.

Chính trong cái phút hắn đang mơ màng danh vọng đó, thì Tư-dát đi ngang qua trước quán cà phê mà hắn không để ý!

Trước hết, hắn không biết mặt Tư-dát. Và cũng theo lời khai của thằng Kim thì Tư-dát thường ở nhà với đồng-râu, Lượm chỉ đi liên lạc 1 mình về Sịalúc vây bắt Ðồng râu không tìm thấy Tư-dát. Hắn đoán thằng Tư-dát đượcsai đi đâu đó nên đã may mắn trốn thoát.

Sổng mất, Tư-dát, hắn có ý tiếc, nhưng tự an ủi: “Bắt được thằng Lượm, là coi như bắt được tất cả“.

Theo lời khai của Kim-điệu, trong ba đứa- Lượm được đồng-râu tin cẩn nhất.Nó tuy nhỏ nhưng là dân “cách mạng nòi“. Cha nó làm cộng sản bị Tây bắnchết từ khi nó mới lên hai tuổi. Sau ngày Cách mạng tháng Tám, tên chanó được dân làng đặt tên cho con đường chính chạy qua làng. Nó đượcđồng-râu giao riêng việc liên lạc với chiến khu. Nhiều việc bí mật,Ðồng-râu chỉ cho một mình nó biết. Bao nhiêu truyền đơn, báo Giết giặc,đều do một tay nó đưa về Huế- Trận đánh đồn Hộ Thành đêm qua nó cũngđược Ðồng-râu cho biết trước và có thể chính nó đã dẫn đường cho Vệ Quốc đòan lọt vào thành nội. Việt Minh đột nhập nội thành bằng đường nào, và bằng cách nào? Rút ra đường nào? đã rút ra hay còn lẩn quất trong thành nội? Chắc là nó biết rõ.

Sáng nay, trong phòng tra tấn của Ty AnNinh, thằng Kim chỉ mới nếm sơ mấy quả đấm của Năm-ngựa, đã phun rakhông thiếu một điều gì. để nhẹ bớt tội bao nhiêu việc lớn nhỏ, có nhiều việc nó bịa đặt thêm thắt, trút hết lên đầu Lượm.

Bởi vậy, cả ty Anninh và Sở Mật thám Phòng Nhì Pháp hết sức quan tâm đến việc phục bắtLượm. “Trần Lượm, một tên tình báo Việt Minh hết sức lợi hại và nguyhiểm. Nếu bắt được hắn, sẽ khám phá ra nhiều tổ chức hoạt động bí mậtcủa Việt Minh trong thành phố Huế” Viên chủ sự Ty An ninh đã điện choquan ba mặt thám Sô-lê như vậy.