Truy Tìm Bức Tranh Thánh

Chương 16



Adam nằm sấp trên đáy chiếc xà lan rỗng, đầu tựa về một bên. Anh luôn cảnh giác lắng nghe từng tiếng động lạ nhỏ nhất.

Người lái xà lan đứng sau tay lái đếm đủ ba trăm francs Thụy Sĩ đến lần thứ hai. Số tiền đó nhiều hơn số anh ta hy vọng kiếm được trong một tháng. Một người phụ nữ nhón chân vui sướng nhìn những tờ ngân phiếu qua vai anh ta.

Chiếc sà lan chạy xuôi dòng kênh với tốc độ đều đặn và Adam không thể nhìn thấy chiếc máy bay gãy vụn nữa.

Đột nhiên từ tít xa anh linh cảm thấy như vang lên một tiếng động giống tiếng súng nổ. Thậm chí trong khi anh căng tai lắng nghe người phụ nữ cũng chúi xuống như một con chuột đang sợ hãi. Chiếc xà lan vẫn chậm rãi rẽ nước trong đêm, Adam lo âu lắng nghe xem có thấy một âm thanh không bình thường nào không. Nhưng anh chỉ nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ vào thành tàu. Đám mây lớn đã tan, vầng trăng tròn vành vạnh lại tỏa ra sáng ngời ngời trên cả dòng sông. Nhìn hai bên bờ, Adam dễ dàng nhận thấy là chiếc xà làn không đi nhanh lắm. Thậm chí anh còn có thể chạy nhanh hơn thế này. Nhưng dầu cho chuyến đi này ngốn nốt số tiền còn lại anh vẫn sung sướng vì có thể thoát được. Adam lại nằm bẹp xuống và cuộn tròn dưới mũi thuyền. Anh sờ vào bức tranh Thánh, kể từ lúc phát hiện ra bí mật giấu bên trong bức tranh, cứ mỗi phút anh lại làm như vậy. Suốt nửa giờ liền anh không hề động đậy, tuy nhiên vẫn biết rằng chiếc xà làn khó mà đi xa hơn được năm dặm.

Mặc dầu mọi thứ xung quanh hiện ra thật huyền ảo Adam vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Lúc này con sông đã mở rộng ra hơn nhiều.

Người lái xà lan luôn để mắt đến anh. Ông ta đứng, tay nắm chặt tay lái. Khuôn mặt lấm lem dầu mỡ không sạch hơn chiếc áo lao động trên người là mấy - dường như những vết dầu mỡ sẽ chẳng bao giờ sạch nổi. Thỉnh thoảng ông ta cũng rời tay khỏi tay lái nhưng chỉ để lấy chiếc tẩu ra khỏi miệng, ho, khạc, nhổ rồi lại ngậm lại cái tẩu.

Ông mỉm cười buông cả hai tay ra khỏi tay lái và ôm lấy hai bên đầu ra hiệu Adam nên ngủ đi. Nhưng Adam lắc đầu, nhìn đồng hồ. Đã quá nửa đêm và anh muốn rời khỏi chiếc xà lan trước khi trời sáng.

Anh đứng dậy, vươn vai và hơi loạng choạng. Vai đã đỡ hơn nhiều, mặc dầu vậy vẫn luôn đau nhói. Anh bước đến giữa xà lan và đứng cạnh tay lái chỉ xuống nước hỏi:

-La Seine? Sông Xen à?

Người lái tàu lắc đầu lầu bầu:

-Không. Kênh Bourgone.

Adam lại chỉ về phía trước:

-Quelle ville? Thành phố nào đấy?

Người lái tàu bỏ cái tẩu thuốc ra nói:

-Ville? Ce nest pas une ville. Cest Sombernom. Đấy không phải là thành phố, đấy là Sombernom.

Nói rồi ông ta lại nhét chiếc tẩu vào giữa hai hàm răng.

Adam quay lại chỗ của mình ở mũi tàu, loay hoay cố tìm một tư thế dễ chịu để có thể nghỉ ngơi một lát. Cuối cùng anh dựa mình vào mạn tàu, gục đầu lên một cuộn chão cũ và cho phép mình nhắm mắt.

Sir Morris nói:

-Anh biết Scott rõ hơn tất cả chúng tôi, vậy mà anh không hề cảm thấy anh ta đang ở đâu hoặc sắp tới đây sẽ làm gì,đúng không?

Lawrence thừa nhận:

-Đúng vậy, thưa ngài. Điều duy nhất chúng ta biết chắc chắn là anh ta có hẹn đến kiểm tra sức khỏe vào chiều thứ hai này, nhưng có điều tôi nghĩ là anh ta sẽ không thể có mặt được.

Sir Morris bỏ qua câu nói của Lawrence, ông ta nói tiếp:

-Nhưng một ai đó đã có thể tiến gần được đến Scott thậm chí mặc dầu chúng ta đã không họp nhóm D4. Bức tranh Thánh đó nhất định chưa một bí mật mà chúng ta đã không đánh giá được tầm quan trọng.

Lawrence nói:

-Nếu như Scott còn sống thì bây giờ sẽ không có gì có thể thuyết phục được anh ta là chúng ta không có lỗi trong chuyện này.

Sir Morris nói:

-Vậy nếu không phải là chúng ta thì ai là kẻ có lỗi? Bởi vì một kẻ nào đó đã vô cùng liều lĩnh để tìm hiểu những hành động tiếp theo của chúng ta như vậy có nghĩa là chúng đã vô cùng mạo hiểm trong suốt hai mươi tư giờ vừa rồi. Dĩ nhiên ngoại trừ đó là chính anh.

Viên Thư kí thường trực đứng lên và quay lại nhìn qua cửa sổ về phía đường Kỵ binh.

Lawrence không rời mắt khỏi bức chân dung Nữ hoàng đặt trên góc bàn viết, nói:

-Ngay cả nếu kẻ đó là tôi đi chăng nữa thì cũng không giải thích được tại sao người Mỹ cũng đến đó.

Sir Morris nói:

-Ồ,điều đó thì đơn giản thôi. Bucsh đã báo cáo thẳng cho bọn Mỹ. Tôi hoàn toàn tin chắc là ông ta sẽ làm như vậy kể từ khi ông ta mới bắt đầu tham gia vào nhóm chúng ta. Chỉ có điều tôi không lường được là người Mỹ sẽ tiến sâu đến đâu mà không thông báo cho chúng ta.

Lawrence nói:

-Vậy chính là ngài đã nói với Bucsh?

Sir Morris nói:

-Không. Anh chẳng chịu rời cái bàn giấy này ra mà cứ đoán mò mẫm. Tôi báo cáo với Thủ Tướng, mà các nhà chính trị thì luôn dễ dàng trao các thông tin cho người khác nếu họ cân nhắc thấy điều đó sẽ làm họ thắng một điểm. Công bằng mà nói tôi biết rõ Thủ tướng sẽ nói với Tổng thống Mỹ. Nếu không thì tôi đã không báo cáo với ông ta. Điều quan trọng hơn là anh có nghĩ Scott có còn sống không?

Lawrence nói:

-Còn, tôi nghĩ vậy. Tôi có đầy đủ lý do để tin rằng người đã băng qua bãi bê tông để đến chỗ chiếc máy bay đang chờ của chúng ta chính là Adam. May mắn là cảnh sát Pháp hợp tác hơn người Thụy Sĩ nhiều, họ thông báo là chiếc máy bay bị rơi xuống một cánh đồng cách Dijon mười hai dặm về phía bắc nhưng tại hiện trường máy bay rơi người ta không tìm thấy cả người phi công lẫn Scott.

Sir Morris nói:

-Và nếu điều người Pháp nói về quang cảnh trận chiến ở sân bay là đúng thì Romanov đã trốn thoát và đã vượt lên trước chúng ta vài giờ rồi.

Lawrence nói:

-Có thể.

Sir Morris hỏi:

-Vậy anh có nghĩ rằng cũng có thể họ bặt được Scott rồi và hiện đã chiếm được bức tranh không?

Lawrence nói:

-Vâng thưa ngài, tôi e rằng điều đó hoàn toàn có thể.Nhưng tôi không thể quả quyết dứt khoát được.

Nếu không vì cái vai đập thon thót thì có lẽ Adam đã không tỉnh dậy nhanh chóng đến thế. Chiếc xà lan chợt quay đi một góc chín mươi độ và bắt đầu đi về hướng đông khiến anh giật mình tỉnh dậy. Anh nhìn người lái xa lan và ra hiệu là lòng sông bây giờ đã rộng hơn cho nên ông có thể dễ dàng ghé sát vào bờ để anh nhảy lên. Ông lão nhún vai không hiểu trong khi chiếc xà lan vẫn tiếp tục trôi đi.

Adam nhìn lên hai bờ, mặc dầu trời tối nhưng anh vẫn có thể nhìn rõ lòng sông. Anh ném một hòn đá sang bên cạnh và thấy nó chìm nhanh xuống đáy. Trông cứ như là có thể vốt nó lên. Anh bất lực nhìn lên, người lái tàu vẫn đang nhìn qua đầu mình về phía xa.

-Mẹ kiếp.

Adam văng tục và lấy bức tranh Thánh trong túi áo gió ra và giơ lên cao quá đầu. Anh đứng trên thành xà lan tựa như một đội trưởng đứng cạnh sân đề nghị trọng tài cho vào thay cầu thủ. Sau khi được phép, Adam nhảy xuống nước. Chân anh chạm vào đáy sông kêu thụt một tiếng, anh nín thở mặc dầu thực ra nước chỉ đến đầu gối.

Adam đứng dưới sông, tay vẫn giơ cao bức tranh Thánh lên quá đầu trong khi chiếc xà lan trôi qua lội đến chỗ bờ gần nhất, anh nín thở mặc dầu thực ra nước chỉ đến đầu gối. Anh bước lên bờ mặt đê và chậm chạp nhìn bốn phía để cố xác định phương hướng. Chẳng mấy chốc anh đã xác định được chòm Đại hung tinh rồi bắt đầu đi về hướng tây. Sau khi loạng choạng đi được khoảng một giờ thì anh thấy phía xa khoảng một dặm có ánh đèn. Chân ướt sũng và lạnh buốt, anh lảo đảo đi qua cánh đồng về phía ban mai đầu tiên đang lấp ló.

Mỗi lần gặp một hàng rào hay một cánh cổng anh lại trèo qua hoặc chui qua, hệt như một người lính La Mã quyết nhắm thẳng đến đích. Lúc này anh đã nhận ra đường nét bên ngoài của một ngôi nhà, và khi đến gần thì anh nhận ra đó chỉ là một nếp nhà tranh. Adam nhớ lại hình ảnh của một "trang trại nông thôn" trong cuốn sách giáo khoa hồi nhỏ. Một con đường rải đá cuội dẫn đến một cánh cổng gỗ khép hờ tựa như không bao giờ cần đến một cái khóa. Adam gõ nhẹ lên cổng và đứng ngay chỗ sang nhất để nếu có ai ra mở cửa thì sẽ nhìn thấy anh ngay.

Một người phụ nữ nông dân trạc ba mươi tuổi ra mở cửa. Chị mặc một chiếc áo dài len màu đen và quàng chiếc tạp dề trắng muốt. Hai má hồng hào và vòng eo đẫy đà chứng tỏ chị làm ăn phát đạt.

Khi nhìn thấy Adam đứng dưới cánh cổng chị rất ngac nhiên-Chị nghĩ rằng đó là nhân viên bưu điện. Nhưng anh nhân viên bưu điện chẳng mấy khi xuất hiện trong chiếc áo gió gọn gàng và quần dài ướt sũng như thế này.

Adam mỉm cười nói với chị ta:

-Người Anh. -Và nói thêm-Tôi bị ngã xuống sông.

Người phụ nữ phá lên cười và ra hiệu cho Adam đitheo vào bếp. Adam bước theo và thấy một người đàn ông ăn bận rõ ràng là để chuẩn bị đi vắt sữa. Người đàn ông ngước lên và khi nhìn thấy anh đi vào cùng vợ mình đang cười ngặt nghẽo, một nụ cười ấm áp nở trên khuôn mặt bác ta - nụ cười thân thiện hơn là thù nghịch. Thấy nước trên quần áo Adam rỏ ròng ròng xuống nền nhà, chị phụ nữ nhanh nhẹn rút chiếc khăn tắm trên mắc áo phía bên lò sưởi đưa cho anh ta và nói:

-Enlevez -moi - ca. (Đưa cho tôi).

Adam quay lại bác nông dân hỏi ý, nhưng ông ta chỉ gật đầu và ra hiệu bằng cách chỉ xuống quần mình.

Người phụ nữ nhắc lại:

-Enlevez -moi - ca. (Đưa nó cho tôi).

Adam cởi giày và tất nhưng người phụ nữ vẫn tiếp tục chỉ tay cho đến khi anh tụt nốt chiếc quần dài ra, chị vẫn chưa thôi cho đến khi cuối cùng anh phải cởi hết sơ mi và đồ lót rồi quấn chiếc khăn tắm ngang thắt lưng. Chị nhìn miếng băng lớn trên vai Adam nhưng không nói gì mà chỉ nhanh nhẹn nhặt mọi thứ trừ chiếc áo gió rồi đem nhấn vào thùng giặt trong khi anh đứng cạnh lò sưởi lau khô người.

Adam quấn chiếc khăn tắm quanh người, người chồng ra hiệu cho anh ngồi vào bàn rồi rót cho anh một cốc sữa lớn và một cốc khác cho mình. Adam ngồi xuống cạnh bác ta, vắt chiếc áo rất mốt trên thành chiếc ghế. Một mùi thơm lừng bay ra từ chiếc chảo người vợ đang rán, một lát thịt xông khói dày cộp vừa cắt từ chiếc đùi lợn treo lủng lẳng dưới ống khói bám đầy bồ hóng.

Người chồng nâng cao cốc, nói:

-Wilston Churchill.

Adam uống một hợi dài rồi cũng giơ lên rất kịch:

-Charles De Gaulle.

Nói rồi anh uống một hơi hết chỗ sữa ấm nóng trong cốc, làm như đây là lần đầu tiên ra mắt câu lạc bộ.

Bác nông dân lại cầm bình sữa rót đầy hai cốc.

Adam quay lại nói với người đàn bà đang đặt trước mặt anh một đĩa trứng rán lớn với thịt lợn muối:

-Merci. (Cám ơn)

Chị gật đầu đưa cho anh con dao và cái dĩa, nói:

-Mangez. (Ăn đi)

Adam nhắc lại trong khi chị cắt cho anh một khoanh bánh mì hình chữ nhật và đặt trước mặt anh:

-Merci, merci. (Cám ơn, cám ơn)

Adam bắtđầu thưởng thức những thức ăn nóng sốt, đây là bữa ăn đầu tiên của anh kể từ sau bữa tối mà anh đã gọi bằng tiền của Robin.

Không hề báo trước, bác nông dân đột ngột đứng dậy và chìa tay ra. Adam cũng vui vẻ bắt tay, chỉ có điều nhớ ra là vai mình đang rất đau. Bác nông dân nói:

-Je dois travailler à la laiterie. (Tôi phảiđi vắt sữađây)

Adam gật đầu nhưng vẫn đứng trong khi ông chủ đi ra. Nhưng bác nông dân vẫy tay ra hiệu:

-Mangez. (Ăn đi)

Ăn xong miếng cuối cùng Adam còn vét thật sạch đĩa rồi mới đưa cho chị vợ. Lúc này chị đang bận rộn cầm cái ấm trên lò ra rót cho anh một tách cà phê nóng bỏng. Anh ngồi xuống và bắt đầu nhấm nháp.

Một cách gần như máy móc, Adam đập đập vào túi áo để chắc chắn là bức tranh Thánh vẫn nằm yên chỗ cũ. Anh rút bức tranh ra và ngắm nghía Thánh George và Con Rồng. Anh lật nó ra sau, lưỡng lự một lúc rồi ấn vào vành vương miện bạc phía sau. Bức tranh tách đôi như một cuốn sách mở, để lộ hai vật nhỏ được gắn vào bên trong khung tranh.

Anh liếc nhìn vợ người nông dân, chị đang vò bít tất của anh. Quần đùi đã giặt xong và phơi bên cạch chiếc quần dài trên giá phơi cạnh lò sưởi. Chị lấy chiếc bàn là bên cạnh lò sưởi ra bắt đầu hơ nóng, không hề chú ý đến việc của Adam xem xét bức tranh.

Một lần nữa Adam nhìn vào trong lòng bức tranh Thánh tách đôi trước mặt. Điều thật trớ trêu là người phụ nữ đang là dùm anh chiếc quần dài kia có thể hiểu rõ từng chữ trong tấm giấy da dê này nhưng lại không thể nào nói lại cho anh biết ý nghĩa của nó. Toàn bộ bề mặt trong của bức tranh được phủ một tấm giấy da dê được dán chặt vào khung gỗ và chỏ nhỏ hơn cái khung mỗi chiều không tới một centimet. Adam quay lại để nhìn rõ hơn. Những chữ nguệch ngoạc bằng mực đen dưới tờ giấy và dấu đóng khiến cho tờ giấy có vẻ là một chứng từ pháp lý. Mỗi lần đọc, anh lại hiểu được thêm một tí. Thoạt tiên Adam ngạc nhiên vì văn bản được viết bằng tiếng Pháp nhưng khi đọc đến ngày tháng ghi ở cuối tờ giấy - 20 tháng Sáu năm 1867 - rồi nhớ ra một trong những bào giảng lịch sử quân sự hồi ở Sandhurt rằng sau thời Napoleon khá lâu, hầu hết các văn bản quốc tế đều được viết bằng tiếng Pháp. Adam đọc lại chậm chạp tờ tài liệu một lần nữa.

Vốn tiếng Pháp của anh chỉ đủ cho anh hiểu có vài từđược viết bằng nét chữ rất đẹp. Dưới hàng chữ Hoa Kì là chữ William Seward viết rất to và nguệch ngoạc ngang qua hình một con đại bàng hai đầu. Bên cạnh đó là chữ kí của Edward de Stoeckle bên dưới một hình vương miện giống như chiếc vương miện tinh xảo bằng bạc gắn sau bức tranh. Adam kiểm tra lại một lần nữa. Nhất định đây phải là một thứ văn bản thỏa thuận gì đó được kí kết giữa Nga và Hoa Kì vào năm 1867.

Rồi anh tiếp tục nhìn những từ quen khác có thể cho thấy rõ hơn một chút về thỏa thuận đó. Anh đọc thấy một dòng viết: Sept millions deux cent mille dollars dor (7.2 millions), và ở một dòng khác là: Sept cent douze millions huit cent mille dollars dor (721.8 millions) le 20 Juin 1966.

Anh nhìn lên tấm lịch treo trên tường. Hôm nay là ngày 17 tháng Sáu năm 1966. Nếu tờ giấy này là thật thì chỉ còn ba ngày nữa là tài liệu không có chút giá trị pháp lý nào. Không ngạc nhiên tại sao hai cường quốc mạnh nhất thế giới đều cố hết sức để đoạt bức tranh đó. Adam thầm nghĩ.

Anh đọc lại từng dòng cố tìm thêm có điều gì nữa không, anh đọc lại từng chữ thật chậm.

Anh dừng mặt ở một từ giống nhau trong cả hai thứ tiếng.

Đó là từ duy nhất anh không nói cho Lawrence biết.

Adam tự hỏi không biết bức tranh Thánh này rơi vào tay Georing trong hoàn cảnh nào. Nhất định hắn đã để lại bức tranh cho cha anh mà không hề hay biết - bởi vì nếu biết điều thật sự quan trọng này được giấu trong bức tranh thì hắn có thể mặc cả đổi lấy tự do cho mình với một trong hai bên.

-Voila, voila. (Đây, đây)

Chị vợ bác nông dân giơ tay vẫy và đặt đôi tất, chiếc quần đùi và chiếc quần dài trước mặt anh. Không biết anh đã chìm đắm trong phát hiện tối quan trọng này bao lâu rồi? Chị nhìn xuống bản hợp đồng đặt ngược, mỉm cười. Adam nhanh chóng gấp bức tranh Thánh lại và chăm chú ngắm nghía tác phẩm kì diệu. Khung gỗ được cắt tuyệt khéo, bây giờ anh không thể phát hiện ra chỗ ghép nữa. Anh nhớ lại những lời trong di chúc của cha:

"Nhưng nếu mở phong bì ra mà con tìm thấy một cái gì đó khiến con bị dính dáng đến những chuyện bẩn thỉu thì hãy hủy nó đi đừng chần chừ ". Anh không cần phải nghĩ lại xem cha sẽ phản ứng thế nào nếu gặp trường hợp tương tự. Chị vợ bác nông dân vẫn đang đứng chống nạnh nhìn anh vẻ bối rối.

Adam nhanh chóng bỏ lại bức tranh vào túi áo gió và xỏ chân vào quần dài.

Không biết cảm ơn người phụ nữ nông dân thế nào về lòng mến khách vô tư và hồn hậu của chị, vì thế anh bước lại chạm nhẹ lên vai và hôn lên cả hai má. Chị đỏ bừng mặt và đưa cho anh một cái túi ni lông nhỏ. Anh nhìn vào và thấy có ba quả táo và một miếng pho mát lớn. Chị lấy mép tạp dề chùi một vết nhọ trên mép anh và tiễn anh ra cửa.

Adam cám ơn chị rồi bước ra ngoài vào một thế giới khác hẳn.

PHẦN BA NHà TRẮNG - WASHINGTON DC Ngày 17 tháng 06 năm 1966