Trường Hận

Chương 2-2: Dịch Phong (tiếp)



Không lâu sau khi Thẩm Hành rời đi, Lê Tâm và Đào Chi liền bước vào. Đào Chi tò mò hỏi: “Quận chúa, Thẩm công tử đã dạy cho người những gì vậy?”

Tôi nói: “Bổn Quận chúa lúc này tâm trạng đang rất tệ.”

Các vị tiên sinh đều nói là tôi rất thông minh, nghe thấy những lời vừa rồi của Thẩm Hành, tôi liền hiểu ngay ra ý của y. Y chỉ đang giận tôi về việc tôi đã thất lễ với y, bắt y phải chờ một mình bên ngoài lâu như vậy. Nhưng tôi thường ngày chưa từng dậy sớm thế này, mà Thẩm Hành lại chẳng dặn dò gì trước cả, có trời mới biết tôi cần dậy vào giờ nào.

Người này đúng là dị hợm quá chừng, có gì cứ nói thẳng ra là được, lại còn phải vòng vo tam quốc nhắc nhở tôi. Nếu tôi kém thông minh hơn một chút, ngày mai há chẳng phải sẽ lại bị y chỉ trích là không biết tôn sư trọng đạo ư?

Từ khi tôi ra đời tới nay, mọi người trong phủ có ai mà không rất mực tôn trọng tôi chứ? Cho dù là các vị đại phu được cha năm lần bảy lượt mời tới cũng chưa từng đối xử với tôi như Thẩm Hành! Thẩm Hành dựa vào cái gì mà chỉ trích tôi?

Dựa vào cái gì? Dựa vào cái gì chứ? Y chẳng qua chỉ dựa vào sự tin tưởng của cha tôi mà thôi!

Thẩm Hành, ta sẽ nhớ kĩ mối thù này!

Tôi vỗ bàn giận dữ nói: “Ngày mai hãy gọi bổn Quận chúa dậy từ giờ Mão một khắc, nhớ chuẩn bị sẵn trà trước bánh trái để chờ đại giá của sư phụ.”

Sợ ngày mai không dậy nổi, tối đó tôi ngủ rất sớm. Ngày hôm sau giờ Mão còn chưa tới tôi đã dậy rồi, sau khi thay quần áo và dùng bữa sáng, liền lẳng lặng chờ Thẩm Hành tới. Hôm nay các thứ lễ nghi tôi đều đã chuẩn bị chu đáo cả, tôi không tin rằng y còn có thể bắt bẻ gì tôi được nữa.

Khi Thẩm Hành đi vào, tôi liền cười tươi rạng rỡ gọi một tiếng “sư phụ”.

Khi Thẩm Hành nhìn về phía tôi, ánh mắt liền dừng trên búi tóc của tôi trước tiên, nhưng rất nhanh sau đó đã lại nhìn thẳng vào mắt tôi, đoạn khẽ gật đầu vẻ hài lòng, nói: “Trẻ nhỏ đúng là dễ dạy, sau này con hãy dậy vào giờ này cho ta.”

Tôi đáp: “Dạ, sư phụ.”

Thẩm Hành nói: “Bắt đầu từ ngày hôm nay vi sư sẽ dạy con luyện võ. Con thường xuyên đổ bệnh, xét kĩ ra đều là bởi vì thân thể quá yếu. Tập võ có thể giúp con củng cố căn cơ, tăng cường nguyên khí, từ từ cải thiện thể chất của con.” Dừng một chút, Thẩm Hành lại tiếp: “Chờ sau khi con luyện võ có chút thành tựu, ta sẽ tiếp tục dạy con thuật Kỳ Môn Độn Giáp và thuật Vu Cổ…”

Rồi y hơi mím môi, dường như đang do dự không biết có nên nói một số lời ra hay không.

Tôi lúc này đang tự nhủ phải làm đúng bổn phận của đệ tử, bèn ân cần nói: “Sư phụ có gì xin cứ nói thẳng ra là được.”

Thẩm Hành nhắm mắt lại, mãi một lúc sau mới mở ra, chậm rãi nói: “Nếu con thực sự muốn học thuật phòng the, vi sư kỳ thực cũng có thể dạy con.”

Da mặt tôi hơi run lên.

Không ngờ những lời mà tôi tùy tiện nói ra hôm đó Thẩm Hành lại thực sự ghi nhớ kĩ trong lòng. Còn nhớ lúc đó tôi chẳng qua chỉ muốn làm khó y một chút, ai ngờ bây giờ lại thành gậy ông đập lưng ông, nhưng tôi cũng chỉ đành cắn chặt răng nói: “Tạ ơn sư phụ.”

Thẩm Hành dường như còn chưa yên tâm về tôi, lại dặn dò thêm: “Nếu con thực sự muốn học thì vi sư có thể dạy con, con nhớ đừng đi tìm người khác đấy.”

Tôi nhủ thầm: Đang yên đang lành tôi đi tìm người khác học thuật phòng the làm gì chứ? Gã Thẩm Hành này đúng là quái lạ!

Có điều tôi hôm nay đã quyết tâm phải làm một đồ đệ tốt, sư phụ nói một thì tôi quyết không nói hai, thế là bèn ngoan ngoãn gật đầu đáp: “Dạ.”

Thẩm Hành gật đầu nói: “Tranh thủ bây giờ trời còn chưa sáng, A Uyển hãy chạy năm vòng quanh vương phủ đi.”

Tôi điếng người, lắp bắp nói: “Năm… năm vòng?”

Vương phủ lớn đến cỡ nào chứ, đi bộ một vòng đã đủ khiến tôi mệt đứt hơi rồi, huống chi là chạy năm vòng. Gã sư phụ Thẩm Hành này muốn hại chết tôi hay sao?

Thẩm Hành nói: “Lẽ nào một yêu cầu đơn giản như thế mà A Uyển cũng không làm được ư?”

Tôi nghiến răng nghiến lợi nói: “Sư phụ đã nói, A Uyển tất nhiên sẽ làm theo.”

Tôi cố nén nỗi uất ức vào lòng, thầm nghĩ tuyệt đối không thể để cho Thẩm Hành nắm thóp mình được. Vì suy nghĩ này, không ngờ tôi đã làm được một điều gần như là kỳ tích, đó là mỗi ngày đều dậy vào giờ Mão, sau đó chạy vòng quanh phủ Tây Lăng Vương năm vòng liền. Ban đầu mỗi lần chạy xong tôi đều rất mệt, vòng eo như teo tóp cả lại, nhưng dần dần thì đã không còn quá mệt nữa. Một tháng sau, tôi có thể chạy hết năm vòng mà tim không đập nhanh, miệng không thở dốc, sau đó thì xoay người lại nói với Thẩm Hành vốn vẫn luôn bám theo sau lưng tôi: “Sư phụ, con chạy xong rồi.”

Thẩm Hành mặt mày hờ hững, có điều trong mắt lại thoáng qua một nét cười. Y khẽ gật đầu nói: “Không tệ, để thưởng cho thành tích này của con, ngày mai ta sẽ dạy con thuật Vu Cổ.”

Tôi reo lên: “Hay quá!”

Thẩm Hành chợt chậm rãi bước lại gần tôi, hỏi: “A Uyển, có phải con bây giờ vẫn giận ta không?”

Tôi sững người ra.

Thẩm Hành mỉm cười, nói: “Ta biết con vẫn còn giận ta, giận ta không nói gì trước với con, thế mà sau đó lại đi chỉ trích con. Nhưng A Uyển này, con thử nghĩ mà xem, nếu ban đầu ta nói với con là ngày mai cần phải dậy vào giờ Mão, liệu con có chịu nghe lời ta không?”

Không thể không nói, Thẩm Hành đúng là rất hiểu tính tôi.

Nếu ban đầu Thẩm Hành nói với tôi rằng ngày mai cần dậy vào giờ Mão, hơn nữa còn phải chạy vòng quanh vương phủ năm vòng, tôi nhất định cảm thấy khó chịu. Có lẽ tôi sẽ cố kiên trì được mấy ngày đầu, nhưng một tháng thì tuyệt đối không thể, bởi vì trong lòng tôi thiếu mất nỗi uất ức kia.

Kỳ thực tỉ mỉ ngẫm lại, Thẩm Hành đối xử với tôi quả thực không tệ chút nào.

Một tháng vừa qua, tuy tôi mỗi ngày đều phải dậy vào giờ Mão, nhưng Thẩm Hành đúng vào giờ Mão cũng đã có mặt trong tiểu viện của tôi, mà tiểu viện của y lại cách tiểu viện của tôi khá xa, tức là y ít nhất phải dậy trước giờ Mão. Khi tôi chạy vòng quanh vương phủ, bất kể nhanh chậm thế nào, Thẩm Hành từ đầu chí cuối luôn ở sau lưng tôi. Ban đầu khi tôi chạy đến nỗi tê nhức hai chân, Thẩm Hành liền lấy rượu thuốc kêu Lê Tâm giúp tôi xoa bóp, còn cất công làm dược thiện[1] cho tôi ăn nữa.

[1] Nghĩa là thức ăn được chế biến chung với thuốc, dùng để tẩm bổ.

Dược thiện mà các tay đầu bếp trong vương phủ hay làm chẳng bao giờ hợp với khẩu vị của tôi, món nào cũng mang vị thuốc rất nồng, nhưng đồ Thẩm Hành đích thân làm thì có thể nói là vừa đẹp vừa thơm vừa ngon, khiến tôi mỗi ngày đều mong y làm đồ ăn cho mình.

Lúc này, tôi coi như là đã hoàn toàn tâm phục khẩu phục nhận y làm sư phụ.

Tôi nói: “Sư phụ, người đúng là hiểu con quá, còn hiểu hơn cả Đào Chi nữa.”

Dưới sự chăm sóc của Thẩm Hành, khí sắc của tôi ngày một tốt lên, hơn nữa kể từ khi Thẩm Hành tới đây, đã hơn một tháng rồi tôi chưa từng mơ thấy giấc mơ quái dị đó. Cha mẹ hết sức vui mừng, mỗi lần nhìn thấy Thẩm Hành đều cười đến híp hai mắt lại.

Đầu tháng Năm, Thẩm Hành bắt đầu dạy tôi thuật Kỳ Môn Độn Giáp. Tôi ngồi trước bàn, uể oải nghe Thẩm Hành giảng giải về đủ các loại trận pháp khác nhau. Ban đầu tôi nói muốn học chỉ là để gây khó dễ cho y mà thôi, còn trên thực tế thì chẳng có hứng thú gì với môn này.

Cho nên khi Thẩm Hành truyền thụ thuật Kỳ Môn Độn Giáp, tôi thường xuyên ngẩn ngơ nhìn đôi môi đẹp đẽ của y hé ra khép lại không ngừng, kỳ thực chẳng được mấy chữ lọt vào đầu. Thế rồi tôi ngáp dài liền mấy cái, đưa tay đỡ má, muốn tập trung tinh thần nghe giảng.

Thẩm Hành chợt dừng lại, đi tới trước mặt tôi hỏi: “A Uyển mệt rồi ư?”

Tôi nói: “Sư phụ, người hiếm có dịp xuất sơn thế này, vậy mà con chưa từng dẫn người đi du ngoạn trong thành Kiến Trung, đây quả thực là một sơ suất lớn. Chi bằng hôm nay chúng ta hãy tạm đặt thuật Kỳ Môn Độn Giáp qua một bên mà ra ngoài đi dạo, vậy thì mới không uổng phí thời tiết đẹp hiện giờ.”

Thẩm Hành trầm ngâm một lát rồi mỉm cười nói: “Hiếm khi A Uyển có lòng như thế, vậy chúng ta hãy ra ngoài đi dạo thôi.”

Ra ngoài cùng với Thẩm Hành võ nghệ cao cường, ngay đến thị vệ tôi cũng chẳng buồn mang theo, sau lưng chỉ có một mình Đào Chi theo hầu. Kiến Trung là đô thành của Thiên Long triều, trên đường xe cộ nườm nượp, hàng quán liền kề, mức độ phồn hoa khỏi cần phải nói. Tôi và Thẩm Hành chậm rãi bước đi trên đường, có lẽ vì tướng mạo và khí chất của y quá ư xuất chúng nên từ khi chúng tôi ra khỏi vương phủ tới giờ thường xuyên có các cô nương giả bộ vô tình đưa mắt liếc qua.

Tuy Thẩm Hành chưa từng nói rõ về thân phận của mình nhưng hôm đó tôi đã nghe lén được cuộc nói chuyện giữa mẹ và huynh trưởng, cho nên biết y là người Đại Phụng triều. Nghe nói Đại Phụng triều dân phong nề nếp, con gái không được xuất đầu lộ diện bên ngoài, dù chỉ là bước chân ra khỏi cửa cũng cần đeo mạng che mặt. Còn Thiên Long triều chúng tôi dân phong cởi mở, dù một cô ngương chưa xuất giá liếc mắt đưa tình với nam tử mà mình vừa ý ngay ngoài đường thì cũng chẳng có ai dị nghị, nếu hai người có thể vì thế mà nên duyên thì thậm chí còn có thể trở thành một phen giai thoại cũng chưa biết chừng.

Tôi lo Thẩm Hành không thể thích ứng với điều này, bèn nhỏ giọng nói: “Sư phụ không cần phải để tâm, nữ tử ở Kiến Trung đa phần đều như vậy cả. Bọn họ không có ác ý gì đâu, chỉ tại sư phụ quá ư tuấn tú nên bọn họ mới nhất thời cầm lòng không đậu…”

Thẩm Hành mỉm cười nói: “Ngay từ đầu tiên gặp A Uyển, ta đã hiểu được đôi chút về dân phong của Thiên Long triều rồi.”

Nhớ lại tình cảnh trong lần đầu gặp mặt Thẩm Hành, tôi không kìm được có chút thẹn thùng, khi đó không ngờ tôi lại đi hỏi y có thể dạy tôi thuật phòng the hay không, so với điều này, việc các nữ tử nhìn lén kia thực sự chẳng đáng kể gì.

Tôi hơi hất hàm, buông lời trêu chọc: “Các cô nương Thiên Long triều đều nhiệt tình xinh đẹp, sư phụ chi bằng hãy tìm cho con một sư nương ở Thiên Long triều đi. Con thấy vị cô nương áo vàng ngồi ở chỗ kia quả thực không tệ chút nào.”

Thẩm Hành liếc mắt nhìn tôi, nói: “Các cô nương Thiên Long triều đúng là đều xinh đẹp nhiệt tình.” Ánh mắt Thẩm Hành trở nên sâu thẳm, tôi vừa mới ngước lên đã như bị hút vào trong đôi mắt đó. Chỉ nghe y nói tiếp: “Ngay từ ngày đầu tiên gặp A Uyển, ta cũng đã biết được điều này rồi.”

Ồ, Thẩm Hành đang khen tôi xinh đẹp hay sao?

Tôi vui vẻ nói: “Thế nên con mời bảo sư phụ đi tìm một cô nương Thiên Long triều về làm sư nương cho con. Với tướng mạo tuấn tú của sư phụ và dung nhan mỹ miều của sư nương tương lai, nếu sinh con trai thì ắt sẽ đẹp tựa Phan An, nếu sinh con gái thì cũng sẽ là một trang tuyệt sắc.” Tôi đưa tay sờ cằm, trầm ngâm nói: “Sư phụ, hay là thế này đi, chờ ngày sau con thành thân rồi cũng sinh con đẻ cái, chúng ta hãy hứa hôn cho lũ nhỏ, như thế con với sư phụ sẽ thân càng thêm thân đấy.”

Lời của tôi vừa mới dứt, Thẩm Hành gần như đã lập tức quay đầu lại, khuôn mặt trở nên hết sức lạnh lùng. Tôi có thể nhìn ra Thẩm Hành đang không vui, nhưng tôi rốt cuộc đã chọc giận y chỗ nào chứ? Đang khi tôi nhìn y chăm chú, y đột nhiên tăng nhanh tốc độ bỏ tôi lại phía sau, khiến tôi chỉ còn có thể nhìn thấy bóng lưng y mà thôi.

Đào Chi nhỏ giọng nói: “Quận chúa, có lẽ Thẩm công tử không thích hứa hôn cho trẻ con đấy.”

Tôi nhủ thầm: Sư phụ đúng là nhỏ mọn, không phải chỉ là hứa hôn cho lũ nhỏ thôi sao, rõ ràng chẳng có gì ghê gớm cả. Hơn nữa con của bổn Quận chúa đây lẽ nào lại kém được ư? Rồi tôi bèn tức tối trừng mắt nhìn theo bóng lưng Thẩm Hành.

Thẩm Hành dường như cảm nhận được, đột ngột xoay người lại. Vẻ mặt còn chưa kịp thu về của tôi lập tức bị Thẩm Hành nhìn thấy hết, y liền bước về phía tôi. Tôi hỏi: “Sư phụ, lẽ nào sư phụ chê ghét người Thiên Long triều?”

“Không phải.”

Tôi lại hỏi: “Vậy sư phụ chê ghét con của A Uyển ư?”

Khuôn mặt hơi run lên, Thẩm Hành dường như nghĩ tới điều gì đó, sắc mặt vốn hồng hào sau nháy mắt đã trở nên tái nhợt, những tia đau khổ và hối hận liên tục thoáng qua. Tôi không ngờ sư phụ lại cò phản ứng dữ dội như vậy, thế là vội vàng nói: “Con chỉ nói đùa thôi, sư phụ đừng để bụng.”

“Ta…” Thẩm Hành mở lời một cách khó khăn. Tôi phát hiện bàn tay dưới tay áo của y đã nắm chặt lại thành quyền, mãi một lúc sau mới chậm rãi buông ra. “A Uyển, xin lỗi.” Dừng một chút, Thẩm Hành lại tiếp: “Ta không chê ghét gì con của con, con của A Uyển ta thương yêu còn chẳng kịp ấy chứ, sao có thể chê ghét được. Vừa rồi ta không hề giận con, có điều ta từng lập lời thề, đời này không phải nàng ấy thì sẽ không cưới ai. Bây giờ nàng ấy còn chưa biết ta, đường tình dằng dặc, nếu ta đồng ý với con, chỉ e sẽ làm con của con bị lỡ dở mất.”

Đào Chi chợt nói: “Hóa ra Thẩm công tử đã có ý trung nhân rồi.”

Lại một chữ tình, tôi lập tức mất hết hứng thú. Vừa hay lúc này bụng lại đang đói, thế là tôi bèn cười nói: “Sư phụ, đã tới thành Kiến Trung rồi thì nhất định phải ghé thăm Nhất Phẩm lâu. Bây giờ đang là buổi trưa, cũng tới lúc dùng bữa rồi, chúng ta tới Nhất Phẩm lâu thôi.”

Thẩm Hành khẽ nói: “Được.”

Nhất Phẩm lâu ở cách chỗ hiện giờ khá xa, chúng tôi phải đi mất chừng một tuần hương mới tới nơi. Tôi và huynh trưởng từng đến đây nhiều lần, chưởng quỹ và tiểu nhị ở Nhất Phẩm lâu đều nhận ra tôi. Tôi vừa bước chân qua cửa, tiểu nhị lập tức tươi cười bước tới hành lễ: “Quận chúa vạn phúc, mời qua bên này, mời qua bên này.”

Đi lên lầu rồi, tiểu nhị dẫn tôi tới trước cửa phòng nhị phẩm, sau đó đẩy cửa ra, nói: “Quận chúa, mời vào trong.”

Tôi dừng chân lại hỏi: “Trong phòng nhất phẩm đã có người rồi sao?”

Nhất Phẩm lâu được xây ngay bên bờ sông, các phòng riêng ở đây đều được đặt tên theo số, số càng nhỏ thì cảnh sông nhìn từ trong phòng ra ngoài lại càng đẹp, trong đó xếp hạng nhất đương nhiên là phòng nhất phẩm rồi.

Trên mặt lộ rõ vẻ hoang mang, tiểu nhị run rẩy trả lời: “Dạ bẩm Quận chúa, có người rồi ạ.”

Tôi vốn không phải hạng người ỷ vào quyền thế hoành hành bá đạo, sau khi suy nghĩ một chút bèn nói: “Ngươi hãy qua phòng nhất phẩm nói xem người ở đó có bằng lòng đổi phòng với bọn ta không. Nếu bằng lòng, tiền cơm trưa nay của bọn họ cứ tính cho ta, bọn họ lần sau mà tới nữa cũng cứ tính cho ta luôn nhé.”

Tiểu nhị tỏ ra khó xử nói: “Quận chúa, chuyện này… chuyện này…” Gã cứ lắp ba lắp bắp, chẳng rõ là định nói cái gì. Tôi nghe mà không kìm được, nhíu chặt đôi mày, lòng thầm không vui.

Thẩm Hành chợt nói: “A Uyển, ta thấy phòng nhị phẩm cũng không tệ, cứ chọn gian này là được rồi.”

Nể mặt Thẩm Hành, tôi cố kìm cơn giận trong lòng xuống, nói: “Vậy thì chọn gian này đi.”

Tiểu nhị đưa mắt liếc nhìn Thẩm Hành vẻ cảm kích, rồi lại hỏi tôi: “Quận chúa, vẫn theo lệ cũ chứ ạ?”

Tôi hỏi Thẩm Hành: “Sư phụ dùng bữa có điều cấm kỵ gì không?”

Thẩm Hành lắc đầu.

Tôi xua tay nói: “Vậy hãy theo lệ cũ đi.”

Tiểu nhị nói: “Thức ăn sẽ được mang lên ngay, phiền Quận chúa đợi cho một lát.” Không lâu sau, chưởng quỹ của Nhất Phẩm lâu mang lên một bình rượu, tươi cười rạng rỡ nói: “Gần đây Nhất Phẩm lâu mới ủ được một loại rượu mới, đó là rượu nho. Loại rượu này vị ngọt mà không dễ say nên tại hạ đặc biệt mang lên đây mời Quận chúa thưởng thức.”

Tôi biết vị chưởng quỹ này tới đây là để thỉnh tội với tôi, có điều nể mặt loại rượu mới mà y mang lên, bổn Quận chúa không tính toán với y nữa, gật đầu nhận lấy.

Đào Chi cầm bình rượu rót cho tôi và Thẩm Hành mỗi người một chén. Tôi nhấp thử một ngụm, thấy quả đúng như lời chưởng quỹ nói, vị rất ngọt, thế là liền uống cạn. Đào Chi lại rót cho tôi chén nữa, sau khi uống xong chén thứ hai, tôi cất lời cảm thán: “Thứ rượu này mùi vị đúng là không tệ, sau khi dùng bữa xong hãy kêu chưởng quỹ mang mấy vò tới phủ nhé.”

Thẩm Hành chợt nói: “Nếu con thích, đợi hôm nào rảnh ta có thể thử ủ rượu cho con.”

Tôi nghe thấy thế thì hai mắt sáng rực lên. “Thật sao?”

Thẩm Hành mỉm cười nói: “Có điều con không được uống nhiều, sức khỏe của con bây giờ không cho phép uống rượu quá độ.”

Tôi cười hì hì, nói: “Con biết mà, phàm việc gì cũng đều không thể quá độ, lời này con vẫn luôn ghi nhớ kĩ trong lòng.”

Đào Chi đưa mắt liếc tôi, rồi lại nhìn Thẩm Hành, vẻ mặt hết sức quái dị.

Tôi đã chú ý tới điều này, bèn hỏi: “Đào Chi, ngươi có vẻ mặt gì vậy hả?”

Đào Chi khẽ ho một tiếng, đáp: “Bẩm Quận chúa, Đào Chi cảm thấy…”

“Cảm thấy cái gì?”

“Cảm thấy phen đối đáp giữa Quận chúa và Thẩm công tử vừa rồi rất giống với Vương gia và Vương phi thường ngày…”

Thẩm Hành khẽ cười một tiếng, bộ dạng xem chừng rất vui vẻ. Tôi không biết những lời vừa rồi của Đào Chi cớ sao lại có thể khiến y vui như vậy, đang định hỏi cho rõ ràng thì từ trong phòng nhất phẩm ở phía đối diện bỗng vang tới tiếng đàn, sau đó chợt dừng lại một chút rồi một khúc nhạc cổ trọn vẹn được gảy lên như nước chảy mây trôi.

Tôi cả mừng, là Dịch Phong.

Tôi từng được nghe Dịch Phong gảy đàn nhiều lần, biết rằng chỉ cần là khúc đàn mà y gảy thì bất kể là thê lương ai oán hay là khí thế bừng bừng, thậm chí là linh động uyển chuyển, y cũng đều có thể đưa tính tình của mình vào bên trong đó, khiến trong làn điệu sinh ra mấy tia lạnh lùng, từ đó tạo thành một phong cách hết sức đặc biệt.

Tôi đứng phắt dậy, quên mất cả việc Thẩm Hành còn đang ngồi ở chỗ đối diện với mình, định chạy thẳng qua phòng nhất phẩm. Hiếm khi có dịp ra ngoài, vậy mà lại có thể gặp được Dịch Phong, điều này thực khiến tôi vui mừng quá đỗi. Nhưng tôi vừa mới xoay người và đi được mấy bước thì giọng của Thẩm Hành đã vang lên: “A Uyển, Dịch Phong đang ở trong phòng nhất phẩm, vậy thì Thái tử ắt cũng đang ở trong đó.”

Tôi ngẩn ra, ngoảnh đầu lại nhìn Thẩm Hành.

Thẩm Hành hờ hững nói: “Nếu chỉ có một mình Dịch Phong, vừa rồi tiểu nhị đã chẳng sợ đến nỗi không dám đi hỏi thử đâu.”

Lời này quả là rất có lý, vừa rồi gã tiểu nhị đó không có lý do gì mà lại cự tuyệt tôi, dù sao thân phận Quận chúa của tôi cũng đã được bày ra trước mặt gã rồi, trừ phi thân phận của người trong phòng nhất phẩm còn tôn quý hơn cả tôi. Hơn nữa Dịch Phong vốn thích yên tĩnh, quyết không bao giờ một mình đến Nhất Phẩm lâu, trừ phi là cùng với khách. Ngoài ra, việc Dịch Phong được Thái tử bao trọn là điều mà ai cũng biết, ắt chẳng có người nào dám vuốt râu hùm.

Cho nên, Thẩm Hành nói rất đúng.

Người ở trong phòng nhất phẩm ắt hẳn chính là Thái tử và Dịch Phong.

Xem ra Thẩm Hành quả đúng là tâm tư tinh tế, vừa rồi nếu không có y nhắc nhở, tôi nhất định đã tùy tuện xông bừa vào trong đó. Mà hiện giờ lập trường của cha và huynh trưởng lại đang có vấn đề, nếu như tôi không may chọc giận Thái tử, vậy thì kết cục cuối cùng e là sẽ chẳng tốt đẹp gì.

Có điều…

Sao Thẩm Hành lại biết người gảy đàn là Dịch Phong nhỉ?

Tôi vốn muốn hỏi Thẩm Hành một câu như thế, nhưng tỉ mỉ ngẩm lại, trước đó Thẩm Hành cũng từng được nghe Dịch Phong gảy đàn một lần rồi, với tâm tư tinh tế của y, muốn đoán ra tuyệt đối không phải là chuyện khó. Hơn nữa cha cũng đã nói rồi, Thẩm Hành là cao nhân, mà suy nghĩ của cao nhân thì không thể bó buộc bằng lẽ thường được, nói cho dễ hiểu thì tâm tư của cao nhân tốt nhất là đừng nên suy đoán.

Khi thức ăn được đưa lên, tôi và Thẩm Hành đang trò chuyện rất vui vẻ.

Nghe Thẩm Hành nói tới việc bản thân ẩn cư trong núi sâu, tôi không kìm được tò mò hỏi: “Với tài năng của sư phụ, nếu muốn thì nhất định có thể kiếm được một chức quan ở Đại Phụng triều, mà tuổi tác sư phụ cũng không lớn, tại sao lại đi ẩn cư vậy?”

Thẩm Hành khẽ nhấp một ngụm rượu nho, lại đặt ly rượu xuống, sau đó mới nhìn tôi, nói: “A Uyển có từng nghe qua điển cố Khương Thái Công câu cá bao giờ chưa?”

Tôi giật mình bừng tỉnh, danh tiếng của Thẩm Hành đã vang tới tận Thiên Long triều, vậy thì ở Đại Phụng triều nhất định là khỏi cần phải nói. Một người tài như vậy đi ẩn cư nơi núi rừng, nếu quân vương Đại Phụng triều xem trọng hiền tài, vậy thì sớm muộn gì cũng sẽ phái người đi đón Thẩm Hành ra làm quan.

Cái gọi là người có lòng tự sẽ mắc câu[2] chính là như vậy.

[2] Tương truyền Khương Thái Công hay ngồi câu cá bên bờ sông bằng lưỡi câu thẳng. Một người tiều phu đi qua hỏi ông tại sao lại làm như vậy, ông liền đáp cái ông câu không phải là cá, mà là minh chủ, người có lòng tự sẽ mắc câu. Về sau ông quả nhiên được Tây Bá Hầu Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này, mời về phò trợ, để rồi từ đó giúp nhà Chu diệt nhà Thương, góp phần lập nên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đây chính là điển cố Khương Thái Công câu cá - người có lòng tự sẽ mắc câu.

Tôi nói: “Sư phụ quả là cao kiến.” Được mời ra làm quan với chủ động xin làm quan là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, bên nào cao bên nào thấp chỉ nhìn thoáng qua là đã rõ ràng.

Thẩm Hành chợt hỏi: “Con với Dịch Phong quen nhau như thế nào vậy?”

Tôi bất giác có chút sững sờ, nhìn ánh mắt nóng bỏng của Thẩm Hành lúc này thì hình như y rất có hứng thú với việc tôi và Dịch Phong quen nhau như thế nào.