Thứ Tử Quy Lai

Chương 10: Hô Diên Nguyên Thần.



Ninh Uyên dụi dụi mắt – giấy trắng mực đen, rõ ràng là y không nhìn nhầm! Một suy nghĩ phức tạp chợt lóe lên, y lật tiếp sang tờ khác.

Ở tờ thứ hai là lời tựa của tác giả quyển sách này. Đọc xong rồi y mới hiểu – vì sao ở trang đầu tiên phải ghi như thế.

Quyển bí tịch này được viết bởi một thái giám tiền triều. Vì thái giám nọ bị thiến từ bé, nên dương mạch trong cơ thể không được phát triển đầy đủ; ngược lại, âm mạch lại vững vàng hơn nam nhân bình thường rất nhiều. Thể chất như thế dẫn đến việc luyện môn võ nào cũng không luyện sâu được – người nọ gặp phải vấn đề y như Ninh Uyên – bên này vừa luyện ra được chút nội lực thì lại chảy ra dần ở bên kia. Chỉ có điểm khác là, sự xói mòn ở hắn không rõ ràng như ở Ninh Uyên, mà vẫn có thể tích cóp được một lượng nội công nhất định.

Người thái giám viết quyển bí tịch này nhất định là một kỳ tài có một không hai. Hắn đã đọc hết mọi bí kíp võ công trong thiên hạ rồi biên tập ra một phương pháp cho thái giám có hai mạch âm dương tu luyện. Đó là dẫn nội công lần lượt chảy qua hai mạch – nội lực mà dương mạch tu được sẽ chảy qua âm mạch và ngược lại, sinh sôi không ngừng, tạo ra một vòng tuần hoàn liên tục. Cách này không những làm nội lực không bị hao phí, mà còn làm tốc độ tu luyện tăng lên nhanh chóng, nhanh hơn cách thức tu bằng một mạch thông thường gấp mấy lần. Cũng nhờ phương pháp này, mà thái giám nọ đã trở thành đệ nhất cao thủ trong đại nội.

Nhưng mọi thứ đều có mặt trái của nó. Vì hai mạch âm dương trong cơ thể thái giám nọ đều phát triển không hoàn chỉnh, nên không thể thừa nhận được lượng nội lực khủng khiếp mà mình luyện ra. Tuy võ công của hắn mạnh đến nghịch thiên, nhưng vì kinh lạc suy yếu nên tuổi thọ cũng giảm mạnh, thậm chí không sống được quá ba mươi tuổi. Vì vậy, ở đoạn cuối của lời dẫn đầu, tác giả cố ý nhấn mạnh lời răn: Luyện công một ngày, tổn thọ một ngày! Nhất định phải nhớ kỹ!

Đọc đến đây, Ninh Uyên nhắm mắt lại, miệng khô lưỡi đắng. Giọng nói của một vị phương sĩ* sau khi bắt mạch cho y nhiều năm trước bỗng vang lên trong đầu y – "Thể chất của ngươi thật quá kỳ lạ, trong cơ thể tồn tại cả hai mạch âm dương, không những không ảnh hưởng đến nhau, mà còn mạnh mẽ hơn của người thường rất nhiều. Nếu có ngày ngươi tìm được công pháp cùng tu hai mạch một lúc thì sẽ tu được nội công thôi; chỉ là, ta chưa từng nghe thấy có người viết nên được loại phương pháp có một không hai như thế."

*phương sĩ (方士): những người cầu tiên học đạo.

Ý "tu hai mạch cùng một lúc" mà vị phương sĩ đó nói, không phải là hệt như cuốn [Niết Bàn Tâm Kinh] này đó sao?

Có phải điều đó nghĩa là, y có thể tu tập công này mà không bị "luyện công một ngày, tổn thọ một ngày" như tác giả cuốn sách này đã nói?

Trong khoảnh khắc, trái tim Ninh Uyên đập cực nhanh. Do dự một chốc, y cắn cắn môi, trèo lên giường ngồi khoanh chân thành tư thế ngũ tâm triều thiên**; bắt đầu thử tu luyện theo khẩu quyết tầng thứ nhất trong quyển bí tịch.

Ngưng thần tĩnh khí, bão nguyên thủ nhất – ngay lập tức, một luồng khí âm ấm được sinh ra từ đan điền, chạy một vòng nhỏ quanh cơ thể qua dương mạch, rồi lại vòng về chỗ cũ.

Chính là lúc này.

Lần nào Ninh Uyên luyện công cũng thế, chút nội lực vừa sinh ra sẽ chạy một vòng nhỏ quanh cơ thể, rồi lại xói mòn bằng hết qua đường âm mạch kia. Cảm nhận luồng nội lực nọ có dấu hiệu tiêu tán sau khi trở về nơi bụng dưới, y quyết không bỏ cuộc – cố gắng khống chế nó, tách nó ra khỏi dương mạch rồi chuyển sang âm mạch.

Trong khoảnh khắc luồng hơi ấm nọ đi vào mạch âm, Ninh Uyên khẽ rùng mình một cái. Cảm giác ở kinh lạc trở nên rõ ràng hơn, nhưng đáng mừng hơn là – luồng nội lực đó nghiêm chỉnh đi một vòng âm mạch rồi lại trở về dương mạch, vòng nhỏ cũng dần thành vòng lớn. Không những không biến mất, mà còn trở nên rõ rệt hơn!

'Thế mà thành công thật!" Y mừng rỡ mở bừng mắt, nâng niu quyển [Niết Bàn Tâm Kinh] như báu vật. Bí kíp này đúng là được viết ra cho y! Có khi chính thái giám viết nên nó cũng không ngờ rằng, trên đời thực sự có người bẩm sinh đã có hai mạch âm dương!

Có bí kíp là có thể tu tập nội lực, là có thể học võ để bảo vệ mình. Dù có người kề dao vào cổ y, y cũng không sợ nữa!

Nhưng mà, nội lực trong kinh lạc bây giờ của y còn rất ít ỏi, còn phải cố rất nhiều. Ninh Uyên nghĩ bụng, y phải đạt được một trình độ nhất định, thì mới có thể ứng phó được vài chuyện sắp tới, làm gì cũng thuận tiện hơn.



Mấy ngày liên tiếp sau đó, trừ việc vấn an Thẩm thị mỗi sáng chiều và đi thăm Đường thị ra, thì Ninh Uyên chỉ ở rịt trong phòng để luyện công, không đi đâu cả. Ở ngoài có hạ nhân tò mò ngó vào xem, thì đều bị Chu Thạch đứng canh ở cửa cản lại; vài kẻ quá đáng quá thì bị Vân Hương ra lệnh đánh luôn. Có nha hoàn bên người lão phu nhân đến đây làm đám hạ nhân cũng hiểu rằng – Tam thiếu gia được lão phu nhân chống lưng cho rồi; tuy vẫn tò mò, nhưng không dám động tay động chân làm gì nữa, kẻo lại bị đánh cho nát mông.

Mãi cho đến sáng sớm tám ngày sau, quản gia tự mình đến thông báo – Võ An bá sẽ hành quân trở về vào giờ ngọ, lão phu nhân yêu cầu các thiếu gia ra cửa thành đón chào.

Lần này, Ninh Như Hải mang năm vạn quân thủ bị thành Giang Châu ra ngoài luyện binh hơn hai mươi ngày. Vốn chỉ là một đợt thao luyện mùa đông rất bình thường, nhưng vô tình thế nào lại triệt phá được một ổ sơn tặc ở sâu trong núi. Vì lập được chiến công nên lần trở về này khá là đắc thắng, cũng có vẻ đáng được tuyên dương, ngay cả đô đốc thành Tào Quế Xuân cũng tự mình ra cửa thành đón tiếp. Ở đường lớn đối diện cổng thành, cũng đã có từng hàng quân tuần tra từ lâu.

Trên đường đi, Bạch Mai hơi tò mò vén rèm cửa sổ lên, nhìn ra khung cảnh trên đường. Còn Bạch Đàn thì lại khá lo lắng, nói với Ninh Uyên – người vừa lên xe đã nhắm mắt dưỡng thần: "Thiếu gia, chúng ta đã xuất phát muộn rồi, vậy nên đi nhanh chút đi. Nghe nói Nhị thiếu gia đã cưỡi ngựa đỏ mà lão gia ban cho đến đó rồi, ngựa đó nổi tiếng là chạy nhanh, nếu chúng ta đến quá muộn so với Nhị thiếu gia... chỉ sợ người ngoài lại chê cười."

"Thế em nghĩ nếu ta đến sớm thì họ không nói chắc." Ninh Uyên mở mắt ra, nhìn bình tĩnh cực kỳ: "Không phải vội."

Xe ngựa chạy một nén nhang, đến chỗ cách cửa thành tám mươi trượng thì dừng lại – tiếp theo phải đi bộ.

Hai bên đường lớn là hai hàng quân tuần tra rất chỉnh tề, áo giáp thương bạc, dồn quần chúng vây xem về phía sau. Đô đốc Giang Châu – Tào Quế Xuân tự mình đứng chờ ở cửa thành, bên cạnh là vài thủ hạ thân tín, nhìn vẻ mặt rất nghiêm túc và trịnh trọng.

Cách cửa thành không xa là tửu lâu có tiếng ở đây – Tụ Hiền lâu.

Lúc này, ở một căn phòng nhìn ra ngoài trên tầng hai của Tụ Hiền lâu, một công tử trẻ tuổi quần áo gấm vóc đang cầm chén rượu, nhìn xuống đám người khoa trương phía dưới mà đùa: "Nghe nói Tào Quế Xuân có tiếng nịnh bợ từ lâu, đúng là trăm nghe không bằng một thấy. Đón một kẻ giữ quân về thành mà cũng có thể làm như đón đại tướng thắng trận về thế này... Nếu cấp trên của ông ta – Tổng đốc Giang Hoài đến đây, liệu ông ta có biến cả Giang Châu này thành quân tuần tra hết không?"

Nom vị công tử nọ rất thanh tú, khuôn mặt trắng nõn, phong thái tao nhã, vừa nhìn đã biết là kẻ sống an nhàn quen. Uống hết một chén rượu, đôi môi bị rượu thấm ướt của cậu hơi mấp máy, nhìn thanh niên đang ngồi đối diện mình: "Huynh nói xem, có phải không?"

"Dù gì thì Võ An bá cũng từng là Vũ tướng quân. Dù chức quan của Tào Quế Xuân cao hơn ông ta, thì cũng không được phong tước. Với cái kiểu đặt nặng cấp bậc lễ nghĩa quý tộc của Đại Chu các ngươi... thì Tào Quế Xuân làm phô trương thế này cũng không khác người lắm." Thanh niên nói, đoạn cầm bát rượu trắng tinh lên, ngửa đầu uống cạn: "Hơn nữa, đừng có quên vì sao ngươi lại chạy từ kinh thành xa xôi đến đây. Là để quyến rũ nữ nhi của Võ An bá phủ đấy! Giờ chưa gặp đã nói xấu nhạc phụ rồi, có sợ ông ta biết rồi sẽ không chấp nhận người con rể này không?"

"Im ngay cái mỏ quạ đen kia, nếu bản thế tử gặp xui xẻo thật, thì nhất định sẽ hỏi tội huynh đầu tiên!" Quý công tử nọ tái mặt, rầu rĩ kêu: "Aizz, cũng lâu lắm rồi, lúc đó Mạt Nhi còn nhỏ, không biết giờ có còn nhớ ta không..."

"Có khi Mạt Nhi của ngươi đã lập gia đình rồi cũng nên." Thanh niên không nể mặt chút nào, vừa mở miệng đã hắt thẳng một xô nước lên lên đầu đối phương: "Nhưng trên đường đến đây, ta nghe nói – giờ nổi tiếng nhất ở Võ An bá phủ không phải là thần tiên tỷ tỷ Ninh Mạt của ngươi, mà là một kẻ tên Ninh Bình Nhi. Nghe nói nàng ta tuổi trẻ xinh đẹp, tính tình cũng hiền dịu, người đến cửa cầu thân đã xếp dài hai con phố. Miễn cưỡng ra thì cũng xứng với ngươi đấy."

"Hừ! Trên đời này không ai xinh đẹp bằng Mạt Nhi cả! Ninh Bình Nhi ư? Vừa nghe tên đã biết là xấu như ma lem, tục không chịu được!" Quý công tử khoát khoát tay: "Mạt Nhi xinh đẹp như thế, phàm phu tục tử sao xứng với nàng. Nàng lập gia đình rồi thì có sao? Gả đi được thì ly hôn được! Lần này ta đã tới thì nhất định phải cố gắng hết sức, chẳng lẽ lại ngoan ngoãn nghe lời lão già mà cưới Uyển Nghi quận chúa kia à?"

"Thôi thôi, Đại Chu các ngươi có câu – yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Ngươi thích làm quân tử thì cứ đi mà làm, nếu không phải vì cảnh tuyết Giang Châu là một trong mười cảnh đẹp có tiếng của Đại Chu, thì ta cũng chẳng đến đây với ngươi đâu." Thanh niên lại cầm bát rượu lên, tu một hơi hết sạch.

Quý công tử đau lòng vô cùng: "Phí của trời, quá phí của trời! Đây là rượu Ngọc Lâu thượng hạng đấy, người khác muốn gặp còn khó! Phải cẩn thận thưởng thức mới phải, có ai như huynh đâu, uống ừng ực như uống Thiêu Đao Tử*** vậy!"

***đại khái là một loại rượu phổ thông và rẻ tiền chăng...

"Hửm? Đường đường là thế tử nhà Cảnh Quốc Công mà lại không chiêu đãi nổi chút rượu còm à?" Thanh niên lau miệng, môi mỏng bĩu lên: "Mà cái thứ rượu ngon ngươi nói, vào miệng ta lại nhạt như nước lã vậy, chẳng có tí vị rượu nào. Còn không bằng Thiêu Đao Tử!"

"Đồ dung tục!" Quý công tử đặt mạnh chén rượu xuống bàn, rút quạt giấy từ thắt lưng ra, vẩy vẩy mấy cái: "Ta bảo này, dù gì thì hai ta quen nhau cũng lâu rồi, sao huynh không học được nửa điểm ưu điểm của ta thế? Đằng nào cũng mang danh là hoàng tử, thô kệch thế mãi làm gì, không phải mục đích cuối cùng vẫn là cưới một cô nương Đại Chu tươi ngon mơn mởn đó sao?"

"Ưu điểm mà ngươi nói là gì? Khi trời đổ tuyết thì ngồi trong phòng đốt hỏa lô, vừa uống rượu ấm người, vừa phẩy quạt cho mát hử?" Thanh niên cười nhạo chỉ vào cây quạt trong tay đối phương, nhún nhún vai: "Xin lỗi chứ, vì quen một kẻ điên lâu quá nên thành ra ta cũng điên rồi, độ khó quá lớn, thứ cho ta đây khó mà tòng mệnh!"

"Huynh!" Quý công tử vội khép quạt lại, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng: "Được lắm, Hô Diên Nguyên Thần kia! Huynh dám mỉa mai bản thế tử bị điên hả!"

Thanh niên chỉ cười không đáp, đầu ngón trỏ khẽ chuyển động giữa không trung, bắn ra một đạo kình phong, làm chiếc chuông gió gần đó leng keng rung động. Lập tức, cửa nhã gian bị mở ra, tiểu nhị của quán bước vào hỏi: "Hai vị khách quan có gì muốn sai bảo ạ?"

"Cho ta một vò Thiêu Đao Tử, loại mạnh nhất." Đoạn thiếu niên thảy một thỏi bạc ra, ngay ngắn rơi trọn vào tay tiểu nhị.

"Vâng vâng, xin khách quan chờ một chút, rượu lên ngay đây ạ." Tiểu nhị vâng dạ rời đi. Quý công tử trợn trắng mắt, rồi lại nhìn ra ngoài cửa sổ.

Thanh niên cũng rũ mắt xuống, thầm đánh giá biển người đang bị quân sĩ cản lại ở ngã tư đường phía dưới.

Khác với vẻ thanh tú nho nhã của quý công tử nọ, đường nét trên khuôn mặt thanh niên này lại cực kỳ sắc sảo nghiêm nghị. Đôi mày nhếch lên kéo dài đến tóc mai, đôi mắt thâm thúy sắc bén như hùng ưng chốn cao nguyên, cái mũi cao thẳng tạo thành một tỷ lệ hoàn hảo với đôi môi mỏng; đường cong khuôn mặt từ trán đến xương hàm vừa hoàn mỹ vừa góc cạnh. Nhìn hắn có vẻ không lớn lắm, nhưng làn da màu đồng cổ phối với quần áo đơn giản màu đen lại tạo cho hắn một sự thành thục vượt quá tuổi.

Nếu lúc này Ninh Uyên ngẩng lên nhìn thấy hắn, thì nhất định sẽ nhận ra – tuy trông hắn có vẻ kiệt ngạo bất tuân hơn trong trí nhớ, nhưng cảm giác chững chạc và oai hùng mà hắn mang lại thì không sai vào đâu được. Đó chính là hoàng tử Đại Hạ đã lên tiếng biện hộ cho y trên giàn hỏa thiêu kiếp trước – Hô Diên Nguyên Thần.

Nhưng mà, Ninh Uyên lại không rảnh để ngẩng lên. Y vừa xuống xe ngựa, đang được binh sĩ dẫn về phía cửa thành.



Xuống xe rồi, Bạch Đàn nhìn ngó xung quanh, không thấy Ninh Tương đâu thì thở phào một hơi, nói với thiếu gia nhà mình: "Thiếu gia, hình như Nhị thiếu gia chưa đến đâu ạ. Có vẻ như ta đến sớm rồi."

Ninh Uyên gật đầu, đi đến chỗ đám Tào Quế Xuân cách đó không xa, ngoan ngoãn chờ đợi phụ thân mình trở về.

Qua cửa thành mở rộng, đã có thể thấy bóng dáng đội quân rất lớn đang di chuyển về phía này, ai nấy cũng giáp áo chỉnh tề, phản chiếu lấp lóe trên nền tuyết trắng. Dẫn đầu là một người cưỡi ngựa, dáng hình cao lớn, giáp trụ chi tiết hơn một chút, trên đầu đội nón trụ cao ngất biểu trưng cho người cầm trịch. Nón che đi nửa khuôn mặt gã ta, chỉ lộ ra cái cằm lún phún râu mỏng. Có thể nhận ra gã không còn trẻ nữa, nhưng tư thái cưỡi ngựa nom còn rắn rỏi hơn đám thanh niên đang hành quân kia nhiều.

Ninh Uyên lạnh nhạt liếc qua gã ta, rồi lại rũ mắt xuống. Cho dù y biết rõ, người cưỡi ngựa dẫn đầu kia chính là phụ thân của mình – Võ An bá Ninh Như Hải,

Y đã từng ấp ôm một tình phụ tử tha thiết chân thành với gã, nhưng sau khi trải qua bao nhiêu chuyện kiếp trước, tình cảm đó của y đã bị người mài mòn bằng hết rồi. Trái tim y dành cho gã đã giá lạnh, không phải vì gã không phân biệt được đúng sai, đuổi y ra khỏi phủ; mà là vì gã đã bạc tình bạc nghĩa với nương và muội muội y.

Sau khi vào thành, Ninh Như Hải nhảy xuống ngựa, bước nhanh đến chỗ Tào Quế Xuân, gỡ nón xuống khách sáo một hồi. Gã đã hơn bốn mươi, nhưng nơi khóe mắt đuôi mày vẫn lưu lại nét phóng khoáng tự nhiên, có thể thấy, hồi còn trẻ nhất định đã là một mỹ nam tử hiếm có.

Ninh Uyên đang định bước lên nghênh đón, thì bất ngờ nghe một tiếng hí dài cao vút sau lưng: "Tránh ra! Mau tránh ra!"

Y quay lại thì thấy – ở cuối phố, Ninh Tương đang cưỡi con ngựa đỏ cao lớn kia, dẫn theo hai thị vệ, ba người cùng xông thẳng về phía này như một cơn gió. Thấy sắp đến cửa thành, hai thị vệ cùng ghì cương giữ ngựa chậm lại, nhưng con ngựa của Ninh Tương thì còn phi nhanh hơn trước, chỉ trực tông thẳng vào đám người.

"Con ngựa này điên rồi! Mau tránh ra!" Ninh Tương hoảng hốt hô, làm ra vẻ thực sự không khống chế được ngựa. Hắn vừa la to vừa tỏ ra luống cuống, nhưng trong mắt lại xẹt qua một nét tàn độc.

"A!" Tận mắt thấy ngựa lớn càng lúc càng gần mình, Bạch Đàn Bạch Mai sợ đến thét chói tai, vội vã lui về sau. Chu Thạch nhanh tay lẹ mắt kéo người sang một bên, ngựa đỏ kia xẹt qua họ như một cơn lốc, xông thẳng về phía Ninh Uyên.

"Thiếu gia cẩn thận!" Chu Thạch chỉ kịp quát to một tiếng, ngựa đỏ đã giơ cao chân trước trước mặt Ninh Uyên. Chỉ cần một chân nó giẫm xuống, thì y sẽ nát óc tại chỗ, chết bất đắc kỳ tử!

Bị vây quanh bởi quân đội và dân chúng thét chói tai, nhìn Ninh Uyên như sợ đến choáng váng, đứng đờ tại chỗ, không nhúc nhích được.

"Không hay rồi!" Trong nhã gian nọ, Hô Diên Nguyên Thần đứng bật dậy, ngón tay vội vận lực tung bát rượu ra ngoài. Nhưng đã quá muộn – móng ngựa rèn sắt lòe lòe sáng đã bổ xuống, cách trán Ninh Uyên chưa đến một thước —

Trong khoảnh khắc này, không gian xung quanh bỗng như yên tĩnh lại. Ninh Uyên bình tĩnh nhìn móng ngựa đang xông tới, lại nhìn nụ cười dữ tợn của Ninh Tương trên lưng ngựa, bàn tay từ từ nắm chặt.

Y thực sự sợ đến choáng váng ư?

Đương nhiên là không.

Trong nháy mắt móng ngựa bổ xuống, y đột nhiên xoay người, thân thể uốn thành một độ cong kỳ dị mà lủi xuống bụng ngựa. Hừ nhẹ một tiếng, hai đầu gối y run lên, lực đạo luân chuyển từ chân đến eo, từ thắt lưng đến tay, tụ chân khí không ngừng sinh sôi trong cơ thể ở nắm tay, rồi — vững vàng đấm thật mạnh lên bụng ngựa!

Lực va chạm hai bên quá lớn, Ninh Uyên nhìn lớp da dày của ngựa vì bị đấm mà hình thành một vòng sóng gợn; còn y thì bị phản lực quá mạnh bắn ra ngoài, rơi mạnh xuống đất lăn hai vòng, toàn thân dính đầy tuyết.

Ngựa đỏ nọ thì còn thảm hơn. Nó rú lên một tiếng thê thảm, bay thẳng lên trời, xoay một vòng giữa không trung rồi hướng lưng rơi thẳng xuống đất, nặng nề bịch một tiếng chổng bốn vó lên.

"A!!!" Tiếng hét như cắt tiết heo vọng lên từ dưới lưng ngựa – là Ninh Tương miệng mũi đầy máu, bị đè đến không động đậy được: "Cứu.... Cứu ta!!"