Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc

Chương 31: Chuột trong cống ngầm



Trong khi bức thư từ tâm tưởng gửi cho cô giáo cũ đang được Reynie viết với giọng điệu đã có phần lạc quan hơn - trong lá thư ấy có xuất hiện câu “bây giờ, những gì chúng em hy vọng đều phụ thuộc cả vào Kate” - thì Kate lại đang càng lúc càng mất đi sự lạc quan đó.

Vấn đề của cô bé không nằm ở việc tìm căn phòng máy tính bí mật của ngài Curtain. Vấn đề cũng không phải là bị phát hiện.

Ban đầu mọi việc có vẻ tốt đẹp. Kate nhẹ nhàng chui qua mấy chỗ khuất đằng sau ký túc xá, và chẳng mấy chốc đã đến được chỗ mấy tảng đá phía sau Nhà Điều Hành, cô lấy chân đá vào cánh cửa, lao thẳng đến khu đại sảnh. Nhưng đến đây, các sự cố bắt đầu xuất hiện. Phía trên trần chẳng có chỗ nào có thể bò được, và các đường ống dẫn khí thì bé tí. Vì thế, Kate không còn lựa chọn nào khác hơn là lùng sục khu vực đó “giữa thanh thiên bạch nhật”. Hành lang thì sáng như ban ngày, đấy là còn chưa kể đến việc nó chẳng hề ngắn chút nào vì hai hàng cửa hai bên như cứ kéo dài mãi. Tít tận phía xa mới có một ngã rẽ. Vậy mà Sticky lại nói nó ngắn là sao nhỉ?

Bây giờ Kate mới nhớ ra là lúc đó hai cậu bạn của mình bị bịt mắt. Các cậu ấy nghĩ nó ngắn vì chỉ đi có vài bước là Jackson đã đưa chúng qua một ô cửa để đến những bậc cầu thang dẫn lên phía trên ngọn tháp. Chắc là một trong những ô cửa ở ngay phía đầu này. Có nên thử từng ô một không?

Như để trả lời cho câu hỏi của Kate, ở khoảng giữa hành lang, một cánh cửa bỗng bật mở và Jackson bước ra. Kate lập tức lùi lại phía khu sảnh và lắng nghe. Không thấy có tiếng bước chân. Cô bé lén nhìn xuống một lần nữa. Jackson lúc này đang đứng dựa lưng vào bức tường cạnh ô cửa đó, lơ đãng nhai một que kẹo cam thảo. Anh ta có vẻ thảnh thơi, có vẻ là sẽ đứng ở đó trong một khoảng thời gian. Kate mỉm cười nghĩ, giống như là anh ta đang gác những bậc cầu thang dẫn lên phía trên tòa tháp vậy. Vấn đề bây giờ là tìm cách để qua mặt anh ta.

Nấp vào một góc khuất, Kate lôi cái súng cao su ra khỏi giỏ, đặt vào đẩu chun một viên bi, rồi quay lại tiếp tục quan sát Jackson. Một phút chậm chạp trôi qua, rồi một phút nữa. Cuối cùng cơ hội cũng đến: Jackson cúi xuống để thắt lại đai lưng, lẩm bẩm cái gì đó trong miệng. Hoặc là bây giờ, hoặc là chẳng bao giờ nữa. Kate bắn viên bi về phía hành lang.

Viên bi bay vèo qua đầu Jackson, rơi xuống sàn đá ở phía xa tạo nên một âm thanh sáng khoái, trước khi lăn vào trong góc. Jackson nhổ miếng kẹo đang nhai dở xuống sàn và dọa dẫm, “Ai đó?” Rồi chẳng buồn chờ câu trả lời, anh ta chạy về phía góc hành lang. Chỉ đợi có thế, Kate nhẹ nhàng lao vút qua ô cửa mà anh ta vẫn đang canh gác nãy giờ. Trước mặt Kate giờ là một bàn phím số. Cô bé đã không tính đến khả năng này từ trước, nhưng nếu ngài Curtain vẫn chưa đổi mật mã thì... Ngón tay cô bé lướt nhẹ trên bàn phím.

Cánh cửa mở ra. Kate nhảy vọt vào bên trong.

Lúc này Kate mới nhận ra là mình đang ở trong một chiếc thang máy. Một chiếc thang máy ư? Đúng rồi, nếu không thì làm thế nào mà ngài Curtain có thể vào Phòng Thì Thầm trên cái xe lăn đó chứ? Ông ta chắc hẳn không cho phép các Liên lạc viên của mình được sử dụng thang máy - vì ông ta rất thích những điều bí mật mà. Cũng có thể ông ta thích thú với việc tưởng tượng ra hình ảnh bọn trẻ đang khó nhọc bước lên từng bậc cầu thang. Khi cửa thang máy chưa kịp đóng hoàn toàn, Kate nhìn thấy những bậc cầu thang của tòa tháp sau ô cửa phía bên kia hành lang. Vậy là Jackson đang canh gác cho cả hai lối đi.

Chỉ có vài nút bấm ở phía bên trong thang máy. Dù chúng không được dán nhãn, nhưng cũng không quá khó để đoán ra rằng nút bấm trên cùng là cho lối vào ngay bên ngoài Phòng Thì Thầm, và nút bên dưới, rất có thể là dành cho phòng máy tính. Kate thèm khát nhìn cái nút bấm thứ hai đó... nhưng, tất nhiên, cô bé không được bấm nó. Cô bé không thể sử dụng thang máy được. Vì Jackson chắc chắn sẽ nghe thấy. Chắc giờ anh ta đã quay lại vị trí rồi.

Kate tìm cách. Cô bé trút tất cả mọi thứ trong giỏ ra bên ngoài, úp ngược nó xuống đất, và nhón chân đứng lên bên trên, tháo rời bảng điều khiển ở phía trên. Trong đời, chắc chẳng bao giờ cô bé có thể hành động nhanh hơn lần này đâu. Chỉ trong nháy mắt, Kate đã kịp xếp mọi thứ lại vào giỏ, buộc sợi dây vào một chỗ thuận lợi, chui qua chỗ bảng điều khiển vào khoảng không ở phía trên.

Kate vừa kịp lắp lại cái bảng điều khiển thì cửa thang máy mở ra. Kate đứng yên không nhúc nhích. Cô bé nghe thấy tiếng Jackson lầm rầm. Cánh cửa đóng lại.

Kate bật chiếc đèn bút lên. Những sợi cáp thang máy vươn dài mãi, mất hút vào khoảng tối phía trên. Kate cởi giày, tháo tất, đeo tất vào hai bàn tay, rồi đi lại giầy. Cắn chặt chiếc đèn giữa hai hàm răng, Kate nghĩ và hành động luôn để không thể phung phí thời gian được. Còn có cả một quãng đường leo trèo dài và khó khăn đang chờ cô bé ở phía trước.

Kate vượt qua cả một cuộc hành trình rất dài, rất khó khăn chỉ để cảm nhận sự thất vọng. Mặc dù đã có đôi tất bảo vệ bên ngoài, hai bàn tay cô bé vẫn phồng rộp lên; việc leo trèo cũng rất mất sức, và sau cùng cô cũng tìm thấy một dãy ô cửa ở khu vực gần đỉnh tháp, Kate phát hiện ra là mình chẳng thể khiến mấy ô cửa đó mở ra được, cũng chẳng thể nhìn lén qua bất cứ kẽ hở nào của chúng. Mấy ô cửa phía trên (chắc hẳn là dẫn đến dãy hành lang trước cửa Phòng Thì thầm) cũng ở trong tình trạng tương tự. Len lỏi qua mấy cái trục và đống máy móc phía trên thang máy (nếu thang máy chạy lúc đó, hẳn cô bé đã chẳng còn cơ may sống sót), Kate phát hiện ra là miệng lỗ thông hơi mình nhìn thấy lúc nãy không chỉ bị nắp chặt mà còn quá bé để chui lọt. Vì thế, chỉ còn cách là nhìn xuống dưới qua mấy kẽ hở. Tuy nhiên, cố gắng này chỉ mang lại những kết luận chẳng mấy khả quan:

Ở sảnh: hai Tuyển dụng viên, rất to lớn và có vẻ nguy hiểm, cả hai đều đeo đồng hồ sốc điện. Phía sau: cửa kim loại dày với ba ổ khóa tay, một bàn phím số. Các ống dẫn khí: quá nhỏ, ngay cả Constance bé nhỏ cũng không thể chui vừa, kể cả khi có bôi dầu. Trần: không thể đột nhập. Cửa sổ: không có.

Không cửa sổ, có nghĩa là không có hy vọng để đột nhập vào bên trong. Cô bé thậm chí còn chẳng thể vào được căn phòng bên ngoài, nói gì đến phòng máy tính. Thật khó để kìm lại tiếng thở dài. Cô bé đã hy vọng nhiều lắm, hy vọng có thể tự tay phá hỏng Máy Thì Thầm, làm hỏng mấy cái máy tính điều khiển. Cắt các loại đây cáp, tháo rời các chi tiết, ăn trộm những thiết bị không thể thay thế. Khi đó, Kate không chỉ được coi là một anh hùng, mà cô bé còn chứng minh được, dù chỉ một lần, rằng mình có thể làm được mọi thứ một mình - rằng mình chẳng cần đến bất cứ sự giúp đỡ nào. Nhưng giờ đây, Kate nhận ra là mình không làm được. Ít ra là chưa phải bây giờ.

Toàn thân Kate cứng đờ. Vì thất vọng, cô bé đã để mặc mình suy nghĩ vẩn vơ, giờ mới hoảng hốt nhận ra là một trong hai Tuyển dụng viên đang nhòm về phía mình.

“McCraig,” tên Tuyển dụng viên nói với bạn mình, “mày có nhìn thấy là có thứ gì đó ở sau cái lỗ thông hơi này không?”

McCraig lôi ra một cái đèn pin. Chẳng có gì ở đó cả. “Chắc là một con chuột thôi.”

“Một con chuột biết nói sao?”

“Mày ngốc lắm, âm thanh đó không phải đến từ chỗ cái lỗ thông hơi đâu. Các Điều hành viên đang đi lên cầu thang đấy. Điều hành viên mới đi khám phá Học viện vào buổi tối, mày nhớ không?”

Kate, trước đó vừa kịp tránh khỏi cái lỗ thông hơi, cũng nghe thấy những giọng nói đó. Họ đang ở ngay phía bên kia bức tường.

“...một phần của quá trình đào tạo,” S.Q. nói, giọng anh ta đang ngày càng trở nên lớn hơn. “Sau khi anh dẫn em đi một vòng ở trên kia, chúng ta sẽ gặp ngài Curtain, ngài ấy sẽ giải thích cho em hiểu một vài việc.”

“Vâng, anh nói điều đó rồi,” một giọng nói đầy vẻ châm chọc vang lên. Là Martina Crowe. “Nhưng anh đến gặp ngài Curtain làm gì vậy? Anh trở thành Điều hành viên được khoảng một năm rồi còn gì.”

“Ổ, chắc là em chưa nhận ra rồi,” S.Q. nói, “anh tiếp thu vấn đề kém lắm. Đôi khi ngài Curtain lại bắt anh phải tham gia các buổi hướng dẫn như thế này, giúp anh nhớ lại một số việc nhất định.”

Kate nghe thấy một tiếng khịt mũi vẻ khinh bỉ, tiếp theo là giọng Jackson, “Đi tiếp đi, cả hai đứa.” Cô bé cúi người xuống và thử nhìn qua cái lỗ thông hơi lần nữa, nhưng không nhìn thấy Jackson. Lối vào cầu thang bị che khuất.

“McCraig,” Kate nghe thấy tiếng Jackson nói với tên Tuyển dụng viên. “Mọi việc thế nào? Tối nay không có gì bất thường đấy chứ?”

“Tôi đã nói rồi mà, Jackson,” giọng của S.Q. “chắc là một con chuột thôi.”

“Bọn tôi cũng thấy có chuột,” McCraig nói. “Ngoài ra thì không có gì bất thường cả.”

“Jackson cẩn thận quá,” S.Q. ranh mãnh nói.

“Này, chính ngài Curtain muốn an ninh phải được thắt chặt hơn nữa đấy nhé,” Jackson đáp. “Mày lại có vấn đề gì nên phải gặp ngài Curtain à, S.Q.?”

“Tất nhiên là không rồi! Tao đang muốn nói ...”

Kate không nghe được đoạn sau S.Q. nói gì vì đang bận tìm cách để leo xuống chỗ thang máy. Cô bé cần tìm cách lừa được Jackson để chuồn ra bên ngoài. Sau đó thì sao? Hai người kia đến gặp ngài Curtain để làm gì? Có thể sự mạo hiểm của cô bé buổi tối hôm nay sẽ không hoàn toàn vô ích đâu. Vấn đề là phải tìm cách để nghe lén được văn phòng của ông ta. Quá mạo hiểm để lẻn vào Nhà Điều Hành. Nhưng biết đâu có thể tìm ra cách nào khác thì sao?

“Và như cháu thấy đấy Martina,” ngài Curtain nói, “sau Cải tiến, mọi người sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều.”

“Nhưng không phải là tất cả,” S.Q. nói. “Phải không ạ?”

“Gần đúng thôi, S.Q. Thật tiếc vì có một số người mà tính cách buộc họ phải buồn bã trong khi những người xung quanh đều hạnh phúc.”

Martina cười, “Cháu có thể đoán là,” cô ta ranh mãnh nói, “những tâm hồn đó không chỉ không thể hạnh phúc - chỉ điều này thôi cũng đã là bi kịch rồi - mà họ còn hay... gây rắc rối nữa? Việc tẩy não không chỉ giúp những con người đó cảm thấy tốt hơn, mà còn khiến họ dễ quản lý hơn, phải không ạ?”

“Chính xác,” ngài Curtain nói, nhìn Martina với vẻ hài lòng. “S.Q. này, ta đoán lời giải thích đó làm cháu hài lòng rồi, phải không?”

Nếu nó không làm S.Q. hài lòng, thì anh ta cũng cảm nhận sâu sắc rằng mình cần phải hài lòng, cho nên đã cười lớn và nói, “Cháu hiểu, thưa ngài. Tất nhiên rồi.”

Martina dựa người vào ghế. “Nhưng có một điều cháu vẫn chưa hiểu lắm, là tẩy não tiến hành như thế nào. Nó không thực sự xóa đi ký ức?”

“Không hề,” ngài Curtain trả lời. “Bất cứ ai có chút kiến thức về trí óc của con người đều hiểu rằng nó không bao giờ thực sự quên đi cái gì cả. Cho nên xóa bỏ hoàn toàn ký ức là điều viển vông. Cái chúng ta có thể làm được là giấu đi những ký ức khỏi chủ nhân của chúng. Cách so sánh ta thích nhất, là nó cũng giống như ta quét những ký ức đã cũ xuống bên dưới một tấm thảm tinh thần - ở đó chúng sẽ bị lãng quên.”

“Và ai ai cũng sẽ hạnh phúc hơn,” S.Q. nói.

“Đúng thế,” ngài Curtain nói và nhìn sang Martina. Cô ta là một Điều hành viên mới toanh, nhưng lại hiểu biết hơn S.Q. rất nhiều. “Đúng thế, bạn của ta. Ai ai cũng đều hạnh phúc hơn.”

“Điều này chẳng phải rất ngạc nhiên sao?” S.Q. nói với Martina. “Cứ mỗi lần nghe đến đây là anh đều thấy nổi da gà.”

“Cái đó chẳng khác nỗi sợ hãi là mấy đâu,” ngài Curtain nói. “S.Q. cháu có chắc là đã hiểu vấn đề rồi không? Cháu có muốn giải thích cho Martina cách Máy Thì Thầm xử lý nỗi sợ hãi của con người không?”

“Tất nhiên là có ạ,” S.Q. nói, đỏ mặt thẹn thùng. “Đó là, ừm, nhưng…”

“Nhưng cháu đã quên rồi?” ngài Curtain ngắt lời, lén cười với Martina. (Rõ ràng là ông ta thấy thích thú với việc lấy S.Q. làm trò tiêu khiển. Có thể đây là lý do mà ông ta vẫn chưa đá S.Q. ra khỏi đảo, dù đáng ra phải làm việc đó từ vài năm trước rồi.)

“Quên ạ? Ồ, không, không phải!” S.Q. chán nản nói. “Không phải, cháu sẽ không nói là cháu đã quên đâu thưa ngài - không có điều gì thực sự bị quên lãng, chính ngài cũng đã nói thế mà, ha ha...” S.Q. ho. “Chỉ là ngài giỏi hơn cháu rất nhiều thôi.”

“Ta đám cá là đúng thế đấy. Có thể cháu cũng sẽ thấy khả năng thuyết phục của ta hơn cháu nhiều đấy. Được rồi, S.Q. ta sẽ giải thích về điều đó, và cháu cứ gật gù như những lần trước nhé.”

S.Q. gật đầu.

Ngài Curtain quay sang Martina. “Cháu còn nhớ nỗi sợ hãi trong cháu đã tan biến như thế nào lúc cháu ngồi vào Máy Thì Thầm chứ?”

Vẻ mặt Martina bỗng hiện rõ vẻ thèm muốn. “Chắc chắn rồi ạ,” cô ta thì thầm.

S.Q. gật gù.

“Cháu phải nhớ chứ. Một lần nữa ta nói lại, điều kì diệu nằm ở những thông điệp. Máy Thì Thầm của ta thưởng cho sự hợp tác của các cháu những thông điệp có sức mạnh cực lớn, chúng xóa tan những nỗi sợ hãi. Một tiến trình đơn giản. Những nỗi sợ hại chỉ lẩn quất đầu đó ngay phía dưới thôi, và quá dễ để tìm ra chúng đúng không?”

S.Q. gật gù.

“Vậy thì nó chỉ là một sự ảo tưởng thú vị!” Martina nói. “Cho nên nỗi sợ hãi mới trở lại như thế. Cháu đã luôn phân vân về điều này - nhưng khi ngồi ở dưới Máy Thì Thầm thì chúng chạy đi đâu hết, mãi mãi.”

Ngài Curtain cười. “Thật buồn là không phải như vậy. Nỗi sợ hãi chỉ thực sự biến mất khi chúng ta dám đối mặt với nó. Nhưng có ai lại dám đối mặt với chính những nỗi sợ hãi của mình cơ chứ?”

“Không phải là cháu!” Martina nói.

S.Q. đã sắp gật đầu như nãy giờ vẫn làm thế, nhưng phân vân rồi lắc đầu.

“Không ai muốn,” ngài Curtain nói. “Và bây giờ, chúng ta sắp mang đến một sự bình yên như thế, nhưng ở phạm vi lớn hơn rất nhiều. Sau Cải tiến, các cháu biết đấy, dù là nỗi sợ hãi kinh khủng nhất của con người cũng sẽ bị cuốn phăng bởi một thông điệp gần giống với những thông điệp mà cháu nhận được từ Máy Thì Thầm. Sẽ tuyệt lắm!”

“... Cháu không thể đợi được nữa! Cứ nghĩ đến việc có bao nhiêu người sẽ hạnh phúc...” S.Q. kêu lên, không kiềm chế được mình nữa.

“Cứ nghĩ đến việc có bao nhiêu người sẽ hạnh phúc!” Ngài Curtain cười khoái trá. “Cháu sẽ không phải đợi lâu đâu S.Q. Việc chỉnh sửa đang tiến triển nhanh hơn chính ta mong đợi. Giờ thì ta có đủ căn cứ để chờ đợi Cải tiến bắt đầu vào ngày kia - có thể còn sớm hơn nữa.”

“Ngày kia!” Martina kêu lên. “Không thể tin được!” “Đúng thế, cháu may mắn đấy,” ngài Curtain nói.

“Cháu là Điều hành viên cuối cùng được thăng cấp trước Cải tiến đấy. Đó là một truyền thống đáng tự hào, Martina ạ. Biết bao thế hệ các Điều hành viên đã trưởng thành trước cháu, họ đã được phái đến khắp bốn phương trên trái đất này để chuẩn bị cho Cải tiến. Thực tế thì có rất nhiều Điều hành viên đã trở thành những quan chức chính phủ quan trọng.”

“Thế cháu sẽ làm gì?” Martina hỏi, ánh mắt sáng lên vẻ chờ đợi.

“Cháu sẽ bắt đầu với việc giúp đỡ những Máy Quét,” ngài Curtain nói. “Cháu đã được đến Trạm Ký Ức chưa? S.Q. chỉ cho cháu các Máy Quét rồi chứ?”

“Bọn cháu vừa từ đó đến đây ạ. Trông mấy cái máy đó giống hệt Máy Thì Thầm.”

“Đúng thế, nhưng khả năng của chúng yếu hơn Máy Thì Thầm rất nhiều,” ngài Curtain nói, “và hoạt động của chúng cũng đơn giản hơn. Máy Thì Thầm, Martina ạ, là một cái máy nhạy cảm, cân bằng và cần phải có định hướng tinh thần nghiêm ngặt để hoạt động chính xác. Chỉ nó mới có khả năng mang đến Cải tiến.”

Nói đến đây, ngài Curtain ngừng lại, vẻ mặt mơ màng.

“Vậy những cái Máy Quét chỉ biết chôn vùi cảm xúc,” Martina nói. “Chẳng thú vị gì cả.”

“Đúng thế,” ngài Curtain nói. “Chúng chỉ là những công cụ và đơn giản hơn Máy Thì Thầm nhiều, có khi còn chẳng phức tạp hơn mấy cái chổi kim loại là bao. Nhưng mà nếu không như thế thì các Điều hành viên sẽ không thể vận hành được.”

Lần này thì Martina mới là người gật gù, còn S.Q. chẳng phản ứng gì. Gương mặt anh ta đang có một vẻ nghiêm túc khác thường.

“Thưa ngài?” S.Q. rụt rè. “Một ý nghĩ vừa vụt qua đầu cháu.”

Ngài Curtain nhíu mày. “Hay đấy, S.Q. Thế đó là gì?”

“Chúng ta có nên xin phép mọi người không? Ý cháu là, nếu chúng ta đặt bất cứ thứ gì vào đầu họ, thì cũng nên hỏi họ trước chứ ạ?”

Gương mặt ngài Curtain giãn ra song vẻ hoài nghi vẫn hiện diện trên mặt ông bởi ông ta đã khá quen với cách làm việc của đầu óc S.Q. rồi. Thực ra S.Q. đã từng hỏi câu này rồi, nhiều hơn một lần, nhưng quên mất. Với vẻ mặt thích thú nhiều hơn là mất kiên nhẫn, ngài Curtain trả lời, “Nếu hỏi mọi người trước, thì việc làm của chúng ta sẽ không còn ý nghĩa nữa. Cháu có muốn mọi người hạnh phúc không, hay là cháu không muốn?”

“Ồ, có, cháu muốn ạ!”

“Vậy thì câu trả lời sẽ là không, không nên hỏi xin ý kiến mọi người. Cháu có thấy thế không?”

Có vẻ thỏa mãn, S.Q. gật đầu.

“Và vì thế, Martina,” ngài Curtain chốt lại, “cháu có thể không háo hức mong chờ Cải tiến. Nhưng như ta nói lúc nãy đấy, ngày kia, chúng ta...” Ông ta bỗng dừng lại, chăm chú với cái rãnh ngầm dưới sàn. “Cái quái gì thế nhỉ. Ta nghĩ ta nghe thấy có gì đó dưới rãnh.”

“Có lẽ là một con chuột đấy ạ,” S.Q. đánh bạo nói.

“Cái rãnh đấy để làm gì ạ?” Martina hỏi.

“Cháu có muốn nói cho con bé biết không S.Q.?” ngài Curtain nói trong khi vẫn ghé mắt nhìn cái rãnh. “Ta đoán là cháu nhớ điều này, vì những thứ rùng rợn thường là những thứ dễ nhớ nhất mà.”

“À vâng, thưa ngài!” S.Q. trả lời, có vẻ rất háo hức được phô diễn kiến thức của mình. Anh ta hắng giọng và cố làm ra vẻ nghiêm trang. “Em biết đấy, Martina, những ngày đầu, khi Học viện còn đang được xây dựng và có rất nhiều công nhân sống ở trên đảo, gian phòng này được dùng làm nơi mổ thịt. Cho nên, ở đây lúc nào cũng có rất nhiều máu, tất nhiên rồi, và những người mổ thịt phải rửa cho máu trôi xuống cái rãnh đó. Nó thông với một chiếc cống ngầm có nhiệm vụ dẫn mọi thứ trôi ra ngoài cảng. Người ta kể từng đàn cá mập vẫn thường tụ tập ở đó, mùi máu tanh đã lôi kéo chúng đến, và những người công nhân thường vứt chuột xuống cho chúng đấy...”

Nói đến đây, mặt S.Q. sáng bừng lên. Anh ta vừa chợt nhớ ra điều gì đó, rất hiếm khi anh ta nhớ được hai thứ hoàn toàn khác nhau và lại cách nhau chỉ một khoảng thời gian ngẳn ngủi như thế. “Ngài biết không, nửa giờ trước Jackson cũng nghe thấy tiếng một con chuột đấy ạ. Gần đây lũ chuột gây nhiều phiền phức quá.”

“Vấn đề thực sự,” ngài Curtain nói, “là chúng ta nghe thấy chúng, nhưng lại không bao giờ nhìn thấy chúng.

Lăn chiếc xe về phía bàn làm việc, ông ta cầm bình nước nóng S.Q. mới mang vào để pha trà. “Có lẽ là lũ chuột giờ đã giỏi lẩn trốn quá rồi. Tuy nhiên, ta vừa mới nghĩ ra là dù ống dẫn nước thì chỉ vừa cho chuột chui qua thôi, nhưng cái cống thì người cũng có thể chui vừa đấy. Và nó sẽ là địa điểm ẩn náu lý tưởng cho những kẻ nghe lén bạo gan.” Vừa nói, ông ta vừa lao nhanh về phía kia của căn phòng, rót lượng nước còn đang bốc hơi trong bình xuống cống.

Ông ta chờ đợi, chăm chú lắng nghe, nhưng chẳng có âm thanh nào vọng đến tai ông ta, ngoại trừ tiếng chảy ùng ục của nước nóng vừa được rót xuống. “Hừm, có thể đó đúng là một con chuột, hoặc là tiếng tàu thuyền từ ngoài cảng vọng vào.” Ông ta nhìn chằm chằm vào cái bình nước giờ trống rỗng đang cầm trên tay, mải mê suy nghĩ, rồi nói, “Nhưng mà thật sự thì ta đang muốn uống trà, S.Q. ạ, cháu hãy chạy xuống phòng ăn và mang cho ta một bình nước nóng khác nhé. Một ít bánh ngọt nữa. À, ta nên viết ra giấy cho cháu khỏi quên.”

Mảnh giấy ngài Curtain đưa cho S.Q. chẳng có chữ nào liên quan đến nước nóng hay bánh ngọt cả. Đi ngay đến miệng cống chảy ra bến cảng ở phía nam. Cùng với Jackson nữa. Nếu không nhìn thấy ai, lùng sục bãi cát xung quanh xem có thấy dấu chân không. Nhanh lên!

S.Q. đọc qua mẩu giấy, rồi đọc lại một lần nữa, ngước mắt lên nhìn ngài Curtain vẻ bối rối. Ông ta để một ngón tay lên môi. Cuối cùng S.Q. cũng hiểu và vội vàng rời khỏi căn phòng.

Kate đang ghé sát tai vào ống dẫn nước khi cô bé nghe thấy tiếng nước tuôn xối xả, và chỉ vừa kịp rút đầu ra trước khi nước nóng ào chảy tới. Nhưng vẫn có vài giọt rơi vào cổ Kate. Rồi cô bé nghe thấy tiếng ngài Curtain sai S.Q. chạy đi, nghi ngờ đó là một cái bẫy, nên đã nhanh chóng chui về hướng miệng cống phía bờ biển.

Vừa kịp hít được một chút không khí buổi tối bên ngoài, Kate đã thoáng thấy hai bóng người (là S.Q. và Jackson, dù trời quá tối nên Kate đã không biết được điều này) phi ra từ phía Nhà Điều Hành, qua quảng trường và vội vã chạy về phía bờ biển. Chỉ trong vài giây nữa thôi họ sẽ đến chỗ cô bé. Chẳng còn chỗ nào để trốn ngoài mặt nước kia. Kate nhảy xuống nước, lặn sâu. Nước lạnh khủng khiếp - quá lạnh để bọn cá mập có thể tụ tập ở đầy, cô bé hy vọng, vì giờ đây những gì S.Q. nói lúc nãy cứ chập chờn trong đầu. Kate hy vọng việc giết mổ ấy đã diễn ra khá lâu rồi, và lũ cá mập giờ cũng quên mất cái thú tụ tập xung quanh đây rồi. Hơn nữa, chẳng thể quay trở lại bờ được nữa, nên cô bé sẽ phải tiếp tục ngâm mình trong nước thế này.

Thật may vì Kate là một tay bơi cừ khôi. Cô bé nhanh chóng bơi về phía kênh, cố gắng lặn lâu hết mức có thể, thỉnh thoảng ngoi lên một chút rồi lại lặn xuống. Cuối cùng, ngoảnh lại thấy mình đã có một khoảng cách đủ an toàn với bờ biển và thấy mình không bị đuổi theo, Kate mới thở phào nhẹ nhõm. Có thể hai người khi nãy đã không nhìn thấy cô bé. Thế thì tốt. Giờ Kate chỉ cần bơi về phía bên kia, tìm một nơi an toàn, kín đáo.

Rời mắt khỏi bờ biển, Kate nhìn về khoảng nước trước mặt, bỗng chết điếng người.

Trước mắt Kate đang là thứ mà cô bé ít muốn nhìn thấy nhất. Một khối màu đen hình tam giác đang lướt trên mặt nước tối đen tiến về phía Kate. Sự sợ hãi lan dọc khắp cơ thể. Kate lên dây cót, chuẩn bị tinh thần để trôi tuột vào một hàm răng hung ác, lởm chởm, sắc như dao ở đằng kia. Trong cái khoảnh khắc ngắn ngủi chờ đợi ấy, cô bé đã cố gắng để nghĩ xem nên để mình bị giết bởi một hàm răng cá mập thì tốt hơn, hay là nên để mình bị chìm nghỉm trong màn đêm đặc quánh chết tiệt này.

Nhưng chỉ một giây sau, Kate đã nhận ra cái vây cá mập thực ra chỉ là một tảng đá.

Nỗi Sợ hãi trôi tuột đi đâu hết, nhưng ảnh hưởng của nó thì vẫn sâu sắc lắm. Tim đập thình thịch, Kate dáo dác nhìn quanh. Khắp nơi toàn là đá, đá lởm chởm xé rách mặt biển. Trong màn đếm tối tăm, giữa những con sóng vỗ oàm oạp, trông chúng như là đang rẽ sóng lướt trên mặt biển. Một vài tảng đá còn trông rất giống vây cá mập nữa.

“Đành vậy,” Kate nói, vì chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc bơi qua những tảng đá. Sẽ phải thật cẩn thận, không thì bị mấy cái cạnh sắc nhọn kia rạch thành những dải ruy băng mất. Và sẽ phải hi vọng để không có con cá mập thật nào đang lởn vởn giữa mấy tảng đá.