Thất Sơn Truyện

Chương 38: Phần 16: Ca Lâu Thành



*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Lâm Gia Thái Bảo

-

Không cần phải là lục lâm cũng thừa biết lũ bướm mặt người này chỉ có bắt, giết rồi ăn thịt chứ không có ngoại lệ, sát khí phát ra từ chúng làm tôi cảm thấy nghẹt thở vô cùng. Dưới ánh sáng leo lét, tôi bất thần trông rõ mặt bọn nó, chúng có những đốm hoa văn trên mặt, để ý kỹ mới thấy, nếu nhìn sơ ngang thì y hệt như mặt người đang gào khóc. Tôi bất giác bước một bước về sau nhưng bàn tay của anh Hùng đã nhanh chóng áp vào lưng tôi tự lúc nào, anh nói, chỉ sự dụng hơi chứ không thành tiếng: “Đừng có cử động!”, rồi anh ra dấu cho Sinh quăng các cây đuốc đi chỗ khác. Tôi lập tức hiểu ra ý anh, chỉ trong phút chốc thôi nhưng một suy nghĩ lóe ngang ngay khoảnh khắc tay anh chạm lưng tôi, nó vừa đủ để vực dậy một suy nghĩ mà nếu làm ngược lại tôi đã mất mạng: lũ bướm này bị mù. Điều này vốn dĩ cũng không có gì lạ, hang động này gần 2000 năm không có ánh sáng bên ngoài, các loài vật cơ bản đã tiêu biến hẳn cơ quan thị giác. Cả đám cúi sát đầu ngồi thụp xuống, né tránh một đàn bướm khổng lồ lên đến cả ngàn con đang bay tới tấp từ trong ra, lao vun vút lên trần hang, vừa bay vừa kêu réc réc chói tai vô cùng. Một số con lao đến tấn công vào các cây đuốc, ngọn lửa nhỏ nhoi ấy về cơ bản không đủ gây thiệt hại gì, một loáng đã bị chúng nhai sạch sẽ. Loài này tuy không có mắt nhưng các giác quan khác phát triển cực độ, bù đắp hoàn hảo cho đặc tính săn mồi. Đám chúng tôi nằm im bất động, cả thở cũng không dám thở mạnh, đán bướm quái vật cứ bay ra không ngớt, chừng mười phút hơn vẫn nghe những tiếng đập cánh nhức óc, mặt đất thỉnh thoảng lại rung nhẹ không rõ lý do.

Mãi một lúc sau khi tiếng vỗ cánh đã thưa bớt, tôi từ từ nhìn lên trần hang, mặc cho anh Hùng nói đừng lạm dụng Thiên Hổ, tôi lấy tay vuốt mắt nhìn thử, chỉ thấy phía trên dày đặc lũ bướm, nhưng ở rất cao phía trên, tiếng kêu nhỏ hơn nhiều. Tôi ra dấu cho mọi người an toàn rồi, họ mới từ từ ngồi dậy, bò đến một góc khuất rồi thì thầm hỏi thăm nhau có bị gì không. Anh Hùng nói: “Nơi này quỷ quái thật, năm năm qua anh đi tu luyện, săn lan đập miễu có cả mà chưa nghe gì về con bướm mặt quỷ đó hết.”

Tùng vẫn còn chưa hoàn hồn hẳn, run run nói: “Cũng không ít tài liệu nói về loài bướm cổ đại vùng Trung Á, sải cánh khoảng hai mét, nhưng con hồi nãy sải cánh chắc cũng bốn đến năm mét là ít.”

Thùy thêm vào: “Mà sao các con vật ở đây đều khổng lồ như vậy?”

Tùng suy nghĩ một hồi rồi giải thích: “Các loài côn trùng thường có kích thước phụ thuộc vào mật độ oxy trong không khí. Ví dụ vào Kỷ Phấn Trắng, mật độ oxy trong không khí rất lớn, các hóa thạch hoặc đá hổ phách chứa các mẫu vật ong to cỡ con chó là bình thường.”

Anh Hùng nói: “Theo anh thấy, ở dưới này không phải là do mật độ oxy gì như chú em nói đâu, trong giới tụi anh chỉ căn cứ vào sự cân bằng âm dương mà lý giải, vùng Thất Sơn xưa có nói về con thằn lằn, do ăn vật có âm khí cao, vô tình trở thành một điểm thu hút năng lượng, dần to lên trở nên khổng lồ. Dưới này nếu nói do âm dương rối loạn mà sinh vật biến đổi kích thước, theo anh thấy cũng có khả năng.”

Lúc này Tú Linh mới nói: “Mọi người có thấy lũ bướm bay ra khá kỳ lạ không?”

Tất cả chúng tôi đều không hiểu, kỳ lạ chỗ nào? Tú Linh giải thích: “Nếu nói vì bọn mình gây động làm bọn chúng thức giấc khá vô lý, vì nếu như vậy chúng phải bay là là dưới này để tấn công chúng ta chứ sao lại bay tít lên trên kia? Giống như chúng đang sợ thứ gì trong hang chứ không phải chúng ta…” Nói đến đây Tú Linh bỗng ngưng lại, không phải vì cô nói sai gì đó, mà là mặt đất bỗng rung nhẹ nhẹ lên, cảm giác như lúc nãy, nhưng nhịp đều hơn và...gần hơn.

Tùng quay qua lắp bắp: “Co...con gì nữa đây…”

Tôi cũng không bất ngờ với phản ứng của Tùng, từ đầu chuyến đi đến giờ cả đoàn đã gặp biết bao nhiêu loài côn trùng, bò sát, quái thú, con nào con nấy cũng khổng lồ, nếu xuất hiện một loài vật có khả năng làm bọn bướm mặt quỷ sợ đến trốn chạy đi hết, khả năng cao thì bọn đó cũng có kích thước không nhỏ. Thật vậy, lồm cồm bò ra từ trong hang, là một con tắc kè to bằng chiếc xe bus, con này cũng không có tròng mắt, chỉ thấy một lỗ trắng hối, thêm vào đó là lớp lông trông hết sức cứng cáp, trên đó mọc đầy gai nhọn, vùng hốc mắt hõm sâu, mọc lên nhưng thứ lông có đỉnh hình cầu, rất nhiều lớp hình cầu đang đung đưa qua lại, tựa như một con mắt để quan sát bằng các cảm nhận trong không khí. Con tắc kè này đang nhai ngấu nghiến một trong những con bướm mặt quỷ, thấp thoáng trong đó là cánh tay dính đầy máu. Bất giác, Tùng đứng bật dậy, không biết cánh tay đó là của Dũng hay Châu nhưng nó làm gã hết sức xúc động, gã nghẹn ngào rồi gào lên, nhắm thẳng hướng con tắc kè mà xông tới. Thật ra con tắc kè này vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của cả bọn, tiếng la của Tùng đã thu hút sự chú ý của nó, nó quay đầu sang hướng chúng tôi, nuốt ừng ực miếng ăn đang nhai rồi cũng bắt trớn, lấy tư thế, chuẩn bị phóng cái lưỡi dài của mình ra đớp trọn con mồi. Hùng kêu tên Sinh thật lớn rồi kéo cả bọn chạy về phía lớp đổ nát để lẩn trốn. Sinh nghe xong chửi thề mấy tiếng rồi tức tốc chạy về phía Tùng, con tắc kè lúc này há to mồm, bên trong phụt ra cái lưỡi đỏ lờm, âm thanh “phẹt phẹt” của chất nhầy vang lên hết sức tởm lợn. Tùng thấy vậy, hình như gã phát giác ra sự bốc đồng của mình, liền quay đầu lại chạy, khuôn mặt hiện rõ vẻ hốt hoảng. Nhưng làm gì kịp, cái lưỡi đã sát sau ót gã, tưởng chừng như nắm chắc cái chết thì Sinh đã xuất hiện kịp thời, nó đẩy gã Tùng té xống xoài, không còn thời gian để né tránh nên nó bắt chéo hai tay trước ngực, miệng lẩm bẩm gì đó rồi hứng trọn cú móc của chiếc lưỡi, tôi hét lên, chồm cả người dậy nhưng đã bị anh Hùng kéo lại, ánh mắt anh nhìn tôi đanh lắm, một cái nhìn kiểu tin tưởng rõ rệt. Tôi cũng nhớ ra, động tác đó quen lắm, thằng Sinh đã xài trong hang ngải rồi, là Thiên Đăng Ẩn Quang Chú! Nghĩ tới đó, tôi quay ngoắt đầu lại, thấy cái lưỡi của con tắc kè rụt lại giữa chừng rồi phủ xuống, thằng Sinh do bị quấn bên trong nên Thiên Đăng không hề phát sáng. Tôi lo lắng, và cũng cảm nhận được cảm xúc tương tự từ cả đoàn, gã Tùng ngồi dậy, hình như gã đang mếu máo, tôi nghe gã kêu trời, chắc hối hận lắm nhưng vẫn đứng rìa ngoài không dám chạy lại chỗ của Sinh. Đột nhiên, anh Hùng và Tú Linh đứng dậy, trong ánh mắt họ hiện rõ sự nhẹ nhõm. Tôi chưa kịp hỏi thì một tiếng “Xạch” vang lên, Sinh đang bò ra từ cái lưỡi, nhìn sang con tắc kè nó đã nằm lăn quay, bụng vẫn còn nhấp nhô, chắc nó chỉ bất tỉnh. Sinh ho sặc sụa, chửi thề om trời, áo nó đã bị rách. Tú Linh vội vã chạy lại, không nói không rằng châm liên tiếp hàng đống kim vào tay và bả vai của Sinh. Thạch Sinh đã chảy máu!

Tùng thấy cả bọn xuất hiện nên lật đật chạy lại, suýt té mấy lần, đầu tóc gã rối bù, ánh mắt thất thần, miệng mấp máy, gã vừa thoát cơn đại nạn mà. Gã lên tiếng, nói với anh Hùng: “Xin lỗi, xin lỗi, anh đừng la tôi nữa. Tại vì tôi thấy cánh tay của…”

Anh Hùng nhìn Sinh, thấy nó không có phản ứng gì nhưng cũng không mang ý trách móc, anh bảo: “Cái này khác rồi ông anh, nếu là bạn tôi thì tôi cũng hành động như vậy thôi. Chuyện cũng đã qua, Tú Linh làm nhanh lên em, xong rồi mọi người đi tiếp thôi. Lũ bướm ngửi thấy hết mùi nguy hiểm xà xuống thì gay go nữa!”

Tôi hỏi: “Đi đâu anh?” 

Anh chỉ về chỗ tàn tích chúng tôi ẩn nấp lúc nãy, chính là đằng sau của bệ đá trông như sân khấu cải lương rồi nói: “Phía sau có lối đi.” 

Chúng tôi đợi Tú Linh băng bó cho Sinh xong, nó đứng lên vươn vai vài cái rồi còn trách anh Hùng đùn đẩy trách nhiệm, anh Hùng cười hê hê rồi thúc cả bọn đi tiếp. Phía sau bệ đá có một đường hầm, vừa bước vào, nó không chỉ dài mà còn tối nữa, phía cuối đường hầm có đốm sáng mờ, không biết sẽ dẫn chúng tôi về đâu nhưng ít ra còn đỡ hơn chốn quỷ quái này. Tôi nuốt nước bọt, không biết còn thứ ma, quỷ, côn trùng gì trong đây nữa. Xuyên suốt chặn đường, tôi cứ mãi thấp thỏm chờ đợi con gì đó nhảy ra, âm thanh nào đó vang lên, cảm giác như cả đoàn cũng chia chung ý nghĩ. Thế nhưng, không có gì cả. Chính xác đây là quãng đường đi dài nhất mà chúng tôi không bị cái gì làm cho hoảng hồn. Ánh sáng càng rõ dần, lối ra đã ở trước mặt, tôi nhìn lại đoạn đường hầm vừa đi qua mà không khỏi bối rối, mọi người ai cũng vậy, riêng chỉ có gã Tùng là thở phào nhẹ nhõm.

Chúng tôi hồi hộp chui ra, ở ngoài tôi nghĩ chắc không sáng lắm nhưng vì ở trong tối quá lâu, thành ra vô thức cả bọn đưa tay che mắt. Cảnh vật phía trước làm tôi choáng ngợp, một toà thành uy nghi, tráng lệ và hùng dũng hiện lên trong khung cảnh huyền bí, u tối của Bát Quái Động. Không còn nhầm lẫn nữa rồi… Tôi nghĩ thầm trong bụng, hiểm nguy ở phía trước chưa biết ra sao, hiểm nguy ở phía sau khiến tôi vài lần bỏ mạng, tất cả những chuyện đó không bỏ được so với thành quả nhất thời này: chúng tôi đã tới Ca Lâu Thành. Dưới chân là con đường lát đá như bình thường, nó dẫn tới một dãy tường thành được xây lên cao, dãy tường này kéo dài ra một vách núi rồi nối lên chiếc cầu dẫn vào tòa thành khổng lồ, chân cầu là những cột đá tảng to như chiếc xe tải xếp chồng lên nhau, nâng đỡ, bao trùm kiến trúc hùng vĩ phía trên, không biết phía gốc của những chân cầu này là gì, chỉ thấy một màu tối đen như hũ nút. Thỉnh thoảng, trên đỉnh tháp cao nhất của tòa thành, ánh sáng màu đỏ chớp tắt, soi rọi một phần rộng lớn khuôn viên bên ngoài, tôi thấy hai bên cây cầu có những bụi cây không có lá, chúng mọc lên chia chỉa, trông giống những bàn tay gầy còm, da bọc xương đang giơ lên không trung, chết đuối trong dòng sông màu đen. 

Anh Hùng là người bước lên trước nhất, trong khi chúng tôi vẫn còn ngỡ ngàng về vẻ đẹp tráng lệ mà ma mị của Ca Lâu Thành, anh bảo giờ cả đoàn sẽ dùng đuốc chứ không dùng đèn pin nữa, chúng tôi cũng chẳng ai phàn nàn hoặc đặt ra câu hỏi gì cả, dường như đã quen với chuyện làm gì cũng có lý do của anh Hùng. Sẵn tiện, anh châm điếu thuốc, đưa bao thuốc cho Tú Linh, tôi và Sinh, tôi có thử mời Thùy và Tùng nhưng cả hai đều lắc đầu ngao ngán, cả đoàn bỏ ba lô xuống rồi bước đến chỗ bờ vực ngồi nghỉ chân, ai làm việc nấy. Từ lúc ngồi xuống cho đến khoảng mười lăm phút sau, tôi thấy anh Hùng và Sinh cứ đứng ngồi không yên, thằng Sinh nốc vài hơi rượu nhưng mỗi lần trút ngược đít chai, nó đều nhăn mặt. Thú thực tôi cũng có cảm giác bồn chồn, tôi thử sờ lên bả vai, tìm kiếm một cảm giác quen thuộc, nhưng hoàn toàn không có gì cả. Tôi không còn cảm thấy đau nữa. Nếu dùng lô-gic mà giải thích, thì chỉ có một kết luận duy nhất đó là xung quanh không còn nguy hiểm, nhưng về tình về lý thì không đúng chút nào, rìa ngoài Ca Lâu Thành đi đâu cũng gặp ma, quỷ, côn trùng, ngồi yên chưa được năm phút thì đã phải chạy tiếp, thực tình từ lúc vào đường hầm, tôi không dám mong chờ sự an toàn chút nào. Dường như anh Hùng cũng hiểu ý tôi hay sao, anh đến ngồi cạnh, phóng tầm mắt lên tòa thành cao ngất ngưỡng, chỉ vào nó rồi nói: “Mày cũng cảm nhận được đúng không?” Tôi gật đầu, anh tiếp: “Suy nghĩ sơ thì thấy vô lý, nhưng mày cũng nên nhớ một chuyện, trong cuộn da của Thùy có ghi về việc Ca Lâu Vương ngày xưa trừ ma diệt quỷ, có thể ông ta đã đặt trong tòa thành thứ gì đó có uy lực ngất trời, ngăn cho bọn ma quỷ không dám bén mảng đến gần.”

Tôi hỏi: “Ngô Công Kim Thân hả anh?”

Anh lắc đầu: “Không không, viên ngọc rết đó không liên quan. Nó chỉ là viên ngọc hiếm, mang Thái Dương, vậy thôi. Nó tỏa ra dương khí cực mạnh, không thu hút bọn ma quỷ thì thôi chứ làm gì có chuyện trấn yểm, phòng ma.”

“Vậy rốt cuộc là cái gì?”

Sinh xoa xoa vết thương rồi quay sang nói: “Làm sao mà biết được ông ơi, ngoài việc đi vào đó rồi tự mà tìm hiểu.”

Thùy và Tùng chỉ ngồi im lặng, họ vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng không ai lên tiếng. Tú Linh bảo: “Tiền bối của mình đã thiếu gì bài, như bác Ba đó, lập nguyên cái vòng vây xung quanh đảo Bia Mộ, ông nội Ca Lâu Vương này hành tung bí ẩn, mới có hai ghi chép của hai người mà thông tin đã làm mình loạn cả lên, không biết ổng còn giấu cái gì trong đó nữa.”

Anh Hùng gật đầu, thêm vào: “Đúng. Nói ổng có khả năng lập hàng rào trấn yểm cũng không phải nói ngoa, nhưng hàng rào đó (nếu có) cũng là thứ tồn tại để bảo vệ tòa thành. Mình tiến vào là xâm phạm, phải cẩn thận gấp hai gấp ba lần so với lúc đi qua Bát Quái Động.”

Kể từ lúc anh Hùng nói câu đó thì không khí lại trở nên im lặng, mười lăm phút sau cả đoàn lại lên đường. Chiếc cầu vào Ca Lâu Thành dài khoảng một trăm mét, hai bên có bờ tường cao ngang hong, khoảng mười mét trưng tượng chim thần Ca Lâu dang cánh dũng mãnh. Chiếc cầu này được xây nên bằng nhiều loại đá khác nhau, đá nhỏ để lát đường, đá to làm thành lan can, đá khổng lồ làm chân cầu. Hai ngọn đuốc, một của anh Hùng dẫn đoàn, một của Sinh chốt đoàn nhấp nhô soi xuống mặt đường, trông những hòn đá như đang nhảy múa. Ở đây hoàn toàn lặng gió nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác như những bụi cây trụi lá bên dưới đang lắc lư, chực như có con gì nhảy lên thành cầu rồi cả bọn sẽ lại nghĩ cách đối phó, ấy vậy mà chuyện bình thường như thế thôi đã không xảy ra. Chỉ có sự im lặng bao trùm không gian, tiếng đế giày xèn xẹt lết trên nền đá của chiếc cầu, cảm giác nghe được tiếng thở của từng người, tiếng trống ngực dồn như kéo quân. Không lâu sau cánh cửa đã hiện ra phía trước, nó có mái vòm hình thang, màu lam đậm bám trên đó không biết là màu sơn hay màu rêu, những chấm đen như vết ố bám đầy, cánh cửa thành cao chừng ba thước, một đóng, một mở, không có dấu hiệu bị phá hủy. Phía sau cánh cửa là vườn hoa, tôi nghĩ vậy thôi vì nó đã biến thành bãi cỏ, những cây cỏ cao hơn đầu người mà tôi và Sinh đã thấy chỗ tòa tháp bên ngoài. Đi được phân nửa khu vườn, bỗng phần cao nhất của những ngọn cỏ sáng lên, ánh sáng không biết từ đâu rọi vào, nghĩ trong bụng là sắp có chuyện rồi nên chúng tôi ai nấy đều đứng vào tư thế đâu lưng, ẩn nấp vào nhau, chờ điều sắp tới. Nhưng khoảng một phút trôi qua, vẫn không có gì ngoài sự im lặng đáng sợ. Chợt Tùng thốt lên: “Nhìn bên trên kìa!” Nhất loạn, cả bọn ngửa đầu lên thì thấy từ những ô cửa sổ của Ca Lâu Thành hắt ra ánh sáng màu vàng nhạt của ngọn đèn bão, những ngọn cỏ cao xung quanh chính là bị thứ ánh sáng này rọi lên chứ không phải ma quỷ gì hết. Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, muốn giải thích cũng không biết phải nói như thế nào, đành đi tiếp thôi.

Pha lẫn giữa phấn chấn và sợ hãi, chúng tôi tiến đến cánh cửa dẫn vào bên trong Ca Lâu Thành. Cánh cửa này cao khoảng hai mét, không có khóa ngoài, được bao bọc bằng khung màu đen, chẳng biết có phải kim loại hay không, khoen cửa hình tròn được ngậm bởi hai con chim thần, anh Hùng nắm chặt một bên cửa rồi nhìn về phía cả đoàn, ánh mắt ai cũng lộ rõ vẻ căng thẳng, biết rằng nếu tồn tại một vòng trấn yểm thì cánh cửa này chính là thứ kích hoạt nó. Anh Hùng hít một hơi thật sâu rồi hé nhẹ cánh cửa, từ bên trong, ánh sáng màu vàng lọt ra, vẽ một đường chỉ nhỏ trên khuôn mặt anh, anh đưa mắt vào nhìn, tròng mắt đảo liên hồi, đoạn anh sang nhìn cả bọn, gật đầu báo an toàn rồi đẩy cánh cửa ra vừa đủ một người đi, chúng tôi thay phiên nhau bước vào.

Bên trong Ca Lâu Thành...sạch sẽ tinh tươm, những bức tường xây bằng đá tảng được cắt gọt tỉ mỉ, xếp đều vào nhau hết sức đẹp mắt. Tôi nghĩ nơi đây chính xác là chánh điện của tòa thành này vì nó rộng kinh khủng, cao khoảng mười thước, ở bức tường chính giữa là tượng chim thần Ca Lâu La há miệng như đang gầm rú, vung đôi cánh to lớn và cặp móng nhọn hoắt về phía chúng tôi. Hai bên bức tượng có hai dãy cầu thang dẫn lên trên, đếm ra chắc có hơn mấy trăm bậc, tầng trên phủ xuống cờ hiệu của Ca Lâu Thành với hình chim thần vẽ cách điệu, vây quanh là hai nhánh cây tôi không biết tên, chỉ thấy hết sức uy nghi. Trên trần có một cây đèn chùm, trên bệ đèn và tất cả những bức tường xung quanh đều có cấm một thứ gì đó trông như đèn cầy, nhưng có màu xám và được lồng trong khung thuỷ tinh: chính là nguồn ánh sáng mà tôi nghĩ là phát ra từ đèn bão. Thuỳ trầm trồ: “Đèn cầy vĩnh cửu à. Không ngờ chỗ này cũng có thứ đó…”

Sinh cười nhếch mép: “Chà, thấy vậy mà cũng biết nhiều lắm chứ!” 

Tôi gãi đầu, thấy hơi ngượng khi hỏi Thuỳ câu này: “Đèn cầy này cháy vĩnh viễn thật à em?”

Thuỳ nói cũng không hẳn là không bao giờ tắt, nhưng thời gian cháy là rất lâu. Có những ghi chép cho thấy trên khắp thế giới, trong những ngôi mộ cổ được khai quật thường tìm thấy những ngọn đèn trông như đèn cầy, bọc trong một cái khung thuỷ tinh như kiểu chắn gió, kỳ lạ ở chỗ, lúc người ta tìm thấy thì chúng vẫn còn cháy, ngọn lửa ổn định chứ không phải âm ỉ là đằng khác. Dựa vào độ tuổi của ngôi mộ, tính đến thời điểm chúng được tìm thấy thì tuổi thọ của những cây đèn cầy này nằm trong khoảng 500 năm đến 2000 năm. Tùng nghe xong còn nhấn mạnh rằng chúng được tìm thấy trên “khắp thế giới”, từ Syria đến ngôi đền Isis ở Ai Cập; từ phần mộ của Pallas thời La Mã cho đến mộ phần của Tần Thuỷ Hoàng ở Trung Hoa; từ mộ phần của cha hoàng đế La Mã Constantin tại Yorkshire cho đến mộ phần bí ẩn mà một người lính tình cờ tìm ra nằm ở vùng Grenoble ở Pháp. Không ngờ ở Ca Lâu Thành cũng tồn tại sản phẩm sáng tạo tuyệt vời này.

Tôi nhìn cả tòa thành được thắp sáng bởi hàng trăm ngọn đèn cầy vĩnh cửu mà không khỏi trầm trồ, nhưng một ý nghĩ ghê rợn ập đến, tôi xanh mặt quay sang nhìn anh Hùng: “Vậy sao đứng từ xa không nhìn thấy ánh đèn, đến lúc vào khu vườn mới thấy sáng? Có khi nào bị ảo giác nữa không anh?”

Anh bảo: “Không phải đâu, có thể chúng ta bước qua một loại rào cản nào đó, ngăn không cho ánh sáng chiếu ra xa thôi. Mày đừng có cái gì cũng ảo giác ảo giác. Tú Linh đã điểm huyệt rồi!” 

Tôi nhìn sang Tú Linh thấy cô ta đang lườm mình. Định lên tiếng xin lỗi, bỗng tôi nghe từ phía sau bức tượng chim thần một tiếng ồn giống như tiếng nước đổ, sau đó từ hai bậc thang chảy xuống những dòng nước đỏ ối, bốc mùi tanh của máu me và chết chóc. 

-

Hình chỉ mang tính chất gợi ý

Nguồn: google.



chapter content