Thâm Cung

Chương 44



Ban đầu ta xin Lâm Giang vài thang thuốc “tĩnh tâm” chỉ là muốn giả bệnh, ngủ mê một buổi nhằm tránh phiền phức. Không ngờ sau đó lại có thêm ba kẻ treo cổ tự vẫn trong cung, phiền phức càng lúc càng lớn. Theo lí mà nói, một nữ tử vừa phát hiện cả ổ rắn trong chăn mình, tiếp theo lại có thêm ba người chết trong nhà mình thì nhất định vô cùng kinh hãi, không chừng còn sợ quá mà đổ bệnh. Thế nên mấy thang thuốc “tĩnh tâm” kia, ta đành phải uống liên tục ba ngày liền. Trong ba ngày này, đầu óc ta mờ mịt, nửa tỉnh nửa mê, còn hơi nóng sốt nên cứ ngủ li bì suốt, thỉnh thoảng mới tỉnh. Lâm Giang liền tuyên bố rằng ta bị kinh sợ quá độ mà sinh bệnh, cần phải an tĩnh điều dưỡng, không ai được quấy rầy. Hoàng Hậu thấy ta cứ nằm mê mệt bèn cho Xuân Linh đến giúp Ngọc Thủy xử lí công việc. Thượng Cung cục đưa người đến thu dọn thi thể ba kẻ xấu số kia rồi cũng chỉ khám xét qua loa. Vì có Xuân Linh nên bọn chúng đều không dám làm gì quá đáng trong cung của ta. Cuối cùng kết luận là ba cung nữ kia ngày ngày làm việc nặng, sinh lòng oán hận ta cho nên tính kế báo thù, sau đó sợ tội tự sát. Gian phòng đầy tử khí nọ thì bị niêm phong lại. Sau khi xong việc, Xuân Linh bí mật đến thông báo với ta ba người kia kì thực từng có liên hệ với Linh Lung các, nhưng người chết rồi nên không tra thêm được. Kết quả này không ngoài dự kiến của ta, ta nghe rồi cũng để đó thôi.

Dù đã ngưng uống thứ thuốc đó nhưng đầu óc ta còn chưa hết hơi thuốc, vẫn cứ mơ mơ hồ hồ. Nếu không phải ta đã kiểm tra thuốc trước thì nhất định nghĩ Lâm Giang thực muốn đầu độc ta. Đến ngày thứ tư, sau khi ta dùng bữa sáng xong, đương nằm ngủ lơ mơ thì chợt nhận thấy có một bàn tay mát lạnh đặt lên trán mình. Ta muốn mở mắt ra mà không được, đầu vẫn rất nặng, bèn thôi không cố nữa, cứ thế ngủ luôn. Đến trưa tỉnh dậy, Ngọc Thủy mới nói cho ta biết chính là Hoàng Đế đến thăm ta.

“Hoàng Thượng ngồi trông chủ nhân chừng một canh giờ, sau đó mới khởi giá về Cát Tường điện.”

Đã mấy ngày vì tác dụng của thuốc, ta toàn nằm ngủ. Bây giờ tỉnh táo được một chút, Ngọc Thủy bèn đỡ ta ra ngồi dưới tán cây hít thở không khí. Tuy đã trưa nhưng khí trời mùa thu không nóng bức, còn có bóng cây che trên đầu, ta ngồi bên dưới cũng cảm thấy mát mẻ khoan khoái.

“Hoàng Thượng có dặn dò gì không?”

Ta tựa vào lưng ghế, hỏi cho có lệ.

“Hoàng Thượng dặn chúng nô tỳ phải chăm sóc chủ nhân cẩn thận… Người nói chủ nhân bị kinh sợ nhiều rồi, khách khứa không cần biết là ai, nếu không muốn tiếp thì không cần tiếp. À, chỗ chúng ta bây giờ không đủ người. Thượng Cung cục vốn định mang người mới đến cho chủ nhân chọn nhưng Hoàng Thượng đã sai Lý công công dẫn bốn người từ Cát Tường điện đến đây rồi ạ. Nghe đâu đều là cung nữ Ngự tiền, chủ nhân có muốn gặp qua không?”

“Nếu đã là người ở Ngự tiền thì chắc không có gì cần phải dạy bảo đâu. Ngươi sắp xếp cho bọn họ là được rồi.”

Một chiếc lá khô từ trên tán cây nhẹ nhàng buông xuống trước mặt ta. Ta đưa tay vờn lấy, chiếc lá lười nhác đậu lại trong lòng bàn tay ta. Ngọc Thủy cảm thấy ta không có hứng thú nói tiếp chuyện người hầu bèn đổi đề tài:

“Ngọc Nga hôm qua đã tỉnh lại rồi nhưng vẫn chưa xuống giường được. Lâm đại nhân nói không có gì đáng ngại, chỉ là…”

Ngọc Thủy hiếm khi nói năng ấp úng, ta thấy nàng như vậy, tự nhiên có dự cảm không lành, lập tức hỏi:

“Chỉ là thế nào?”

Ngọc Thủy cúi đầu, mí mắt hơi hơi đỏ lên:

“Chỉ là… Trong nọc kim hoàn xà có chất làm tê liệt gân cốt, Ngọc Nga được cứu chữa kịp thời, cánh tay vẫn có thể vận động nhưng cũng bị ảnh hưởng, không còn linh hoạt nữa… Mấy chuyện tỉ mỉ như thêu thùa… Sau này có lẽ không làm được nữa rồi…”

Ta ngẩn người, bàn tay bất giác siết chặt làm chiếc lá khô đang cầm nát vụn lúc nào không hay, đến lúc xòe bàn tay ra, những mảnh lá khô liền bị gió cuốn bay đi mất. Ngọc Thủy xót xa phủi lớp bụi còn dính trên tay ta, khẽ nói:

“Chủ nhân đừng đau lòng… Lâm đại nhân cũng nói nếu chăm chỉ luyện tập thì dù không được như xưa nhưng vẫn có thể khắc phục phần nào…”

Ta ngước nhìn Ngọc Thủy:

“Ngọc Nga biết chưa?”

Ngọc Thủy lắc đầu.

“Thật đáng tiếc. Nha đầu đó thích nhất là thêu thùa.”

Ta nghĩ tới hình ảnh Ngọc Nga thường ngày ngồi bên khung thêu, tay đưa kim, môi mỉm cười rạng rỡ, trò chuyện líu lo… Hình ảnh ấy tươi đẹp biết nhường nào, bây giờ chẳng lẽ không thể nhìn thấy nữa sao? Sự mỏi mệt thoáng chốc đã quay lại, người ta như mềm đi, may mà có lưng ghế chống đỡ, nếu không hẳn sẽ ngã quỵ.

Ngọc Thủy ngồi một bên, nhìn ta chăm chú, muốn nói nhưng lại không cất nổi lời. Ngọc Nga và Ngọc Thủy ở chung một gian phòng, từ lâu đã thân thiết như tỷ muội. Nỗi đau xót này, Ngọc Thủy có lẽ còn tỏ tường hơn ta. Sự lo lắng chứa đầy trong mắt nàng, ép cho nước mắt phải chảy ra ngoài, lăn dài trên má.

Đương lúc ấy, Tiểu Phúc Tử từ xa bước đến, lên tiếng phá vỡ sự bi thương lẩn khuất trong không khí:

“Bẩm chủ nhân, Lâm đại nhân cầu kiến.”

Ngọc Thủy giật mình, vội kéo tay áo lau nước mắt rồi đứng dậy. Ta gật đầu, bảo nàng lui ra. Tiểu Phúc Tử lanh lẹ kéo thêm một cái ghế nhỏ đến kê đối diện chỗ ta. Hắn còn định mang thêm bàn và kỷ trà đến nhưng ta xua tay, bảo không cần. Dù sao Lâm Giang cũng chẳng đến để thưởng trà.

Tiểu Phúc Tử vừa đi, Lâm Giang bèn thong thả tiến vào. Hắn dừng trước mặt ta ba bước, đặt thùng thuốc xuống đất rồi kính cẩn hành lễ:

“Vi thần bái kiến Hòa phi nương nương.”

Ta ngồi thẳng lưng lên, cố mỉm cười với hắn:

“Lâm đại nhân đừng đa lễ. Mau ngồi đi.”

Lâm Giang vâng lệnh, ngồi xuống chiếc ghế Tiểu Phúc Tử bày sẵn, nhưng dáng vẻ lại chẳng được tự nhiên.

“Chẳng hay mấy ngày nay nương nương thấy trong người thế nào?”

Ta day day trán, ai oán nói:

“Thuốc của đại nhân thực tốt. Bản cung cứ tưởng không dậy nổi nữa.”

Lâm Giang biết ta không phải có ý trách cứ hắn, nhưng vẫn gượng gạo giải thích:

“Vi thần vốn nghĩ nương nương chỉ cần dùng một thang, nên mới đưa loại dược lực mạnh như thế. Không ngờ nương nương lại dùng liền ba ngày… Có điều thuốc này chỉ tạo triệu chứng bên ngoài như vậy, không thực sự gây hại gì, nương nương đừng lo lắng.”

Trên cành cao chợt có tiếng chim ríu rít vui tai. Ta ngẩng đầu nhìn lên tán cây trên đầu liền thấy một con chim phiến vĩ nhỏ đang xòe đuôi rỉa lông, thỉnh thoảng lại kêu lên mấy tiếng vui vẻ. Ngay sau đó, lại có thêm một con chim phiến vĩ khác đáp đến bên cạnh. Hai con chim nhỏ ríu rít nhào lộn giữa những tán cây.

Lâm Giang nhìn theo ta, buột miệng cảm thán:

“Đúng là kì lạ. Hoàng cung rộng như vậy mà bọn phiến vĩ tước này chỉ thích vui đùa ở Cẩm Tước cung thôi. Có lẽ vì vậy nơi này mới mang tên Cẩm Tước.”

Ta gật đầu không đáp, ánh mắt vẫn dõi theo đôi phiến vĩ tước hoạt bát ở trên cao.

Lâm Giang nghĩ ngợi một hồi, chợt thở dài rồi lục trong thùng thuốc, lấy ra một cái lọ sứ nhỏ cùng với một tờ giấy đưa cho ta:

“Chuyện vi thần hứa với nương nương, vi thần đã làm xong rồi đây.”

Ta cuối cùng cũng phải dời mắt xuống. Lâm Giang thấy ta có vẻ thờ ơ, bèn hấp tấp nói thêm:

“Thứ này độc tính rất cao, nương nương cẩn thận đừng để chạm vào da thịt…”

Ta gật đầu nhưng không nhìn đến cái lọ, chỉ chuyên tâm đọc tờ đơn thuốc. Lâm Giang làm việc cẩn thận, trên tờ đơn ghi rõ các loại nguyên liệu, phân lượng cùng cách thức điều chế, sử dụng vô cùng tỉ mỉ. Quả nhiên, khi trước ta đã đoán sai một ít.

Từng nét chữ chân phương, rạch ròi trên mặt giấy như in vào tâm trí ta. Thứ này có thể kết thúc cuộc đời Quách Ngữ một cách tồi tệ nhất, bi thương nhất. Chẳng bao lâu sau, phiền phức của Quách Ngữ mang lại cho ta sẽ chẳng còn nữa. Ta lại có thể ngủ ngon một thời gian. Không phải là rất đơn giản sao? Vì sao ta còn cứ phân vân? Vì sao trong đầu ta lại hiện lên nụ cười hoa nhường nguyệt thẹn của Hồ Điệp phu nhân ngày nào?

Mấy hôm nay, trong những giấc ngủ chập chờn, ta rất hay mơ thấy Hồ Điệp phu nhân, thấy lại những khoảnh khắc vui vẻ của chúng ta. Có một lần, ta và bà cũng ngồi dưới tán cây như thế này, chung quanh còn có một vườn hoa thơm ngát, bà từng hỏi ta:

“Đại công chúa thích quân nhân hay là thích văn sĩ?”

Nữ tử ở Bách Phượng đến mười bốn tuổi thì hứa hôn, mười lăm tuổi thì gả đi. Khi ấy ta đã mười sáu tuổi, vậy nên Hồ Điệp phu nhân mới nghĩ đến chuyện hôn nhân đại sự của ta. Ta vẫn còn nhớ mình đã suy nghĩ rất nghiêm túc về câu hỏi ấy:

“Con không được học hành, lời của mấy kẻ văn sĩ con sợ là không hiểu nổi. Con cảm thấy quân nhân tốt hơn.”

Quân nhân như Lý Thanh Phong thì càng tốt.

Dĩ nhiên câu sau thì ta chỉ nghĩ trong lòng thôi. Hồ Điệp phu nhân nghe ta nói xong, hài lòng xoa đầu ta:

“Đại công chúa nói phải. Hồ Điệp nương nương nhất định sẽ tìm cho đại công chúa một quân nhân tốt nhất.”

Đáng tiếc, lời hứa đó Hồ Điệp phu nhân chẳng thể thực hiện được. Mấy tháng sau, bà trúng độc chết thảm, thêm mấy năm sau, ta bị gả đến đây.

Bây giờ nghĩ lại, nếu ngày đó Hồ Điệp phu nhân không bị người ta hại chết thì có lẽ ta đã được gả cho một quân nhân nào đó. Dựa vào hư danh đại công chúa thì chí ít trượng phu của ta cũng phải thuộc hàng phó tướng, may mắn hơn thì còn có thể có tước quân hầu. Nếu bà không chết, ta sẽ không phải gả vào chốn hậu cung sâu không thấy đáy này, cũng sẽ không phải ngày ngày đối mặt với một đám nữ nhân lòng dạ độc địa này, càng không phải lo nghĩ chuyện độc hại kẻ khác như thế này.

Mải mê suy nghĩ, ta chẳng hay mình đã rơi nước mắt từ khi nào. Phải đến lúc Lâm Giang bối rối kêu lên một tiếng, ta giật mình nhìn lại, thấy trang giấy cầm trên tay đã bị ướt mấy đốm mới nhận ra… Bao nhiêu năm đã qua, bao nhiêu chuyện đã đến, thì ra ta vẫn có thể rơi nước mắt vì một kí ức xa xưa. Con người của ta thì ra vẫn yếu đuối như vậy.

“Nương nương… Không sao chứ?” Lâm Giang hoảng hốt nhìn ta, tay chân luống cuống không biết làm gì cho đúng.

Ta lắc đầu, ngượng ngùng lau vội khóe mắt, trong lòng chợt thoáng qua một ý nghĩ, bèn đưa tờ đơn thuốc đến trước mặt Lâm Giang, hỏi:

“Lâm đại nhân, vị thuốc thứ hai và thứ ba trong đơn này, nếu giảm bớt một nửa phân lượng thì thế nào?”

Lâm Giang không dám đến gần ta quá, cố nheo mắt đọc từ xa:

“Ồ, cái đó… Là hai vị thuốc có tác dụng phá hủy tầng bảo vệ của da, dẫn độc chạy trong kinh mạch. Nếu giảm một nửa thì độc chỉ dừng ở ngoài da, cùng lắm là mọc mụn nhọt vài tháng là khỏi, không nguy hiểm đến tính mạng.”

“Có để lại di chứng không?”

“Không có di chứng. Cẩn thận điều dưỡng thì sẽ lại như xưa.”

Ta khẽ gật đầu với hắn, một thoáng do dự hiện lên rồi lại biến mất trong tích tắc. Ta xếp đơn thuốc cất vào tay áo, nói với Lâm Giang:

“Đơn này ta giữ, còn lọ thuốc thành phẩm này đại nhân mang về tiêu hủy đi. Cả nguyên liệu chế thuốc và tất thảy những gì liên quan đến nó đều phải dọn dẹp thật sạch sẽ, không được để lại bất kì dấu vết nào.”

“Vậy nương nương…”

“Nghe lời ta, chuyện này là vì an nguy của đại nhân, xin đại nhân đừng chần chừ.”

Lâm Giang ngơ ngác nhìn ta một chốc, rồi như đã hiểu ý ta muốn bảo vệ hắn, liền cúi đầu, chắp tay vái dài:

“Đa tạ nương nương che chở. Vi thần nhất định xử lí tốt mọi việc.”

Ta mỉm cười, cũng không nói thêm lời khách sáo. Lâm Giang là người cùng chiến tuyến với ta, còn làm cho ta nhiều việc như vậy, ta tất nhiên phải hết lòng bảo vệ hắn. Nhưng ta không phải loại người thi ân bất cầu báo. Ý tốt của ta nhất định phải để kẻ khác hiểu được, nếu không họ làm sao biết đường hồi báo?

***

Hoàng Hậu muốn đem việc trừ bỏ Quách Ngữ giao cho ta, bản thân thì đóng vai mẫu nghi thiên hạ hiền lương đức độ. Thế nhưng mấy việc bẩn thỉu đó ta tất phải khiến nàng tự tay làm. Tờ đơn thuốc nhận từ Lâm Giang, ta cẩn thận chép lại, sau một hồi suy nghĩ đắn đo bèn quyết định giảm bớt một nửa phân lượng hai vị thuốc kia. Dù sao Hoàng Đế đối với Quách Ngữ chẳng có bao nhiêu tình cảm, chỉ cần hủy đi dung mạo nàng ta vào lúc này, sủng ái tự nhiên sẽ hết. Mấy tháng sau, dù dung mạo phục hồi thì Quách Ngữ cũng vẫn trở về làm một phi tần thất sủng, chẳng hại được đến ai nữa.

Quyết định nương tay không có nghĩa là ta không hận Quách Ngữ. Nếu ngày đó người bị rắn cắn là ta, e rằng Ngọc Nga và Ngọc Thủy không xử lý kịp, ta đã thẳng một đường xuống tới hoàng tuyền rồi. Quách Ngữ chẳng những có ý hại chết ta, lại còn khiến Ngọc Nga bị liên lụy như vậy, ta sao có thể không thù ghét ả? Chỉ là dù cho nỗi hận trong lòng lớn tới đâu, ta vẫn không đành lòng đẩy ả vào thảm cảnh của Hồ Điệp phu nhân năm xưa. Ta biết mình mềm yếu, nhưng chút mềm yếu này ta lại chẳng nỡ rũ bỏ, vì ta hiểu nó chính là phần lương tâm còn sót lại trong ta. Lần này, nương tay với Quách Ngữ cũng xem như nương tay với chính lương tâm của mình.

Sau khi giao đơn thuốc mới cho Ngọc Thủy đưa đi Triêu Lan cung, ta cũng đốt bỏ tờ đơn của Lâm Giang. Từ đây việc này không còn can hệ gì đến ta. Hoàng Hậu nương nương muốn giết người, xin tự xắn tay áo lên mà mài dao.

Hoàng Hậu nghe nói ta “kinh sợ quá mà sinh bệnh”, lại đã có thứ mình muốn, liền hào phóng cho ta nghỉ ngơi thêm mấy ngày. Thời gian này, ta ngây ngốc ở trong cung, ngoài Trịnh Vân Anh ra thì không tiếp thêm ai khác.

Từ lúc nhìn thấy đôi phiến vỹ tước đùa nhau trên cành cây hôm đó, ta tự dưng sinh tật thích nhìn ngắm chim chóc ngoài sân.

Đến ở trong Cẩm Tước cung đã lâu nhưng mãi đến khi Lâm giang nói ta mới để ý, quả thực chỉ ở Cẩm Tước cung mới thấy một đám chim chóc ríu rít nhộn nhịp đến thế. Tiểu Phúc Tử biết được, đòi bắt bầy phiến vỹ tước này lại cho ta chơi nhưng ta không đồng ý. Phiến vỹ tước chỉ hoạt bát, sống động khi nó được tự do bay lượn trên tán cây cao. Đem bắt bỏ vào lồng thì sẽ chẳng khác gì một con chim gỗ cứng đờ vô vị. Bản thân ta đã chẳng được tự do, cớ gì phải lấy đi tự do của bầy chim nhỏ đó nữa.

Thế là ta tìm được thú vui mới, mỗi ngày đều bắt bọn Tiểu Phúc Tử bê hẳn một cái sạp nhỏ ra đặt dưới tán cây mát mẻ, ta ngồi ở đó cả ngày, mỏi lưng thì nằm nghỉ ngay tại đó luôn. Ngọc Thủy mang cho ta một ít thóc, ta bèn thử thảy xuống sân, chẳng ngờ bầy phiến vĩ tước kia thực sự dám sà xuống ăn. Ban đầu chỉ một, hai con, về sau thấy không có gì nguy hiểm thì kéo đến cả đàn mười mấy con, vừa mổ thóc vừa chíu chít tranh nhau, rộn ràng cả một góc cung.

Lâm Giang cứ ba ngày tới một lần bắt mạch bình an cho ta. Nhân dịp này, ta nhờ hắn châm cứu cho Ngọc Nga, giúp cánh tay nàng hồi phục lại được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ngọc Thủy thấy tâm trạng nàng u uất, bèn đỡ ra ngồi với ta, chơi cùng bầy chim ồn ào kia, chẳng mấy chốc liền khá lên rất nhiều. Mấy con phiến vĩ tước ham ăn này hóa ra lại có năng lực thần kì khiến người ta phần nào quên đi gánh nặng trong lòng.

Người ta nói phiến vĩ tước rất dạn người, quả chẳng sai. Ta chỉ cho chúng ăn mấy ngày, chúng liền chẳng còn sợ ta nữa, thậm chí còn dám đậu lên tay ta mà xòe đuôi líu lo gì đó.

Hôm nay, đương lúc ta đang ngồi chồm hổm giữa sân, một tay cầm nắm thóc, một tay chầm chậm rướn về phía một con phiến vĩ tước có chùm lông ức màu vàng mà ta gọi là Tiểu Hoàng, cố dụ dỗ nó cho ta sờ một chút thì Hoàng Đế đến. Hắn chẳng thông báo, ta thì đang chăm chú “nài nỉ” Tiểu Hoàng nên không hay biết. Mãi đến khi bầy phiến vĩ tước tham ăn ở chung quanh ta đột ngột bay dạt qua một bên, ta quay người lại mới thấy Hoàng Đế hai tay chống hông, đang nhìn ta với vẻ mặt kì quái. Ta giật mình muốn đứng dậy hành lễ nhưng Hoàng Đế đã vội xua tay cản lại, có vẻ như hắn cũng hứng thú với bầy chim dân dã này, không muốn ta dọa bọn chúng bay đi hết.

Hoàng Đế không nói năng gì, rón rén kéo long bào ngồi xổm xuống cạnh ta, lại còn xòe tay đến trước mặt ta. Ta bốc một nhúm thóc thả vào lòng bàn tay hắn, hắn liền mỉm cười, khẽ khàng thảy vài hạt xuống đất. Đáng tiếc thay cho sự hớn hở của Hoàng Đế, bầy chim chưa thấy hắn bao giờ dĩ nhiên lạ người, chẳng dám lại gần mà chỉ đứng đằng xa rỉa lông rỉa cánh. Hoàng Đế tiu nghỉu nhìn ta như muốn hỏi Trẫm làm gì sai. Bộ dạng của hắn như mèo cụp đuôi, trông rõ buồn cười. Ta mím môi, cố không cười thành tiếng, liếc mắt ra hiệu cho hắn nhìn mình rồi chầm chậm rải một ít thóc xuống đất. Bầy chim này đã quen ta, chẳng đợi ta thu tay về, bọn chúng đã nhanh nhẹn nhảy đến mổ thóc lia lịa. Khi ta xòe bàn tay ra, có một con chim nhỏ thậm chí dạn dĩ đến mức nhảy lên mổ nốt một hạt thóc còn sót lại, sau đó giương cánh rỉa lông một cách đắc ý rồi mới bay đi.

Hoàng Đế tròn mắt nhìn ta thán phục. Dáng vẻ hắn lúc này như đứa trẻ ham chơi, cũng có nét đáng yêu. Ta không muốn hắn thất vọng bèn kéo bàn tay hắn đến trước mặt mình, sau đó một tay giữ tay hắn, tay còn lại nhẹ nhàng rải thóc xuống sân dẫn dụ đám phiến vĩ tước lại gần. Bọn nhóc tham ăn đó quả nhiên cứ đi theo mấy hạt thóc của ta từ đằng xa, càng lúc càng lại gần Hoàng Đế. Cuối cùng, còn một ít thóc, ta rải luôn vào lòng bàn tay hắn. Bầy chim nãy giờ thấy hắn ngồi im như tượng, không có vẻ đe dọa, quả nhiên có con bạo gan nhảy cả lên tay hắn mà mổ thóc.

Trong thoáng chốc, tay Hoàng Đế cứng đờ rồi rất nhanh trở lại bình thường. Ta hết nhìn con phiến vĩ tước gan dạ đang say sưa mổ thóc trong tay Hoàng Đế, lại nhìn đến nụ cười ngây thơ sáng lạn trên mặt hắn, trong lòng bất giác lập đi lập lại một suy nghĩ: Chim nhỏ ơi, vì tương lai cả hai ta, mày nhất định không được đi đại tiện trên tay Vạn tuế gia đâu đấy!

May mắn cho ta, điều ta lo sợ không thành sự thật. Con chim nhỏ kia ăn xong liền rũ cánh bay đi chẳng thèm nhìn lại, thế nhưng nhiêu đó cũng đủ làm cho Hoàng Đế vui vẻ lắm rồi. Hắn phủi phủi tay, trèo lên cái sạp gỗ của ta, nằm vắt chân một cách thoải mái. Đoạn nói:

“Nghe nói nàng kinh sợ đến đổ bệnh, xem chừng vẫn chưa đến nỗi nào.”

Ta cười hì hì, đến ngồi bên cạnh hắn:

“Nhờ phúc trạch của Hoàng Thượng, thần thiếp đã khá nhiều rồi.”

Hắn chẳng đếm xỉa việc tay mình có sạch sẽ hay không, cứ thế véo má ta:

“Còn nói nữa! Nàng không chịu mở cửa ra xem, mấy ngày nay bên ngoài đã loạn đến mức nào, chỉ có mình nàng nhàn nhã như thế!”

Hậu cung vốn dĩ đã loạn rồi, không phải vì ngươi nâng đỡ Quách Ngữ mới thành như vậy sao? Còn dám đến đây trách ta.

Ta lúc lắc đầu, muốn gỡ tay Hoàng Đế ra mà không được, đành toét miệng cười cầu hòa:

“Hoàng Thượng bảo thần thiếp nghỉ ngơi, thần thiếp không phải đang tuân lệnh hay sao?”

Hoàng Đế bĩu môi, véo mạnh vào má ta một cái nữa rồi mới chịu buông tay. Ta bị đau lại chẳng dám làm gì, chỉ có thể ở trong lòng mắng hắn một trận. Hắn làm bộ không thấy vẻ mặt ấm ức của ta, đột ngột hỏi:

“Trẫm bảo nàng thêu túi thơm khác cho trẫm, đã làm chưa?”

“… Chưa ạ.”

“Đúng là lười nhác. Hết bệnh rồi thì ngày mai phải bắt tay vào làm ngay, không được chậm trễ.”

Hoàng Đế lườm ta, rồi chỉ tay lên trời, nói tiếp:

“Thêu cho trẫm hình này.”

Ta ngẩng đầu nhìn theo tay hắn mới thấy nơi tán cây trên đầu bọn ta có một đôi phiến vỹ tước đang quấn lấy nhau, xòe đuôi chao lượn ríu rít giữa những cành cây xanh ngắt, vừa vui vẻ vừa ung dung tự tại.

Lòng ta hơi xao động, nhưng lại có một ý nghĩ khác mãnh liệt hơn ùa đến, khiến ta phải nhẩm thầm không biết bao nhiêu lần: Hai vị tiểu bằng hữu, vì tương lai của tất cả chúng ta, ngàn vạn lần không được đại tiện lên đầu Vạn tuế gia đâu đấy!