Percy Jackson Tập 3: Lời Nguyền Của Thần Titan

Chương 14: Tôi gặp vấn đề ở đập



Ở rìa của núi rác, chúng tôi tìm thấy một chiếc xe cứu hộ cũ đến nỗi nó có thể đã tự ném mình đi. Nhưng động cơ xe vẫn khởi động được và còn đầy bình xăng nên chúng tôi quyết định mượn nó.

Thalia lái xe. Cô ấy không có vẻ choáng như Zõe, Grover hay tôi.

“Những bộ xương vẫn đang ở bên ngoài” cô nhắc nhở. “Chúng ta cần phải đi tiếp.”

Cô ấy đưa chúng tôi qua sa mạc dưới bầu trời xanh trong, cát sáng đến chói mắt. Zõe ngồi phía trước cùng với Thalia. Grover và tôi ngồi sau thùng xe, tựa người vào tời thuỷ lực. Không khí mát và khô, nhưng thời tiết đẹp này cũng chỉ như sự sỉ nhục khi để mất Bianca.

Tay tôi nắm quanh bức tượng nhỏ đáng giá cả mạng sống của cô ấy. Tôi vẫn không thể nói đó là vị thần nào. Nico sẽ biết.

Ôi thánh thần ơi... tôi định nói gì với Nico chứ?

Tôi muốn tin rằng Bianca vẫn còn sống ở đâu đó. Nhưng tôi có linh cảm xấu là cô ấy sẽ ra đi mãi mãi.

“Đáng lẽ phải là tớ,” tôi nói, “đáng lẽ tớ phải đi vào trong gã khổng lồ đó.”

“Đừng có nói vậy” Grover hoảng sợ. “Đã đủ tồi tệ khi Annabeth đi mất, và giờ là Bianca. Cậu nghĩ mình sẽ chịu đựng được nếu...” Cậu ấy sụt sịt. “Cậu nghĩ ai nữa sẽ trở thành bạn tốt của mình đây?”

“À, Grover...”

Cậu ấy lau nước mắt bằng miếng vải đầy dầu đến nỗi khuôn mặt lấm lem như vừa hoá trang. “Tớ... tớ không sao.”

Nhưng cậu ấy không ổn tí nào. Kể từ cuộc chạm trán ở New Mexico- bất kể chuyện gì xảy ra khi ngọn gió đó thổi qua - cậu ấy dường như khá yếu ớt, dễ xúc động hơn bình thường. Tôi thậm chí còn sợ khi phải nói với cậu ấy về chuyện đó, vì có thể cậu ta sẽ bắt đầu kêu khóc ầm ĩ.

Ít nhất có một điều hay khi có một người bạn lập dị hơn mình. Nó làm cho tôi nhận ra rằng mình không thể cứ buồn phiền mãi được. Tôi phải bỏ việc nghĩ về Bianca sang một bên và tiếp tục tiến lên phía trước, theo cái cách mà Thalia đang làm. Tôi tự hỏi không biết Thalia và Zõe đang nói gì ở phía trước xe cứu hộ.

Chiếc xe cứu hộ chạy đến bên hẻm núi và dòng sông thì hết xăng. Thế cũng không sao bởi cũng hết đường đi rồi.

Thalia bước ra và đóng sầm cửa lại. Ngay lập tức một chiếc lốp xe nổ. “Tuyệt. Giờ thì gì đây?”

Tôi nhìn qua phía chân trời. Cũng chẳng có gì nhiều để nhìn. Sa mạc ở mọi hướng, thỉnh thoảng một vài tảng núi khô cằn rơi tõm xuống đâu đó. Hẻm núi là thứ duy nhất thú vị. Bản thân con sông không lớn lắm- có lẽ năm mươi thước ngang, nước xanh với ít thác ghềnh. Nhưng nó tạc thành vết sẹo khổng lồ cho sa mạc. Những vách đá dựng đứng bên dưới chúng tôi.

“Có một con đường” Grover nói. “Chúng ta có thể đi tới sông.”

Tôi cố nhìn cái mà cậu ấy đang nói, và cuối cùng cũng thấy một bờ nhỏ lượn xuôi mặt xuống vách núi. “Đó là một con đường mòn dành cho dê.”

“Sao ?” cậu hỏi.

“Chúng ta không phải là dê.”

“Chúng ta có thể làm được,” Grover nói “Tớ nghĩ vậy.”

Tôi suy nghĩ về điều đó. Tôi đã từng leo vách trước kia nhưng không thích thú tẹo nào. Sau đó tôi nhìn qua Thalia và thấy cô ấy mới nhợt nhạt làm sao. Cô gặp vấn đề với độ cao... cô ấy không bao giờ có thể làm được.

“Không” tôi nói. “À, tớ nghĩ rằng chúng ta nên đi ngược dòng bên kia.”

Grover nói “Nhưng..”

“Thôi nào” tôi nói. “Đi thế này không làm đau chúng ta đâu.”

Tôi đưa mắt nhìn Thalia. Mắt cô ấy nói: cảm ơn.

Chúng tôi đi dọc theo con sông khoảng nửa dặm thì gặp một con dốc dễ đi hơn dẫn xuống nước. Trên bờ có một nơi cho thuê xuồng đang vào mùa nghỉ. Nhưng tôi để lại một khối lớn đồng vàng drachma ở quầy thu ngân và một tờ giấy nhắn với dòng chữ: I.O.U hai chiếc xuồng.

“Chúng ta cần phải đi ngược dòng” Zõe nói. Đây là lần đầu tiên tôi nghe cô ấy nói kể từ khi ở bãi chứa rác. Và tôi lo lắng thấy cô ấy có vẻ bất ổn, giống như là bị cảm cúm vậy.

“Thác chảy siết quá.”

“Để đó cho tôi” tôi nói. Chúng tôi đặt xuồng vào dòng nước.

Thalia kéo tôi sang một bên khi chúng tôi cầm lấy mái chéo. “Cảm ơn vì điều hồi nãy nhé.”

“Đừng nhắc làm gì.”

“Cậu có thể thật sự... Cô ấy hất đầu về phía dòng thác. “Cậu biết đấy.”

“Tớ nghĩ là được. Tớ khá giỏi ở dưới nước.”

“Cậu sẽ chở Zõe nhé.” Cô ấy hỏi. “Tớ nghĩ, à, có lẽ cậu có thể hỏi cô ấy.”

“Cô ấy sẽ không thích điều đó đâu.”

“Xin cậu đấy. Tớ không biết liệu tớ có thể cùng ở trên thuyền với cô ấy không. Cô ấy... cô ấy làm tớ lo lắng.”

Đó là điều cuối cùng mà tôi muốn làm, nhưng rồi tôi cũng gật đầu đồng ý.

Đôi vai của Thalia thả lỏng. “Tớ nợ cậu lần này.”

“Hai.”

“Một và một nửa.” Thalia nói.

Cô ấy cười. Và trong một giây tôi nhớ rằng mình thật sự thích Thalia khi cô ấy không la tôi. Cô ấy quay ra giúp Grover đưa xuồng của họ xuống nước.

Hoá ra, tôi thậm chí không cần điều khiển dòng nước. Ngay khi chúng tôi xuống sông, tôi nhìn ra cạnh xuồng và thấy 2 nữ thuỷ thần đang nhìn mình chằm chằm.

Họ trông giống như những cô nữ sinh bình thường - những người bạn mà có thể gặp ở bất kỳ khu mua sắm nào- ngoại trừ một điều là họ đã ở dưới nước.

Chào, tôi nói.

Họ tạo tiếng bong bóng mà có thể là tiếng cười rúc rích. Tôi cũng không chắc. Tôi đã có một khoảng thời gian khó khăn để hiểu được về những nữ thuỷ thần.

Chúng tôi đang đi ngược dòng. Tôi nói. Các cô có thể...

Trước khi kết thúc câu nói, hai nữ thuỷ thần mỗi người chon một chiếc xuồng và bắt đầu đẩy chúng tôi đi ngược dòng sông. Chúng tôi khởi hành nhanh đến nỗi Grover ngã chổng vó trên thuyền.

“Tôi ghét các nữ thuỷ thần.” Zõe càu nhàu.

Một dòng nước bắn lên từ phía đuôi thuyền đập vào mặt Zõe.

“Quỷ cái.” Zõe đi lấy cung, nhưng tôi can, “Ôi, họ chỉ đang chơi đùa thôi.”

“Các linh tinh nước đáng nguyền rủa kia. Họ chẳng bao giờ tha thứ cho mình.”

“Tha thứ cho cô cái gì?”

Cô ấy đeo cung trở lại vai. “Đã lâu rồi. Đừng để ý.”

Chúng tôi xé nước lao nhanh về phía trước, những vách đá hiện ra hai bên.

“Chuyện xảy ra với Bianca không phải lỗi của cô,” tôi nói với cô ấy. “Đó là lỗi của tôi. Tôi đã để cô ấy đi.”

Tôi nghĩ điều này sẽ tạo cớ cho Zõe mắng mình. Nhưng ít ra nó có thể làm cho cô ấy thoát khỏi cảm giác sầu muộn.

Ấy vậy mà đôi vai cô ấy sụp xuống. “Không, Percy, chính tôi đã lôi kéo cô ấy vào cuộc tìm kiếm này. Tôi đã quá lo lắng. Cô ấy là một con lai rất mạnh. Cô ấy còn có một trái tim nhân hậu nữa. Tôi... tôi nghĩ là cô ấy sẽ trở thành người trợ lý tiếp theo cho thần nữ thần Artemis.”

“Nhưng cô mới là trợ lý.”

Cô ấy nắm chặt chiếc đai da của bao đựng tên. Trông cô ấy còn mệt mỏi hơn nhiều so với trước đây. “Không có gì có thể kéo dài mãi mãi, Percy à. Hơn hai nghìn năm, tôi dẫn đầu Thợ săn. Sự thông thái của tôi cũng chẳng tiến bộ hơn được chút nào. Bây giờ nữ thần Atemis đang gặp nguy hiểm.”

“Nghe này, cô không thể tự đổ lỗi cho mình vì điều đó.”

“Giá như tôi cứ nhất quyết đi cùng cô ấy...”

“Cô nghĩ là mình có thể chống lại cái gì đó mạnh đến nỗi có thể bắt cóc được nữ thần Atemis sao? Cô sẽ chẳng thể làm được gì.”

Zõe không trả lời.

Những vách đá chạy dọc theo dòng sông ngày một cao hơn. Những bóng dài đổ xuống sông làm cho không khí lạnh hơn nhiều mặc dù trời vẫn còn sáng.

Không nghĩ về điều đó nữa. Tôi lấy cây Thuỷ triều ra khỏi túi. Zõe nhìn nó và vẻ mặt nom rất đau khổ.

“Cô đã làm ra nó.” Tôi nói

“Ai bảo cậu?”

“Tôi đã mơ thấy.”

Cô ấy chăm chú nhìn tôi. Tôi chắc rằng cô ấy sẽ bảo là tôi điên, nhưng cô chỉ thở dài. “Đó là một món quà, và cũng là một sai lầm.”

“Người anh hùng đó là ai?” tôi hỏi.

Zõe lắc đầu. “Đừng bắt tôi phải nói tên anh ta. Tôi đã thề không bao giờ nói đến một lần nữa.”

“Cô hành động cứ như là tôi cũng biết anh ta vậy.”

“Tôi chắc chắn cậu biết, người anh hùng ạ. Không phải con trai các cậu ai cũng muốn được như anh ấy sao?”

Giọng cô ấy trở nên cay đắng khiến tôi quyết định không hỏi cô ấy có ý gì nữa. Tôi nhìn xuống cây Thuỷ triều và lần đầu tiên tự hỏi liệu nó có bị nguyền rủa không.

“Mẹ cô là một nữ thuỷ thần ?” tôi hỏi.

“Đúng vậy. Là Pleoine. Bà ấy có năm người con gái. Chị em tôi và tôi. Chị em Hesperides.”

“Đó là những cô gái sống trong khu vườn ở rìa Tây, với một trái táo vàng và một con rồng canh giữ nó.”

“Phải.” Zõe nói một cách đăm chiêu. “Ladon.”

“Nhưng không phải chỉ có bốn chị em thôi à?”

“Bây giờ là vậy. Tôi bị đi đày. Bị quên lãng. Bị xoá sạch đi như tôi chưa từng tồn tại.”

“Tại sao vậy?”

Zõe chỉ vào cây bút của tôi. “Tôi đã lừa dối gia đình và giúp một anh hùng. Cậu cũng không thể tìm thấy điều này trong truyền thuyết đâu. Anh ta không bao giờ nói về tôi. Sau khi anh ta trực tiếp tấn công Ladon thất bại, tôi gợi ý cho anh ta làm thế nào để lấy cắp trái táo, làm thế nào để đánh lừa cha tôi, nhưng anh ta đã giành hết công trạng.”

“Nhưng...”

Tiếng nói ríu rít của các thuỷ thần vang lên trong đầu tôi. Chiếc xuồng đi chậm lại.

Tôi nhìn về phía trước và hiểu tại sao.

Họ đã đưa chúng tôi đi xa nhất có thể. Dòng sông đã bị chặn. Một con đập có kích thước bằng cả một sân bóng đá đang chắn đường chúng tôi.

“Đập Hoover.” Thalia nói. “Nó lớn thật đấy.”

Chúng tôi đứng ở rìa sông nhìn lên đường bê tông cong hiện ra lù lù giữa vách đá. Mọi người đang đi dọc trên đỉnh con đập. Họ nhỏ bé đến nỗi trông như những con bọ.

Các nữ thuỷ thần rời đi với rất nhiều tiếng lầm bầm - không phải lời tôi có thể hiểu được, nhưng hiển nhiên là họ ghét việc con đập này chặn mất dòng sông đẹp. Xuồng chúng tôi trôi lại về xuôi dòng, cuốn đi theo làn nước chảy ra từ lỗ thoát nước của con đập.

“Cao hơn hai trăm mét.” Tôi nói. “Xây dựng vào những năm 1930.”

“Năm triệu mẫu khối nước.” Thalia nói.

Grover thở dài. “Công trình xây dựng lớn nhất ở nước Mỹ.”

Zõe nhìn chúng tôi. “Làm sao các cậu biết hết thế.”

“Annabeth.” Tôi nói. “Cô ấy thích các công trình kiến trúc.”

“Cô ấy say mê các công trình.” Thalia nói.

“Cứ thao thao bất tuyệt suốt ngày.” Grover sụt sịt. “Thật là phiền phức.”

“Tớ ước gì cô ấy có ở đây.” Tôi nói.

Những người khác gật đầu. Zõe vẫn đang nhìn chúng tôi lạ lẫm, nhưng tôi không quan tâm. Dường như số phận ác nghiệt đã đưa chúng tôi tới đập Hoover, một trong những nơi Annabeth yêu thích nhất, và cô ấy lại không có ở đây để ngắm nhìn nó.

“Chúng ta nên đi lên trên đó.” Tôi nói. “Vì cô ấy, chỉ để nói ràng chúng ta đã ở đây.”

“Cậu đúng là mất trí.” Zõe nói. “Nhưng đó là đường đi.” Cô ấy chỉ vào cái gara vĩ đại bên cạnh đỉnh con đập. “Và đúng là thật đáng để thưởng ngoạn.”

Chúng tôi phải đi bộ gần một giờ trước khi tìm thấy con đường mòn dẫn tới đường lớn. Nó dẫn tới bờ đông con sông. Chúng tôi đi tản mác về phía con đập. Trên đỉnh gió thổi lạnh. Ở bên là một cái hồ lớn trải rộng, bao quanh bởi những ngọn núi sa mạc khô cằn. Còn phía bên kia, con đập dựng đứng như một dốc trượt ván nguy hiểm nhất thế giới, xuống tới dòng sông hai trăm mét phía dưới, và nước khuấy tung lên từ những cửa thoát.

Thalia đi ở giữa đường cách xa hai bên lề. Grover tiếp tục đánh hơi trong gió và trông hoảng sợ. Cậu ấy không nói gì, nhưng tôi biết cậu ấy đã đánh hơi thấy lũ quái vật.

“Chúng tới gần chưa?” Tôi hỏi.

Cậu ấy lắc đầu. “Có lẽ là chưa. Gió ở trên đập, sa mạc bao quanh chúng ta... mùi có thể mang đến ở cách đây hàng chục dặm. Nhưng nó tới từ nhiều hướng khác nhau. Tớ không thích vậy.”

Tôi cũng không thích. Giờ đã là thứ Tư - chỉ hai ngày nữa là đến ngày Đông chí, và chúng tôi còn cả đoạn đường dài phải đi. Chúng tôi không muốn có thêm con quái vật nào nữa.

“Có một quán bán đồ ăn nhẹ ở nơi đón khách.” Thalia nói.

“Trước đây cậu đã từng đến đây à?” tôi hỏi.

“Một lần. Tớ gặp những người bảo vệ.” Cô ấy chỉ về điểm xa ở cuối con đập. Tạc vào bên vách đá là một plaza nhỏ với hai tượng lớn bằng đồng. Chúng giống như tượng Oscar có cánh.

“Chúng được dâng tặng cho thần Zeus khi chúng được xây xong.” Thalia nói. “Một món quà từ nữ thần Athena.”

Khách du lịch đang xúm quanh chúng. Có vẻ như họ đang ngắm chân tượng.

“Họ đang làm gì vậy?” tôi hỏi.

“Xoa ngón chân tượng.” Thalia nói. “Họ nghĩ như vậy sẽ may mắn.”

“Tại sao?”

Cô ấy lắc đầu. “Những con người có ý tưởng điên rồ. Họ không biết những bức tượng này của thần Zeus, nhưng họ biết chúng có gì đó đặc biệt.”

“Lần trước cậu ở đây chúng có gì nói với cậu không?”

Vẻ mặt cô ấy tối sầm lại. Tôi có thể nói trước đây cô ấy đến đây với hi vọng chính xác là - có dấu hiệu nào đó từ cha cô ấy. Sự liên hệ nào đó. “Không, chúng không làm gì cả. Chúng chỉ là những bức tượng kim loại to lớn.”

Tôi nghĩ đến bức tượng kim loại mà chúng tôi vừa mới gặp. Nó ở tình trạng không tốt cho lắm. Nhưng tôi quyết định không nói đến điều đó.”

“Chúng ta hãy đi tìm quán bán đồ ăn nhẹ của đập đi.” Zõe nói. “Chúng ta nên đi ăn khi còn có thể.”

Grover phá lên cười. “Quán bán đồ ăn nhẹ của đập?”

“Đúng vậy. Có gì buồn cười sao?”

“Không có gì.” Grover nói, giữ mặt nghiêm nghị. “Mình có thể dùng một ít khoai tây chiên kiểu Pháp của đập.”

Thậm chí đến Thalia cũng cười. “Còn mình cần dùng cái toilet của đập.”

Có lẽ chúng tôi đã quá mệt mỏi và căng thẳng, nhưng tôi bắt đầu nói phách và Grover, Thalia cũng nhập cuộc , trong khi Zõe chỉ nhìn chúng tôi. “Tôi không hiểu gì cả.”

“Tôi muốn dùng đài phun nước của đập.” Grover nói.

“Và...” Thalia nói, cố lấy hơi. “Tôi muốn mua một cái áo phông của đập.”

Tôi chen vào. Và tôi còn có thể cứ cười cả ngày, nếu như sau đó tôi không nghe thấy tiếng Moooo vang lên.

Nụ cười tan biến trên khuôn mặt tôi. Tôi tự hỏi có phải tiếng động này chỉ xuất hiện trong đầu tôi không, nhưng Grover ngừng cười. Cậu ta nhìn quanh bối rối. “Có phải mình nghe thấy tiếng bò không nhỉ?”

“Một con bò của đập.” Thalia cười.

“Không.” Grover nói. “Tớ nói nghiêm túc đấy.”

Zõe lắng nghe. “Tôi chẳng nghe thấy gì cả.”

Thalia nhìn tôi. “Percy, cậu ổn chứ?”

“Ừ.” Tôi nói. “Các cậu vào đi. Tớ sẽ vào ngay.”

“Có chuyện gì à?” Grover hỏi.

“Không có gì.” Tôi nói. “Tớ... tớ chỉ cần một phút. Để suy nghĩ.”

Họ do dự. Nhưng tôi đoán là do tôi khá bối rối, vì thế mà cuối cùng họ cũng vào trong nơi đón tiếp khách mà không có tôi. Ngay khi họ đi khỏi. Tôi chạy ngay xuống bờ bắc con đập và nhìn xuống.

Moo.

Nó đang ở khoảng chín mét dưới lòng hồ, nhưng tôi có thể nhìn thấy nó rõ ràng - một người bạn của tôi từ Long Island South, Bessie, một cô bé bò rắn.

Tôi nhìn quanh. Có vài tốp trẻ con đang chạy dọc con đập, nhiều người cao tuổi, một vài gia đình. Nhưng không ai có vẻ để ý đến Bessie.

“Mày làm gì ở đây vậy?” tôi hỏi.

Moo!

Giọng của nó rất khẩn cấp, có vẻ như đang muốn cảnh báo với tôi điều gì.

“Làm sao mày tới được đây?” Chúng tôi đã đi xa Long Island cả nghìn dặm rồi. Nó không thể nào bơi cả chặng đường đến đây được. Và thế đấy, nó đã ở đây.

Bessie bơi thành vòng tròn và húc đầu bên cạnh con đập. Moo!

Nó muốn tôi đến với nó. Nó đang bảo tôi phải nhanh lên.

“Tao không thể.” Tôi nói với nó. “Các bạn tao đang ở bên trong.”

Nó nhìn tôi với đôi mắt nâu buồn. Nó lại kêu lên nhiều tiếng Moo! khẩn cấp, búng một cái và biến mất vào trong làn nước.

Tôi do dự. Có chuyện gì đó không ổn. Nó đang cố gắng nói với tôi điều đó. Tôi định nhảy theo nó nhưng sau đó tôi khựng lại. Lông tay tôi dựng đứng lên. Tôi nhìn xuống con đường đi về phía đông của đập và thấy hai gã đàn ông đi chậm rãi về phía tôi. Chúng mang quần áo màu xám để che phủ cơ thể toàn xương của chúng.

Chúng đi qua một đám trẻ và đẩy chúng qua một bên. Một đứa trẻ kêu lên. “Này!” Một gã quay lại, khuôn hắn chúng thoáng chốc hiện rõ là cái đầu lâu.

“Á!” Đứa trẻ hét lên. Cả đám trẻ lùi lại.

Tôi chạy vào khu vực tiếp đón khách.

Tôi chuẩn bị lên cầu thang thì nghe tiếng lốp xe rít lên. Một chiếc xe tải màu đen chệch hướng dừng lại giữa đường, suýt cán phải váo mấy người già.

Cửa xe bật mở ra và thêm nhiều chiến binh xương nữa đổ ra. Tôi đã bị bao vây.

Tôi lao nhanh xuyên qua bên dưới cầu thang và xuyên qua lối vào bảo tàng. Người bảo vệ ở chỗ máy dò kim loại la lên “Này cậu!” Nhưng tôi không dừng lại.

Tôi chạy qua những vật trưng bày và ẩn người phía sau một đoàn khách du lịch. Tôi tìm các bạn của tôi, nhưng tôi không thấy họ đâu cả. Quán bán thức ăn nhẹ đó ở đâu chứ?

“Dừng lại.” Người dò kim loại quát lên. Không còn nơi nào để đi ngoại trừ vào thang máy với đoàn du lịch. Tôi núp vào trong ngay khi cửa đóng.

“Chúng ta đang đi sâu dưới 200 mét,” người hướng dẫn viên du lịch nói một cách vui vẻ. Bà ấy là nhân viên kiểm lâm, có mái tóc đen dài buộc túm đuôi ngựa ở đằng sau và đeo kính màu. Tôi đoán bà ấy không hay biết tôi bị truy đuổi. “Đừng lo thưa các quý ông quý bà. Thang máy này khó có thể hỏng lắm.”

“Nó đi tới quán bán thức ăn nhẹ ạ?” Tôi hỏi.

Một vài người đứng sau tôi cười khúc khích. Người hướng dẫn viên nhìn tôi. Cái nhìn chằm chằm của bà làm da tôi ngứa ra lên.

“Đi tới tuabin, cậu trai trẻ ạ,” người phụ nữ ấy nói. Cậu không nghe bài giới thiệu đầy thu hút của tôi ở trên kia à?”

“Ồ, à, chắc chắn rồi. Có đường nào khác ra khỏi con đập không?”

“Đây là ngõ cụt,” một khách du lịch đứng sau tôi nói. “Vì chúa, đường duy nhất ra ngoài ở một thang máy khác.”

Cửa mở.

“Mọi người hãy đi thẳng về phía trước,” người hướng dẫn viên nói với chúng tôi. “Một nhân viên kiểm lâm khác đang đợi mọi người ở cuối hành lang.”

Tôi không có sự lựa chọn nào ngoài đi cùng với cả nhóm.

“Và này cậu trai trẻ,” người hướng dẫn viên gọi. Tôi quay lại. Bà ấy bỏ kính ra. Đôi mắt bà xám đến kinh ngạc, giống như mây bão vậy. “Sẽ luôn có đường cho những ai đủ thông minh để tìm ra nó.”

Cửa thang máy đóng lại với người hướng dẫn viên trong đó, để tôi lại một mình.

Trước khi tôi có thể nghĩ quá nhiều về người phụ nữ trong thang máy, một tiếng DINH vang lên ở góc. Chiếc thang máy thứ hai mở, và tôi nghe thấy một âm thanh không thể nhầm lẫn được - tiếng lách cách của răng bộ xương va vào nhau.

Tôi chạy theo đoàn du lịch, qua một đường hầm tạc đá cứng. Nó dường như kéo dài vô tận. Những bức tường ẩm ướt, không gian u u tiếng điện và tiếng ầm ầm của nước. Tôi bước ra ban công hình chữ U nhìn ra khu vực nhà to lớn. Mười lăm mét bên dưới, những tuabin khổng lồ đang chạy. Đó là một căn phòng lớn nhưng tôi không thể tìm thấy bất cứ một lối ra nào khác, trừ phi tôi muốn nhảy vào tuabin đánh tung lên để tạo thành điện. Tôi sẽ không làm vậy.

Một hướng dẫn viên khác đang nói chuyện qua microphone, kể với du khách nguồn cung cấp nước ở Neveda. Tôi cầu nguyện rằng Thalia, Grover và Zõe đều ổn cả. Họ có thể đã bị bắt, hoặc đang ngồi ăn uống ở quán bán thức ăn nhẹ mà không biết mình đang bị bao vây. Và đứa ngu ngốc là tôi: đang tự nhốt mình dưới một cái hố cách mặt đất hàng chục mét.

Tôi di chuyển quanh đám đông, cố gắng không bị để ý. Có một hành lang ở bên kia ban công, có lẽ có chỗ nào đó để tôi ẩn nấp. Tôi để tay trên cây Thuỷ triều, sẵn sàng tấn công.

Ngay khi tôi sang được bên kia, tôi giật mình. Tôi lùi vào hành lang nhỏ và xem nơi đường hầm tôi vừa ở đấy ra.

Sau đó ngay đằng sau tôi có tiếng sắc nhọn Chhh! giống như giọng của bộ xương.

Không nghĩ ngợi, tôi mở nắp cây Thuỷ triều, xoay lại và chém mạnh xuống.

Cô gái mà tôi định xẻ làm đôi hét lên và làm rơi gói khăn giấy Kleenex.

“Ôi chúa ơi,” cô hét lên. “Anh luôn giết người khi người ta hỉ mũi sao?”

Điều đầu tiên chạy qua đầu tôi là thanh gươm của tôi đã không làm đau cô ấy. Thanh gươm xuyên qua người cô ấy một cách vô hại. “Cô là người thường à!”

Cô ấy nhìn tôi với vẻ hoài nghi. “Ý anh là gì? Tất nhiên tôi là người thường. sao anh có thể mang thanh gươm mà qua đội an ninh được nhỉ”

“Tôi không... Đợi đã, cô thấy nó là một thanh gươm à?”

Cố gái nhướn mắt lên, cũng xanh lục như mắt của tôi. Cô có mái tóc uốn màu nâu đỏ. Mũi cô cũng đỏ, như bị cảm lạnh. Cô mặc một chiếc áo ngắn tay Harvard màu hạt dẻ, quần jean được phủ bởi những vết bẩn và những lỗ nhỏ, giống như cô dành thời gian rồi chọc nó bằng nĩa.

“À, cho dù nó có là thanh gươm hay tăm xỉa răng lớn nhất thế giới,” cô nói. “Tại sao nó không làm tôi bị thương nhỉ? Không phải tôi có ý phàn nàn đâu. Mà anh là ai? Whoa, anh đang mặc cái gì vậy? Nó làm bằng lông sư tử à?”

Cô hỏi nhanh nhiều câu hỏi, như ném đá vào mặt tôi. Tôi không nghĩ ra được phải nói gì. Tôi nhìn xuống ống tay áo xem liệu tấm da Sư tử Nemean có biến lại thành lông không, nhưng với tôi nó trông vẫn như tấm áo khoác đông màu nâu.

Tôi biết lũ chiến binh xương vẫn đang đuổi theo tôi. Tôi không có thời gian để phí phạm. Nhưng tôi chỉ nhìn chằm chằm cô gái đầu đỏ. Sau đó tôi nhớ ra cách Thalia đã lừa các giáo viên ở Westover Hall. Có lẽ tôi có thể sử dụng Màn Sương mù.

Tôi tập trung và búng ngón tay tách tách. “Cô không nhìn thấy thanh gươm,” tôi nói với cô gái. “Nó chỉ là một cây bút bi.”

Cô ta chớp chớp mắt. “Uhm... không. Nó là một thanh gươm. Hâm à.”

“Cô là ai?” tôi gặng hỏi.

Cô ta cáu lên đầy phẫn nộ. “Rachel Elizabeth Dare. Nào bây giờ anh, anh trả lời tôi hay tôi sẽ hét gọi bảo vệ nhỉ?”

“Không,” tôi nói. “Ý tôi là tôi đang vội. Tôi đang gặp rắc rối.”

“Đang vội hay đang gặp rắc rối?”

“Um, đại loại là cả hai.”

Cô nhìn qua vai tôi và đôi mắt cô mở rộng. “Phòng vệ sinh.”

“Gì cơ?”

“Phòng vệ sinh! Phía sau tôi! Ngay bây giờ!”

Tôi không biết tại sao nhưng tôi nghe theo cô ta. Tôi lẻn vào phòng vệ sinh nam và để Rachel Elizabeth Dare đứng ngoài. Tôi thật là hèn nhát. Tôi cũng khá chắc chắn là nó sẽ cứu sống tôi.

Tôi nghe tiếng lách cách, tiếng huýt gió của những bộ xương khi chúng tới gần hơn.

Tôi nắm chặt cây Thuỷ triều. Tôi đang nghĩ gì vậy? Tôi vừa bỏ một cô gái gặp nguy hiểm đến tính mạng. Tôi đang chuẩn bị vùng ra chiến đấu thì Rachel Elizabeth Dare nói như súng liên thanh.

“Ôi Chúa ơi, các ông có thấy thằng nhóc đó không? Chỉ một lúc trước khi các ông tới đây. Hắn định giết tôi. Hắn có kiếm, vì Chúa. Các ông bảo vệ để cho kiếm đao nhún nhảy điên cuồng bên trong mốc ranh giới quốc gia thế sao? Tôi muốn nói, à, hắn chạy về phía tuabin, tôi nghĩ hắn đi qua bên kia hay chỗ nào đó. Có lẽ hắn ngã xuống rồi.”

Những bộ xương lách cách hân hoan. Tôi nghe chúng rời khỏi.

Rachel mở cửa. “Đi cả rồi. Nhưng anh nên khẩn trương lên.”

Cô ấy run lên. Khuôn mặt cô xám lại và đầy mồ hôi.

Tôi hé nhìn quanh góc. Ba tên lính bộ xương đang chạy vè phía bên kia ban công. Đường ra thang máy trống trơn trong vài giây.

“Tôi nợ cô lần này, Rachel Elizabeth Dare.”

“Những thứ đó là gì vậy?” cô hỏi. “Chúng giống như...”

“Những bộ xương?”

Cô gật đầu khó khăn.

“Cứ thoải mái đi,” tôi nói. “Hãy quên đi. Quên việc tôi đã gặp cô đi.”

“Quên cả việc anh đã cố giết tôi à?”

“Đúng vậy. Cả chuyện đó nữa.”

“Nhưng anh là ai?”

“Percy...” tôi nói. Sau đó lũ chiến binh xương quay lại. “Phải đi thôi!”

“Tên gì mà lại là Percy Phải- Đi –Thôi?”

Tôi chạy vội ra lối thoát.

Quán cà phê chật kín những đứa trẻ đang thưởng thức phần tuyệt vời nhất của chuyến du lịch - bữa ăn trưa ở đập. Thalia, Zõe và Grover chỉ vừa mới ngồi ăn.

“Chúng ta phải rời đi thôi,” tôi giục giã. “Ngay bây giờ!”

“Nhưng chúng tớ vừa có món burrito,” Thalia nói.

Zõe đứng dậy, khẽ lầm bầm một lời nguyền rủa tiếng Hi Lạp cổ. “Cậu đúng đấy. Xem kìa!”

Các cửa sổ quán cà phê bao quanh tất cả lối đi quanh lầu quan sát, cho chúng tôi một cái nhìn toàn cảnh đẹp đẽ về đội quân xương xẩu tới giết chúng tôi.

Tôi đếm được hai tên bên phía đông con đập, chặn đường tới Arizona. Ba tên nữa ở phía tây, canh giữa Nevada. Tất cả bọn chúng được trang bị dùi cui và súng lục.

Nhưng vấn đề cấp thiết đang tới gần hơn nhiều. Ba tên chiến binh xương đã đuổi theo tôi ở phòng tuabin nay xuất hiện ở cầu thang. Chúng nhìn thấy tôi phía đối diện của quán, và bắt đầu lách cách răng.

“Thang máy!” Grover nói. Chúng tôi chạy nhác ra phía đó nhưng của chợt mở với một tiếng Ding và ba tên khác bước ra. Mọi tên lính đã tới, trừ tên bị Bianca làm nổ tung thành ngọn lửa ở New Mexico. Chúng tôi hoàn toàn bị bủa vây.

Sau đó Grover có một ý kiến sáng suốt hoàn toàn mang tính Grover.

“Burrito chiến!” cậu hét lên, và ném món Guacamole Grande vào tên gần nhất.

Bây giờ, nếu bạn chưa từng bị ném món burrito bay thì hãy cho là mình may mắn. Dưới dạng vật bắn chết chóc, nó ở đó cùng với lựu đạn và súng thần công. Bữa trưa của Grover đập vào bộ xương, hạ sọ hắn rời khỏi vai. Tôi không chắc bọn trẻ ở quán nhìn thấy gì, nhưng chúng bắt đầu điên loạn ném burroto, khoai tây chiên và soda vào nhau, gào thét ầm ĩ.

Lũ bộ xương cố gắng nhắm bắng chúng tôi nhưng vô vọng. Cơ thể, thức ăn, đồ uống bay loạn xạ khắp nơi.

Trong đám hỗn độn, Thalia và tôi xử lý hai tên ở cầu thang và cho chúng hạ cánh xuống bàn để gia vị.

Sau đó, tất cả chúng tôi chạy hết tốc độ xuống cầu thang, món Guacamolo Grandes bay vèo vèo qua đầu.

“Giờ thì sao đây?” Grover hỏi khi chúng tôi ra hết ngoài.

Tôi không có câu trả lời. Bọn chiến binh xương ở trên đường đang tiến gần từ mọi hướng. Chúng tôi chạy băng qua đường vào sảnh đường có các bức tượng đồng có cánh, nhưng chỉ càng đẩy chúng tôi về phía núi.

Những bộ xương tiến lên. Tạo thành hình lưỡi liềm bao quanh bọn tôi. Đồng nghiệp của chúng từ quán cà phê chạy ra nhập hội. Một tên vẫn đang lắp sọ trở lại vai. Tên khác thì phủ đầy sốt cà chua và mù tạt. Hai tên nữa đựng burroto trong khung xương sườn. Trông chúng chẳng có vẻ gì sung sướng cả. Chúng rút dùi cui ra và tiến lên.

“Bốn chọi mười một,” Zõe nói khẽ. “Và chúng không thể chết.”

“Thật thú vị được phiêu lưu cùng các cậu.” Grover nói, giọng run rẩy.

Có cái gì đó sáng bóng đập vào mắt tôi. Tôi liếc mắt nhìn vào chân bức tượng. “Whoa,” tôi nói. “Ngón chân chúng thật là sáng.”

“Percy.” Thalia nói. “Giờ không phải lúc.”

Nhưng tôi không thể không nhìn chằm chằm vào hai bức tượng khổng lồ với hai đôi cánh cao như lá thư để mở. Chúng bị phơi nắng phơi sương thành màu nâu trừ các ngón chân, chúng đang toả sáng như những đồng penny mới, từ tất cả những lần mọi người chà lên chúng để cầu may.

Vận may. Phúc lành từ thần Zeus.

Tôi nghĩ về người nữ hướng dẫn viên trong thang máy. Đôi mắt xám và nụ cười của bà. Bà ấy nói gì nhỉ? Sẽ luôn có lối đi cho những ai đủ thông minh để tìm ra nó.

“Thalia,” tôi nói. “Cầu nguyện cha cậu đi!”

Cô trừng mắt nhìn tôi. “Ông ấy không bao giờ trả lời đâu.”

“Chỉ một lần này thôi,” tôi nài nỉ. “Hãy cầu xin sự giúp đỡ. Tớ nghĩ... tớ nghĩ những bức tượng kia có thể cho chúng ta chút may mắn.”

Sáu bộ xương giương súng lên. Năm tên còn lại tiến lên với dùi cui. Cách xa mười lăm mét, mười hai mét.

“Làm đi!” tôi hét lên.

“Không!” Thalia nói. “Ông ấy sẽ không đáp lời tớ đâu.”

“Lần này thì khác.”

“Ai nói vậy?”

Tôi do dự. “Thần Athena. Tớ nghĩ vậy.”

Thalia cau có giận giữ như thể cô ấy chắc chắn tôi bị điên.

“Cứ thử đi,” Grover năn nỉ.

Thalia nhắm mắt. Môi cô lẩm nhẩm lời cầu nguyện không thành tiếng. Tôi cũng cầu nguyện mẹ Annabeth, hi vọng bà chính là người phụ nữ trong thang máy - rằng bà đang giúp chúng tôi cứu con gái bà.

Không có gì xảy ra. Lũ bộ xương tiến sát. Tôi đưa cây Thuỷ triều lên tự vệ. Thalia nâng khiên lên. Zõe đẩy Grover ra sau cô ấy và chĩa cung vào đầu bộ xương.

Một cái bóng đổ xuống người tôi. Tôi những tưởng là chiếc bóng của thần chết. Sau tôi nhận ra đó là bóng của chiếc cánh khổng lồ. Những bộ xương nhìn lên và quá muộn. Một tia sáng đồng loé lên và cả năm tên với vũ khí là dùi cui bị quét sang một bên.

Những bộ xương khác nổ súng. Tôi giơ áo khoác sư tử ra để bảo vệ nhưng không cần thiết. Những thiên thần bằng đồng bước ra trước mặt chúng tôi và gập cánh lại như những chiếc khiêng. Đạn bay vèo vèo bật ra khỏi họ như mưa rơi xuống mái tôn. Cả hai thiên thần vung nhẹ cánh và lũ bộ xương bay sang bên đường.

“Ôi trời. Thật tuyệt khi được đứng dậy!” thiên thần thứ nhất nói. Giọng ông ta yếu và khàn khàn, như là chưa từng được uống nước kể từ khi được tạo ra.

“Ngươi nhìn ngón chân ta xem?” người còn lại nói. “Thần Zeus linh thiêng, lũ du khách đó đã nghĩ gì vậy?”

Bị các thiên thần làm choáng váng, tôi vẫn lo về lũ bộ xương hơn. Một vài trong số chúng đã gượng dậy, tập hợp lại, những bàn tay xương xẩu sờ soạng tìm vũ khí.

“Rắc rối rồi.” Tôi nói.

“Đưa chúng tôi ra khỏi đây!” Thalia hét lên.

Cả hai thiên thần nhìn xuống cô. “Con của Zeus à?”

“Đúng vậy.”

“Tôi có thể nhận thêm từ làm ơn không, thưa cô?” một thiên thần hỏi.

“Làm ơn!”

Hai thiên thần nhìn nhau nhún vai.

“Có thể.” Một người quyết định.

Và điều tiếp theo mà tôi biết là, một người chớp lấy Thalia và tôi, người kia chộp lấy Grover và Zõe và chúng tôi bay thảng lên, qua con đập và dòng sông. Lũ bộ xương co rúm lại thành những hạt bụi li ti bên dưới chúng tôi va tiếng hoả lực vẫn còn vang dội qua các sườn núi.