Như Thể Thiên Đường (Just Like Heaven)

Chương 15



Vài giờ sau, Marcus đang ngồi trên giường, thậm chí anh còn không thèm giả vờ đọc Các câu hỏi triết học về bản chất tự do của con người, khi Honoria đến để thăm anh lần nữa. Cô giữ khoảng một tá sách trong tay và được một cô hầu gái mang theo khay đồ ăn tối hộ tống.

Anh không ngạc nhiên khi thấy cô đợi cho đến khi có người khác cũng phải đến phòng anh.

“Em mang đến cho anh vài cuốn sách,” cô nói với một nụ cười kiên quyết. Cô đợi cho đến khi người hầu gái đặt cái khay xuống giường anh và để chồng sách lên bàn cạnh giường. “Mẹ nói anh có thể cần chút tiêu khiển.” Cô mỉm cười lần nữa, nhưng biểu hiện của cô quá cương quyết để nụ cười có thể là tự nhiên. Với một cái gật nhẹ, cô quay đi và bắt đầu theo người hầu ra khỏi phòng.

“Chờ đã!” anh gọi lớn. Anh không thể để cô đi. Chưa được.

Cô dừng bước, quay lại, và nhìn anh vẻ thắc mắc.

“Ngồi với anh được không?” anh hỏi, nghiêng đầu về phía cái ghế. Cô ngập ngừng, vì vậy anh thêm vào, “Anh chỉ có một mình hầu như hai ngày nay.” Trông cô vẫn còn phân vân, vì vậy anh cười gượng và nói, “Anh sợ là anh thấy hơi chán.”

“Chỉ hơi thôi sao?” cô trả lời, chỉ trước khi cô nhớ cô đang cố không tham gia vào một cuộc trò chuyện.

“Anh tuyệt vọng, Honoria,” anh bảo cô.

Cô thở dài, nhưng cô nở một nụ cười đăm chiêu khi cô làm vậy, và cô bước vào phòng. Cô để cánh cửa ở hành lang mở ra; giờ anh không còn bị nguy hiểm đến tính mạng nữa, có những quy tắc nhất định phải được tuân theo. “Em ghét từ đó,” cô nói.

“ ‘Tuyệt vọng’?” anh đoán. “Em thấy nó bị lạm dụng à?”

“Không,” cô thở dài, ngồi xuống cái ghế gần giường anh. “Quá thích hợp một cách thường xuyên. Đó là một cảm giác khủng khiếp.”

Anh gật đầu, mặc dù sự thật là, anh không nghĩ anh hiểu được sự tuyệt vọng. Sự cô đơn, nhất định rồi, nhưng không phải sự tuyệt vọng.

Cô ngồi lặng lẽ ở bên anh, hai tay xếp lại trong lòng. Có một khoảng lặng dài, không hẳn là ngượng ngùng, nhưng cũng không thoải mái. Và rồi hơi đột ngột cô nói, “Nước súp là thịt bò.”

Anh nhìn xuống cái liễn sứ nhỏ nằm trên cái khay, vẫn còn đang đậy nắp.

“Người đầu bếp gọi nó là súp thịt bò, [ French: boeuf consommé] cô tiếp tục, nói hơi nhanh hơn lúc bình thường, “nhưng nó là nước súp, giản dị và mộc mạc. Bà Wetherby nhấn mạnh rằng khả năng chữa bệnh của nó là không thể so sánh được.”

“Anh không nghĩ là anh có thứ gì đó khác ngoài nước súp,” anh nói rầu rĩ, nhìn xuống cái khay ít ỏi của mình.

“Bánh mì nướng,” Honoria nói thông cảm. “Em rất tiếc.”

Anh cảm thấy đầu mình ngả về trước thêm một inch nữa. Những gì anh sẽ không thể hiện ra nếu đó là một miếng bánh sô cô la của Flindle. Hay một cái bánh táo phủ kem. Hay một cái bánh quy bơ giòn, hoặc một cái bánh nho Chelsea, hay bất cứ cái thứ chết tiệt nào đó chứa thật nhiều đường.

“Nó có mùi cũng khá tuyệt,” Honoria nói. “Nước súp.”

Nó có mùi khá tuyệt, nhưng không tuyệt bằng mùi của sô cô la.

Anh thở dài và cầm cái muỗng, khuấy nó lên trước khi nếm thử. “Ngon đấy,” anh nói.

“Thật sao?” Cô trông nghi ngờ.

Anh gật đầu và ăn thêm nữa. Hay đúng hơn là uống thêm nữa. Người ta ăn hay uống súp nhỉ? Và thêm một điều nữa, anh có thể có một ít bơ tan chảy ở phía trên được không?

“Em ăn gì vào buổi tối?” anh hỏi cô.

Cô lắc đầu. “Anh không muốn biết đâu.”

Anh ăn-uống thêm một muỗng súp. “Chắc chắn không.” Rồi anh không thể nhịn được. “Có thịt heo không?”

Cô không nói gì.

“Vậy là có rồi,” anh nói với vẻ cáo buộc. Anh nhìn xuống chỗ súp còn thừa lại. Anh cho là anh có thể dùng bánh mì nướng để ăn hết nó. Anh không còn lại nhiều súp lắm, dù vậy, chỉ sau hai cái cắn, bánh mì nướng của anh thật sự rất khô.

Khô như mùn cưa. Khô như cát trong sa mạc. Anh dừng lại một chút. Có phải anh đã khát khô như đi trong sa mạc vài ngày trước không? Anh cắn thêm một miếng bánh mì nướng chẳng ngon chút nào của mình. Anh chưa từng nhìn thấy sa mạc trong cuộc đời mình, và có lẽ là sẽ không bao giờ nhìn thấy, nhưng so với các môi trường địa lý bình thường, có vẻ như nó cung cấp một số những ví von so sánh trong thời gian gần đây.

“Tại sao anh cười?” Honoria hỏi hiếu kì.

“Có sao? Đó là một nụ cười buồn, rất buồn. Anh cam đoan với em.” Anh chú ý đến bánh mì nướng của anh. “Em thật sự đã ăn thịt heo à?” Và rồi, cho dù anh biết rằng anh không muốn biết câu trả lời: “Có bánh pudding không?”

Anh nhìn cô. Cô khoát một vẻ mặt tội lỗi.

“Sô cô la?” Anh thì thầm.

Cô lắc đầu.

“Quả mâm xôi? Ba – Ôi, Chúa ơi, Đầu bếp có làm bánh hoa quả rưới đường không?”

Không ai làm được bánh hoa quả rưới đường như đầu bếp của Fensmore.

“Nó rất ngon,” cô thừa nhận, với một trong những tiếng tiếng thở dài cực kì mãn nguyện về kí ức của món tráng miệng ngon nhất trong các món tráng miệng.

“Nó được ăn cùng với kem và dâu tây.”

“Còn dư lại chút nào không?” Anh hỏi thiểu nảo.

“Em nghĩ là còn. Nó được mang đến trong một cái to – Chờ một chút.” Mắt cô nheo lại, và cô xiên anh bằng một ánh mắt nghi ngờ. “Anh không phải đang kêu em lấy cắp cho anh một miếng bánh, phải không?”

“Em sẽ làm chứ?” Anh hi vọng mặt anh trông thống thiết như giọng nói của anh. Anh thật sự cần cô thương xót cho anh.

“Không!” Nhưng môi cô mím lại để cố gắng không cười. “Bánh hoa quả rưới đường không phải là một món ăn thích hợp cho người bệnh.”

“Anh không thấy là tại sao lại không được,” anh trả lời. Vô cùng chân thật.

“Bởi vì anh được cho là phải ăn súp. Thạch chân bê. Và dầu cá hồi. Ai cũng biết thế.”

Anh bắt bao tử mình không xoắn lại khi nghe vậy. “Có bất kì món nào trong đó khiến em cảm thấy khỏe hơn không?”

“Không. Nhưng em nghĩ đó không phải là vấn đề.”

“Làm sao mà nó không phải là vấn đề?”

Môi cô há ra để nhanh chóng đáp trả, nhưng rồi cô trở nên im lặng đến buồn cười. Mắt cô cụp xuống và nhìn qua phía bên trái, như thể cô đang tìm kiếm trong tâm trí mình một câu trả miếng thích hợp. Cuối cùng, cô nói, với một sự chậm chạp cố ý, “Em không biết.”

“Vậy em sẽ lấy cho anh một miếng bánh chứ?” Anh trao cô nụ cười tuyệt nhất của anh. Nụ cười tuyệt nhất Anh-gần-chết-và-làm-sao-em-từ-chối-anh. Hay ít nhất thì anh hi vọng nó có vẻ như vậy. Sự thật là, anh không phải một kẻ tán tỉnh tài giỏi, và có thể tốt hơn hết nên hiểu đó là nụ cười Anh-đang-làm-phiền-một-cách-hòa-nhã-vì-vậy-đó-là-tất-cả-sự-quan-tâm-tốt-nhất-của-chúng-ta-nếu-em-giả-vờ-đồng-ý-với-anh.

Thật sự không có cách nào để biết được.

“Anh có biết em sẽ gặp rắc rối như thế nào không?” Honoria hỏi. Cô lén lút nghiêng người về trước như thể có người thật sự có thể đang nghe lén họ.

“Không nhiều lắm,” anh trả lời. “Đây là nhà anh.”

“Vấn đề đó rất nhỏ nếu đem đi so sánh với cơn thịnh nộ của bà Wetherby, bác sĩ Winters, và mẹ em.”

Anh nhún vai.

“Marcus…”

Nhưng ngoài chuyện đó ra cô không phản đối kịch liệt lắm. Vì vậy anh nói, “Đi mà.”

Cô nhìn anh. Anh cố gắng trông thật lâm li thống thiết.

“Ôi, được rồi.” Cô khẽ khịt mũi, đầu hàng với vẻ thiếu duyên dáng đáng chú ý. “Em có phải đi liền bây giờ không?”

Anh đập tay vào nhau với vẻ đạo đức giả. “Anh sẽ rất biết ơn nếu em làm vậy.”

Đầu cô không cử động, nhưng mắt cô liếc qua liếc lại, và anh không biết liệu có phải cô đang cố hành động lén lút hay không. Rồi cô đứng dậy, tay cô quét qua lớp vải xanh nhạt của chiếc váy. “Em sẽ quay lại,” cô nói.

“Anh mong chờ đây.”

Cô đứng ngay cánh cửa và quay lại. “Với bánh nướng.”

“Em là vị cứu tinh của anh.”

Mắt cô nheo lại. “Anh nợ em.”

“Anh nợ em một điều còn lớn lao hơn bánh nướng trái cây nhiều,” anh bảo cô với vẻ rất nghiêm túc.

Cô rời khỏi phòng mà không nói lời nào, bỏ Marcus lại với cái liễn súp trống không và mấy cái vỏ bánh mì của anh. Và sách. Anh nhìn qua bàn, nơi cô để mấy cuốn sách cho anh. Cẩn thận, để không làm đổ li nước chanh nóng bà Wetherby chuẩn bị cho anh, anh di chuyển cái khay về phía bên kia giường. Nghiêng người qua, anh chộp lấy cuốn sách đầu tiên và nhìn lướt qua. Những bản phác họa nổi bật và sinh động về phong cảnh hùng vĩ, xinh đẹp, tuyệt vời và thú vị xung quanh hồ Earn.

Chúa ơi, cô đã tìm thấy thứ này ở thư viện của anh hả?

Anh nhìn cuốn tiếp theo. Quý cô Buttetworth và ngài Nam tước điên. Nó không phải thứ mà thường thường anh sẽ chọn, nhưng so sánh với Những bản phác thảo nổi bật và sinh động của thứ gì đó hùng vĩ, xinh đẹp, vân vân và vân vân ở miền hoang dã của Scotland sẽ làm bạn chán đến chết, thì nó trông khá khẩm hơn.

Anh dựa vào mấy cái gối, lật trang sách cho đến chương mở đầu, anh ngồi xuống để đọc.

Một đêm đầy gió và tối tăm—

Anh nghe thấy cái này trước đây chưa nhỉ?

--và quý cô Priscilla Butterworth chắc chắn rằng trời sẽ mưa bất cứ lúc nào, mưa như trút nước…

Lúc Honoria quay lại, quý cô Butterworth đã bị bỏ rơi trên bậc cửa, sống sót sau bệnh dịch hạnh, và bị một con lợn rừng đuổi theo.

Cô ta rất nhanh chân, quý cô Butterworth ấy mà.

Marcus háo hức quay lại với chương ba, nơi anh dự đoán quý cô Butterworth gặp trở ngại với một trận dịch châu chấu, và anh đang khá hăng say khi Honoria xuất hiện ở lối vào, thở hổn hển và nắm chặt một cái khăn lau chén bát trong tay.

“Vậy là em không lấy bánh à?” anh hỏi, nhìn vào cô qua cuốn Quý cô Butterworth.

“Dĩ nhiên em có lấy,” cô khinh khỉnh trả lời. Cô đặt cái khăn lau chén xuống và để lộ ra một thứ gì đó xốp xốp, nhưng dù sao thì cũng có thể nhận ra được, bánh nướng trái cây. “Em mang đến nguyên một cái bánh.”

Marcus cảm thấy mắt anh mở to. Anh ngứa ran lên. Trung thực đấy. Ngứa ran với sự mong đợi, quý cô Butterworth và mấy con châu chấu của cô ta chẳng là gì so với cái này. “Em là người hùng của anh.”

“Anh không nói gì về việc cứu mạng anh,” cô nói đùa.

“Chà, cả việc đó nữa,” anh ngần ngại.

“Một trong những người hầu đã đuổi theo.” Cô quay lại nhìn về phía cánh cửa mở. “Em nghĩ có thể anh ta tưởng em là một tên trộm, mặc dù thật sự, nếu em đột nhập được vào Fensmore, em chắc chắn sẽ không bắt đầu với bánh nướng hoa quả.”

“Thật sao?” anh hỏi, vẻ ngạc nhiên. “Đó chính xác là thứ anh sẽ bắt đầu.”

Cô bẻ một miếng và bỏ vào miệng. “Ôi, ngon quá,” cô thở dài. “Cho dù không có dâu tây và kem.”

“Anh không nghĩ có thứ nào ngon hơn nữa,” anh nói với cái thở dài thỏa mãn. “Có lẽ là ngoại trừ bánh sô cô la.”

Cô ngồi lên cạnh giường và ăn thêm một miếng bánh nhỏ nữa. “Xin lỗi,” cô nói, nuốt xuống trước khi tiếp tục. “Em không biết chỗ lấy mấy cái dĩa.”

“Anh không quan tâm,” anh nói. Thật vậy. Anh chỉ quá mức hài lòng khi được ăn thức ăn đúng nghĩa, với hương vị thực sự. Chuyện đó bao gồm cả việc nhai. Tại sao người ta nghĩ các chất lỏng rõ ràng là chìa khóa cho sự hồi phục của người bệnh thì anh không bao giờ biết được.

Anh bắt đầu mơ màng về ngôi nhà bằng bánh. Món tráng miệng thật phi thường, nhưng anh đang cần chất dinh dưỡng đúng nghĩa. Thịt bò băm. Khoai tây thái lắt. Khoai tây đút lò. Anh hầu như có thể nếm được chúng.

Anh nhìn qua Honoria. Bằng cách nào đó anh nghĩ Honoria không thể lén mang mấy thứ đó ra khỏi bếp bằng một cái khăn lau chén.

Honoria với tới một miếng bánh khác. “Anh đang đọc gì thế?” cô hỏi.

“Quý cô Butterworth và ngài, ơ…” Anh nhìn xuống cuốn sách, đang nằm mở ra trên giường anh. “Nam tước điên, hình như vậy.”

“Thật sao?” cô trông sửng sốt.

“Anh không thể bắt bản thân mình mở cuốn Suy ngẫm và khai sáng về một vùng đất nhỏ không người của Scotland.”

“Cái gì?”

“Cuốn này,” anh đưa nó cho cô.

Cô nhìn xuống và anh để ý thấy mắt cô di chuyển khá xa để có thể nhìn toàn bộ tiêu đề sách. “Nó trông khá chi tiết,” cô nói với một cái nhún vai. “Em nghĩ anh sẽ thích nó.”

“Chỉ khi anh lo rằng cơn sốt vẫn chưa buông tha anh,” anh nói với một cái khịt mũi.

“Em nghĩ nó nghe thú vị đó chứ.”

“Vậy em nên đọc nó,” anh nói với một cái vẫy tay duyên dáng. “Anh sẽ không nhớ nó đâu.”

Cô mím môi lại vẻ dằn dỗi. “Anh có xem mấy cuốn khác em mang cho anh không?”

“Thật sự thì, không.” Anh cầm quý cô Butterworth lên. “Cuốn này thật sự khá hấp dẫn.”

“Em không thể tin đươc anh thích nó.”

“Vậy em đã đọc nó chưa?”

“Rồi, nhưng—“

“Em đọc xong chưa?”

“Rồi, nhưng—“

“Em có thích nó không?”

Có vẻ như cô chưa có câu trả lời, nên anh tận dụng sự xao lãng của cô và kéo cái khăn lau chén lại gần hơn. Thêm một vài inch nữa và cái bánh nướng trái cây sẽ hoàn toàn nằm ngoài tầm với của cô.

“Em có thích nó,” cuối cùng cô nói, “ mặc dù em thấy có vài phần có vẻ không hợp lý.”

Anh lật cuốn sách và nhìn xuống. “Thật à?”

“Anh chưa đọc sâu vào câu chuyện,” Honoria nói, giật mạnh cái khăn vào tầm với của cô. “Mẹ cô ta bị bồ câu mổ cho tới chết.”

Marcus chú ý đến cuốn sách với sự tôn trọng mới được phát hiện. “Thật sao?”

“Nó khá rùng rợn.”

“Anh đang mong chờ đây.”

“Ôi, làm ơn đi,” cô nói, “anh không thể nào muốn đọc nó được.”

“Sao không?”

“Nó thật…” Cô vẫy tay vào không khí khi cô tìm từ thích hợp. “Không nghiêm túc.”

“Anh không thể đọc thứ gì đó không nghiêm túc được à?”

“Ừ thì dĩ nhiên anh có thể. Em chỉ thấy thật khó hình dung anh sẽ chọn thứ đó.”

“Và tại sao lại vậy?”

Mày cô nhướn lên. “Anh đang nghe có vẻ hết sức phòng thủ.”

“Anh tò mò. Tại sao anh sẽ không đọc thứ gì đó không nghiêm túc?”

“Em không biết. Anh là anh.”

“Tại sao nghe như đó là một lời sỉ nhục thế nhỉ?” Anh nói với sự tò mò.

“Không phải vậy.” Cô lấy một miếng bánh khác và nhấm nháp nó. Và đó là khi một chuyện là lùng nhất xảy ra. Mắt của anh nhìn đôi môi cô, và khi anh nhìn, lưỡi cô liếm lấy những mảnh vụn còn sót lại.

Đó là một động tác rất nhỏ, chưa tới một giây. Nhưng có một dòng điện phóng xuyên qua người anh, với một hơi thở hổn hển anh nhận ra đó là sự khao khát. Một cơn khao khát nóng bỏng đến quặn ruột.

Với Honoria.

“Anh ổn chứ?” cô hỏi.

Không. “Ừ, ơ, tại sao?”

“Em nghĩ có thể em làm anh tổn thương,” cô thừa nhận. “Nếu em có làm vậy, thì hãy tha lỗi cho em. Thật sự, đó không phải một lời sỉ nhục đâu. Anh là một người tử tế hoàn hảo theo cách riêng của anh.”

“Tử tế?” Thật là một từ mỉa mai làm sao.

“Nó tốt hơn không tử tế.”

Vấn đề ở đây là một người đàn ông khác có thể đã tóm lấy cô và cho cô thấy chính xác anh ta có thể “không tử tế” như thế nào, và Marcus thật sự “không tử tế” đủ để tưởng tưởng ra chi tiết của cảnh đó. Nhưng anh vẫn còn phải chịu di chứng của trận sốt chết người, chưa kể đến cánh cửa mở và mẹ cô, bà chắc đang ở dưới lầu, thay vì vậy anh nói, “Em còn mang thứ gì cho anh đọc nữa?”

Đây là một lựa chọn an toàn hơn để nói chuyện, nhất là khi anh đã dành cả ngày để tự thuyết phục mình rằng hôn cô không có liên quan gì đến ham muốn hết. Đó là một sai lầm hoàn toàn, một sự bùng nổ nhất thời xảy ra bởi sự xúc động quá khích.

Thật không may, lập luận này hiện nay đang bị bắn vỡ tan tác. Honoria đổi vị trí của mình để cô có thể với tới mấy cuốn sách mà không phải đứng dậy, và điều đó có nghĩa là cô di chuyển phần dưới của mình hơi gần hơn tới…ừm, phần dưới của anh, hay đúng hơn, phần hông của anh nếu ai đó muốn biết rõ hơn. Có một tấm đắp và một cái mền giữa họ, chưa kể đến áo ngủ của anh và cái đầm của cô và có trời mới biết thứ gì khác cô mặc bên dưới nữa, nhưng trời ơi anh chưa bao giờ nhận thức về người khác như anh đối với cô ngay tại giây phút này.

Và anh vẫn không biết làm thế nào nó lại xảy ra.

“Ivanhoe,” cô nói.

Cô đang nói cái gì vậy?

“Marcus? Anh có nghe em nói không? Em mang cho anh Ivanhoe. Tác giả Sir Walter Scott. Mặc dù, nhìn đây này, nó không thú vị sao?”

Anh chớp mắt, chắc chắn anh đã bỏ lỡ thứ gì đó rồi. Honoria đã mở quyển sách ra và lật trang sách đến phần mở đầu.

“Tên của ông ấy không có trong cuốn sách. Em không thấy nó ở đâu hết.” Cô xoay nó lại và giơ nó lên. “Nó chỉ ghi là ‘Tác giả của Waverly.’ Nhìn này, thậm chí trên cả gáy sách.”

Anh gật đầu, bởi vì anh nghĩ đó là những gì cô mong đợi anh làm. Nhưng cùng lúc đó, anh dường như không thể rời mắt khỏi môi cô, môi cô thường mím lại như một nụ hồng khi cô đang suy nghĩ.

“Em chưa đọc Waverly, còn anh?” Cô ngẩng lên, mắt cô sáng lên.

“Anh chưa đọc,” anh trả lời.

“Có lẽ em nên đọc,” cô lẩm bẩm. “Chị em bảo chị ấy thích nó. Nhưng dù sao đi nữa, em không có mang cho anh Waverly, em mang cho anh Ivanhoe. Hay đúng hơn, tập một. Em không thấy có lí do gì để lôi đi hết cả ba tập.”

“Anh đọc Ivanhoe rồi,” anh bảo cô.

“Ô, chà, vậy hãy để nó sang một bên.” Cô nhìn xuống cuốn tiếp theo.

Và anh nhìn cô.

Lông mi của cô. Tại sao anh chưa bao giờ để ý thấy chúng dài như thế nào? Hơi lạ lùng, bởi vì màu lông mi của cô thường không phải loại lông mi dài. Có lẽ đó là lí do tại sao anh chưa từng để ý đến chúng; chúng rất dài, nhưng không sậm màu.

“Marcus? Marcus!”

“Hử?”

“Anh có sao không?” Cô nghiêng về trước, nhìn anh với một chút lo lắng. “Anh trông hơi đỏ mặt.”

Anh nuốt xuống. “Có lẽ là thêm một ít nước chanh.” Anh uống một ngụm, rồi một ngụm nữa, để cho chắc. “Em có thấy ở đây hơi nóng không?”

“Không.” Mày cô nhướng lên. “Không nóng.”

“Cũng không có gì. Anh—“

Cô đã đặt tay lên trán anh. “Anh đâu có sốt.”

“Em còn mang gì nữa?” anh hỏi nhanh, hất đầu về phía mấy cuốn sách.

“Ồ, ơ, ở đây có…” Cô cầm lên một cuốn khác và đọc bìa sách. “Lịch sử của cuộc Thập tự chinh để tìm lại và sở hữu Đất thánh.”

“Cái gì vậy?”

“Em chỉ lấy có tập hai. Anh không thể bắt đầu với nó được. Anh sẽ bỏ lỡ thời kì khó khăn của Jerusalem và mọi thứ về Norwegians.”

Người ta thường nói, Marcus nghĩ khô khan, rằng không có gì dập tắt nhiệt huyết của một người đàn ông như cuộc Thập tự chinh. Im lặng…

Anh nhìn cô dò hỏi. “Norwegians?”

“Một chiến dịch ít được biết đến lúc ban đầu,” cô nói, bỏ qua một bên những gì có thể là một thập niên hay nhất trong lịch sử với một cái vụt nhẹ của cổ tay. “Hầu như không có ai nói về nó bao giờ.” Cô nhìn qua anh và thấy biểu hiện hoàn toàn ngạc nhiên của anh. “Em thích các cuộc Thập tự chinh,” cô nói với một cái nhún vai.

“Cái đó…thật tuyệt vời.”

“Vậy còn Cuộc đời và cái chết của Cardinal Wolsey thì sao?” cô hỏi, giơ lên một cuốn sách khác. “Không à? Em cũng có cuốn Lịch sử nổi dậy, tiến trình, và kết thúc của cuộc cách mạng Mỹ.”

“Em thật sự nghĩ là anh đần độn* đến thế sao,” anh bảo cô.

Cô nhìn anh buộc tội. “Cuộc thập tự chinh thì không buồn tẻ*.”

[ *Nguyên tác là DULL. Chỉ người nghĩa là ngu ngốc, đần độn. Chỉ vật thì là buồn tẻ, buồn chán. ]

“Nhưng em chỉ mang đến có mỗi tập hai,” anh nhắc cô.

“Em chắc chắn có thể quay lại và tìm kiếm tập một.”

Anh quyết định giải nghĩa câu đó như một lời đe dọa.

“Ồ, đây này. Nhìn xem.” Cô cầm lên một cuốn sách mỏng dạng bỏ túi với một biểu hiện chiến thắng. “Em có một cuốn sách của Byron. Người đàn ông thông minh nhất từng tồn tại. Hoặc em nghe nói vậy. Em chưa bao giờ được gặp ông ấy.” Cô mở sách đến trang tiêu đề. “Anh có đọc Cướp biển chưa?”

“Vào ngày nó xuất bản.”

“Ồ.” Cô cau mày. “Đây là một tác phẩm khác của Sir Walter Scott. Peveril of the Peak. Nó khá dài. Nó sẽ giữ anh bận rộn một thời gian.”

“Anh nghĩ anh sẽ dính lấy quý cô Butterworth.”

“Nếu anh muốn.” Cô nhìn anh như thể để nói, Không có cách nào để anh thích nó đâu. “Nó là của mẹ em. Mặc dù bà có nói anh có thể giữ nó.”

“Nếu không có gì khác, anh chắc rằng nó sẽ nhen nhóm lại tình yêu của anh với bánh chim bồ câu.”

Cô bật cười. “Em sẽ nói đầu bếp làm cho anh sau khi chúng em rời đi vào ngày mai.” Cô đột nhiên ngước lên. “Anh biết bọn em sẽ đi đến London vào ngày mai chứ?”

“Ừ, mẹ em nói với anh.”

“Chúng em sẽ không đi trừ khi chúng em chắc chắn anh đang hồi phục,” cô cam đoan với anh.

“Anh biết. Anh chắc chắn em phải có mặt ở thành phố.”

Cô nhăn mặt. “Thật sự thì để diễn tập.”

“Diễn tập?”

“Cho—“

Ôi không.

“—buổi nhạc hội.”

Buổi nhạc hội của nhà Smythe – Smith. Nó kết thúc những gì cuộc Thập tự chinh đã bắt đầu. Không có người đàn ông còn sống nào có thể duy trì một ý nghĩ lãng mạn khi đối mặt với kí ức – hay mối đe dọa – của buổi nhạc hội nhà Smythe – Smith.

“Em vẫn còn chơi vi-ô-lông chứ?” Anh lịch sự hỏi.

Cô nhìn anh buồn cười. “Em khó có thể đảm nhận đàn Xen-lô vào năm ngoái.”

“Không, không, dĩ nhiên không.” Thật ngốc khi hỏi điều đó. Nhưng có lẽ đó là câu hỏi lịch sự duy nhất anh có thể nghĩ ra. “Ơ, em có biết buổi nhạc hội năm nay dự kiến khi nào tổ chức không?”

“Ngày 14 tháng tư. Không còn lâu lắm. Chỉ còn khoảng hơn hai tuần nữa thôi.”

Marcus lấy một miếng bánh nướng trái cây khác và nhai, cố gắng tính toán anh cần bao lâu để hồi phục. Ba tuần chính xác là khoảng thời gian đó. “Anh rất tiếc anh sẽ bỏ lỡ nó,” anh nói.

“Thật sao?” Cô nghe có vẻ hoài nghi rõ ràng. Anh không chắc làm thế nào để giải nghĩa nó nữa.

“Chà, tất nhiên,” anh nói, hơi lắp bắp. Anh chưa bao giờ là một kẻ nói dối điêu luyện cả. “Anh chưa bao giờ bỏ lỡ nó trong nhiều năm.”

“Em biết,” cô nói, rồi lắc đầu. “Đó là một nỗ lực rất cừ của anh.”

Anh nhìn cô.

Cô nhìn anh.

Anh nhìn cô gần hơn. “Em đang nói gì vậy?” anh thận trọng hỏi.

Má cô thậm chí hơi ửng hồng. “Ừm,” cô nói, liếc về phía bức tường trống không, “Em nhận ra chúng em không phải rất…ơ…” Cô nuốt xuống. “Có từ nào trái nghĩa với từ chói tai không?”

Anh nhìn chăm chăm cô với vẻ nghi ngờ. “Có phải em đang nói là em biết… ơ ừm, nó có nghĩa là—“

“Nghĩa là bọn em rất kinh khủng?” cô kết thúc dùm anh. “Dĩ nhiên em biết. Bộ anh nghĩ em là một con ngốc chắc? Hay em bị điếc.”

“Không,” anh nói, kéo dài các âm tiết để anh có thời gian suy nghĩ. Mặc dù anh đã cố hết sức, nhưng anh không có chút ý tưởng nào. “Anh chỉ nghĩ…”

Anh lấp lửng.

“Bọn em thật khủng khiếp,” Honoria nói với một cái nhún vai. “Nhưng không có lí do gì để né tránh hay hờn dỗi. Bọn em không thể làm gì với nó hết.”

“Luyện tập thì sao?” anh gợi ý, nhưng rất cẩn trọng.

Anh không nghĩ một người có thể khinh khỉnh và thích thú cùng lúc, nhưng nếu biểu hiện của Honoria thể hiện bất kì điều gì, cô đã xoay xở được. “Nếu em nghĩ luyện tập có thể thật sự khiến bọn em khá hơn,” cô nói, miệng cô xoắn lại thậm chí khi mắt cô tràn ngập ý cười, “tin em đi, em sẽ là học sinh vi-ô-lông siêng năng nhất thế giới này từng thấy.”

“Có lẽ, nếu—“

“Không,” cô nói, khá cứng rắn. “Chúng em thật kinh khủng. Đó là tất cả. Chúng em không có năng khiếu âm nhạc trong người, và nhất là không với tai của tụi em.”

Anh không thể tin được những gì anh đang nghe. Anh đã từng đến rất nhiều buổi hòa nhạc của nhà Smythe – Smith, và quả thật là một kì quan khi anh vẫn đánh giá cao âm nhạc. Vào năm ngoái, Honoria đã biểu diễn đàn vi-ô-lông lần đầu tiên, trông cô hết sức rạng rỡ, biểu diễn phần của cô với nụ cười rộng mở mà chỉ có thể có khi cô đang chìm đắm trong say mê.

“Thật ra thì,” cô tiếp tục, “em thấy tất cả buổi biểu diễn có phần nào đó hơi đáng yêu.”

Marcus không chắc cô có thể tìm được người nào còn sống sẽ đồng ý với nhận định đó, nhưng anh thấy không cần thiết phải nói ra điều đó.

“Nên em mỉm cười,” cô nói tiếp, “và em giả vờ là em thích thú. Và theo một cách nào đó em có thích thật. Nhà Smythe – Smith đã trình diễn buổi nhạc hội từ năm 1807. Đó thật sự là một truyền thống gia đình.” Và rồi, với giọng nói yên ả, trầm tĩnh hơn, cô nói thêm. “Em thấy bản thân mình khá may mắn khi có truyền thống gia đình.”

Marcus nghĩ về gia đình của anh, hay đúng hơn, một lỗ hổng lớn nơi gia đình chưa từng tồn tại. “Ừ,” anh lặng lẽ nói, “đúng vậy.”

“Ví dụ,” cô nói. “Em mang đôi giày may mắn.”

Anh khá chắc chắn anh không thể nghe thấy cô nói chính xác.

“Suốt buổi nhạc hội,” Honoria giải thích với một cái nhún vai nhẹ. “Đó là một thông lệ riêng biệt với gia đình em trong dòng họ. Henrietta và Magaret luôn tranh cãi ai là người bắt đầu chuyện đó, nhưng bọn em luôn mang giày đỏ.”

Giày đỏ. Một cái xoắn nhẹ của khao khát bị dập tắt bởi ý nghĩ về cuộc đấu tranh của các nhạc sĩ nghiệp dư đã sống lại với cuộc đời. Đột nhiên không có gì trên đời này có thể quyến rũ hơn giày đỏ nữa. Chúa tôi.

“Anh có chắc là anh khỏe không?” Honoria hỏi. “Anh trông có hơi đỏ mặt.”

“Anh khỏe,” anh nói bằng giọng khàn khàn.

“Mẹ em không biết,” cô nói.

Cái gì? Nếu anh không đỏ mặt trước đó, thì giờ anh có rồi. “Thứ lỗi cho anh?”

“Về giày đỏ ấy mà. Bà không biết tụi em mang nó.”

Anh nuốt xuống. “Có lí do cụ thể nào em lại giữ bí mật không?”

Honoria nghĩ ngợi một lát, rồi cô với tay ra và bẻ một miếng bánh nướng trái cây khác. “Em không biết. Em không nghĩ vậy.” Cô bỏ nó vào miệng, nhai, và nuốt. “Thật ra thì, bây giờ nghĩ về nó, em không biết tại sao lại là giày đỏ. Nó có thể là màu xanh lá. Xanh dương. Chà, không xanh dương. Đó sẽ là màu ít kì lạ nhất. Nhưng màu xanh lá cũng được. Hoặc màu hồng.”

Không gì có thể hiệu quả tốt như màu đỏ. Marcus chắc chắn chuyện đó.

“Em hình dung chúng em sẽ sớm bắt đầu diễn tập khi em quay lại London,” Honoria nói.

“Anh rất tiếc,” Marcus nói.

“Ôi, không,” cô bảo anh. “Em thích diễn tập. Đặc biệt là bây giờ các anh chị của em đã đi hết, và nhà em không có gì ngoài tiếng tích tắc của đồng hồ và những bữa ăn trên khay. Thật vui khi quay quần bên nhau và có ai đó để nói chuyện.” Cô nhìn qua anh với vẻ mặt thẹn thùng. “Chúng em nói chuyện nhiều nhất khi diễn tập.”

“Anh không ngạc nhiên đâu,” Marcus lẩm bẩm.

Cô trao anh cái nhìn ý nói cô không bỏ lỡ câu chỉ trích nhỏ nhoi của anh. Nhưng cô sẽ không phật lòng; anh biết là cô sẽ không.

Và rồi anh nhận ra: anh khá là thích khi biết cô sẽ không để bụng. Có điều gì đó thật tuyệt khi hiểu rõ về người khác.

“Vậy,” cô tiếp tục, khá kiên quyết kết thúc chủ đề, “Sarah sẽ lại chơi ở vị trí pi-a-no vào năm nay, con bé thật sự là bạn thân của em. Chúng em có nhiều thời gian bên nhau. Và Iris sẽ tham gia với chúng em với đàn Xen-lô. Con bé cũng gần bằng tuổi em, và em luôn có ý định dành nhiều thời gian với con bé. Con bé cũng đang ở nhà Royle, và em—“ Cô dừng lại.

“Gì vậy?” anh hỏi. Cô trông khá lo lắng.

Honoria chớp mắt. “Em nghĩ con bé có thể thực sự rất khá.”

“Với Xen-lô?”

“Vâng. Anh có hình dung được không?”

Anh quyết định xem câu hỏi đó như một câu hỏi tu từ.

“Dù sao thì,” cô tiếp tục. “Iris sẽ chơi đàn, như chị con bé sẽ chơi, Daisy, em e em phải nói là, rất dễ sợ.”

“Ơ ừm…” Làm sao để hỏi cho lịch sự đây? “Dễ sợ khi so với phần lớn mọi người hay dễ sợ đối với nhà Smythe – Smith?”

Honoria trông như thể cô cố gắng không cười. “Dễ sợ thậm chí đối với chúng em.”

“Chuyện đó thật sự rất nghiêm trọng,” anh nói với vẻ mặt thẳng thắn đáng ngạc nhiên.

“Em biết. Em nghĩ Sarah tội nghiệp hi vọng con bé sẽ bị sét đánh vài lần trong ba tuần tới. Con bé chỉ vừa hồi phục lại từ năm ngoái.”

“Anh đoán cô ấy không cười và khoát lên bộ mặt dũng cảm?”

“Anh không có mặt sao?”

“Anh không nhìn Sarah.”

Môi cô hé ra, không phải bởi bất ngờ, không phải lần đầu tiên. Mắt cô sáng lên với suy đoán, loại cảm giác người ta cảm thấy khi người ta sắp bày tỏ một nhận xét dí dỏm thú vị. Nhưng rồi, trước khi bất kì âm thanh nào được thốt ra, dường như cô nhận ra những gì anh nói.

Và rồi chỉ sau đó anh cũng nhận ra anh đã nói gì.

Chậm rãi, cô nghiêng đầu qua một bên, và cô nhìn anh như thể…Như thể…

Anh không biết. Anh không biết nó có nghĩa gì, ngoại trừ việc anh thề là mắt cô sẫm lại thậm chí khi cô ngồi đó, nhìn chằm chằm anh. Sẫm hơn, sâu hơn, và những gì anh có thể nghĩ là cô có thể nhìn thấu anh, ngay trái tim anh.

Ngay tâm hồn anh.

“Anh nhìn em,” anh nói, giọng anh nhẹ đến nỗi anh hầu như không nghe thấy. “Anh nhìn em.”

Nhưng đó là trước khi…

Cô đặt tay cô lên tay anh. Nó trông nhỏ nhắn, tinh tế, và hơi hồng hồng.

Nó trông hoàn hảo.

Và rồi cuối cùng anh biết. Đó là trước khi anh yêu cô.