Nhấn Chuông Đi, Đừng Đợi!

Chương 15



16

CÂU HỎI: Tuyến và ống lệ chủ yếu phụ trách việc tạo ra và điều tiết cái gì?

TRẢ LỜI: Nước mắt.

***

Cuối cùng tôi cũng phải cho là thật may khi chúng tôi ngồi gần nhà vệ sinh.

Đến giờ tôi đã ở trong đó được một lúc rồi. Hơi lâu thì phải. Tôi không muốn nàng nghĩ tôi bị tiêu chảy hay gì đó, nhưng tôi cũng không muốn nàng thấy tôi khóc. Là một chiêu quyến rũ, nhưng việc khóc lóc không kiểm soát nhất định là không được đánh giá cao. Chắc giờ nàng nghĩ tôi là một trong những thằng con trai mít ướt. Ngay lúc này nàng có thể ở ngay ngoài cửa, lắc đầu, tính tiền rồi vội vã quay về ký túc xá để kể lể cho Erin mọi chuyện: “Chúa ơi, cậu không tin nổi là tớ đã có một buổi tối như thế nào đâu. Cậu ta chỉ là một thằng nhóc mít-ướt...”

Có tiếng gõ vào cửa buồng vệ sinh, và tôi cho rằng đó là Luigi, đến kiểm tra xem tôi có chuồn lối cửa thoát hiểm hay không, nhưng giọng nói đó...

“Brian, cậu ổn chứ?”

“Ồ, chào Alice!”

“Trong đó ổn chứ hả?”

“Ờ, tớ ổn, tớ ổn.”

“Cậu có muốn mở cửa không, cưng?”

Ồ, Chúa ơi, nàng muốn vào buồng vệ sinh với mình.

“Mở cửa đi nào, cưng...”

“Thật mà, tớ ổn, tớ sẽ ra với cậu ngay.” Gượm đã - “cưng” á?

“Được rồi. Nhưng quay lại với tớ ngay, được chứ?”

“Hai phút nữa,” tôi hét lên khi nàng đi ra phía cửa, “cậu cứ việc gọi tráng miệng nếu muốn!”

Và nàng đi khỏi. Tôi đợi một chút, sau đó rời khỏi buồng và nhìn vào gương. Tôi cho là mình trông không đến nỗi tệ - mắt hơi đỏ, nhưng nước mũi không còn chảy nữa, tôi chỉnh lại cái nơ con bướm, vuốt tóc ra sau cho gọn gàng, cài lại dây đeo quần, và đi ra ngoài, quay lưng lại, đầu cúi thấp để Luigi không nhìn thấy. Khi tôi tiến đến bàn. Alice đứng lên, và thật bất ngờ, nàng choàng tay ôm tôi thật chặt, má áp vào má tôi. Tôi không biết phải làm sao, nên cũng bèn choàng tay qua người nàng, ngả người về phía trước một chút tạo đủ khoảng trống cho chiếc váy phồng, một tay đặt lên chiếc váy xa tanh xám, tay còn lại trên lưng nàng, cái lưng xinh đẹp, ngay tại chỗ da thịt lộ ra phía trên xa tanh, và nàng thì thầm vào tai tôi - “Cậu thật là một chàng trai đáng yêu” - và tôi nghĩ là mình lại sắp bật khóc nữa, không phải vì tôi thật là một chàng trai đáng yêu, mà vì tôi thật là một tên ngu đần, ngốc nghếch, kinh tởm, thế nên tôi nhắm nghiền mắt và chúng tôi cứ như vậy hồi lâu. Khi mở mắt ra tôi thấy Luigi đang nhìn, và sau đó anh ta nháy mắt một cách ranh mãnh với tôi, rồi đưa ngón cái lên. Tôi không biết phản ứng như thế nào nên cũng giơ ngón tay cái lên, và ngay lập tức cảm thấy đáng khinh bỉ, vì tôi hoàn toàn chả hiểu mình giơ ngón cái lên để làm gì.

Dĩ nhiên, cuối cùng, dây đeo quần tôi bị tuột và Alice buông ra, mỉm cười với tôi với cái miệng xịu xuống, kiểu nụ cười tội nghiệp mà các bà mẹ hay thể hiện với những đứa bé khóc nhè trong các mẩu quảng cáo trên ti vi. Bây giờ tôi bắt đầu cảm thấy hơi không thoải mái, nên nói, “Xin lỗi về chuyện đó. Thường thì phải khuya hơn tớ mới bắt đầu khóc.”

“Chúng mình đi nhé?”

Nhưng tôi chưa muốn đi vội. “Cậu không dùng món tráng miệng à? Cà phê hay cái gì đó?”

“Không, tớ ăn xong rồi.”

“Họ có món bánh phồng có nhân thì phải? Sợ mập vì sô cô la...?”

“Không, thật đó, tớ nốc no rồi,” và từ một chỗ nào đó ở nếp gấp của chiếc váy phồng, nàng giơ ra một cái ví xách tay nhỏ nhất thế giới, và định mở ra.

“Này, để tớ thanh toán!” tôi nói.

Và thế là tôi trả tiền, cuối cùng giá cả chính ra cũng khá hợp lý, nhờ tôi có cơn suy sụp tinh thần toàn tập thay cho món tráng miệng, và chúng tôi bước ra ngoài.

Trên đường quay lại ký túc xá của nàng, chúng tôi đổi chủ đề, và nói về sách, về việc cả hai đều ghét D. H. Lawrence ra sao và chúng tôi thích cuốn sách nào của Thomas Hardy hơn; tôi thích cuốn Jude Kẻ vô danh, còn nàng thì mê cuốn Xa đám đông điên loạn. Đó là một buổi tối muộn cuối tháng Mười một ôn hòa, đường phố ẩm ướt mặc dù không có mưa. Nàng đề nghị đi ngắm cảnh, và rồi hai đứa leo lên ngọn đồi nhìn xuống toàn thành phố, thở dốc vì vừa leo vừa nói chuyện, không lúc nào gián đoạn. Âm thanh của xe cộ trên những con đường thành phố trở nên xa dần và tiếng động duy nhất ngoại trừ tiếng nói của chúng tôi là tiếng gió lùa qua những tán cây và tiếng phần phật của chiếc váy dạ hội bằng xa tanh đang bay. Đến nửa đường lên đồi nàng quàng nhanh cánh tay qua cánh tay tôi, giữ chặt một chút, rồi ngả đầu lên vai tôi. Người gần đây nhất quàng tay tôi thế này là mẹ, trên đường về nhà sau khi xem tôi đóng vai chúa Giê-su trong vở kịch Phúc âm. Dĩ nhiên bà đã xem tôi bị hành hình, chuyện đó chắc chắn có tác động đến tình cảm của một bà mẹ, nhưng tôi nhớ là ngay cả khi đó tôi vẫn cảm thấy có một chút lạ lẫm, phần thì tự hào, phần thì vô cùng bối rối, giống như tôi là chú-lính-nhỏ-đích-thực của bà hay một thứ gì đó vậy. Alice nắm lấy cánh tay tôi không chút e dè, một hành động như thể nàng đã lượm lặt được từ một bộ phim truyền hình cổ trang, nhưng thật hay, tôi cảm thấy ấm hơn và như cao lên được năm phân.

Lên tới đỉnh đồi chúng tôi ngồi xuống một băng ghế dài, nàng ép sát hông vào tôi để hai đứa ngồi một cách ấm cúng và thoải mái ở một góc, và mặc dù tôi có thể cảm thấy hơi ẩm đang thấm qua quần, và biết là nó để lại những vệt tảo, tôi cũng không bận tâm. Thực ra, tôi cũng sẽ không bận tâm nếu chúng tôi cứ ngồi ở đây mãi mãi, ngắm nhìn thành phố ở bên dưới, và những ánh đèn đường cao tốc tỏa ra đổ về vùng nông thôn.

“Tớ vừa chợt nhận ra, tớ chưa chúc mừng sinh nhật cậu.”

“Ồ, không sao đâu...”

“Dù vậy, chúc cậu sinh nhật vui vẻ...”

“Ồ, cảm ơn cậu, cậu cũng vậy.”

“Có điều hôm nay không phải sinh nhật tớ,” nàng nói.

“Không, dĩ nhiên không phải. Xin lỗi cậu.”

“Và tớ cũng không có quà sinh nhật cho cậu nữa...”

“Không sao. Buổi tối hôm nay chính là một món quà rồi.”

Chúng tôi ngừng nói chuyện, và tôi định bụng chỉ lên một số chòm sao, giống như người ta vẫn làm trong phim. Tôi đã học thuộc lòng tên chúng chỉ để cho một dịp như thế nào, nhưng trời quá nhiều mây, nên thay vào đó tôi băn khoăn không biết trời có đủ tối để hôn nàng không, hay nàng có đủ say để cho phép tôi hôn không.

“Brian nè, cậu định làm gì vào Giáng sinh?”

“Ừm, không biết...”

“Cậu muốn đến và ở lại không?”

“Đâu cơ?”

“Với tớ.”

“Ở Luân Đôn ư?”

“Không đâu, gia đình tớ có một ngôi nhà riêng ở Suffolk. Cậu có thể gặp Rose và Michael.”

“Rose và Michael là ai vậy?”

“Bố mẹ tớ!”

“Phải rồi! Ừm tớ thích lắm, nhưng tớ không muốn để mẹ một mình...”

“Dĩ nhiên không rồi, nhưng cậu có thể ghé về sau Giáng sinh, vào ngày sau Lễ tặng quà hoặc ngày nào đó. Và bố mẹ tớ hầu như chỉ thích ở riêng với nhau thôi, thế nên hầu hết thời gian sẽ chỉ có tớ và cậu” - nàng nghĩ cần thuyết phục tôi - “chúng mình có thể đi chơi, dạo phố, đọc sách, nói chuyện và làm những thứ khác...”

“Được rồi,” tôi nói.

“Tuyệt vời! Thỏa thuận vậy nhé. Bây giờ tớ lạnh cóng rồi. Chúng mình về nhà thôi.”

Lúc chúng tôi về đến ký túc xá của nàng thì đã là nửa đêm, nhưng vẫn còn một vài người đi tới đi lui dọc theo hành lang lát sàn gỗ, những kẻ học gạo, những người mất ngủ và những tên sử dụng ma túy. Cả bọn đều nói “Chào Alice” và rồi liếc nhìn tôi đầy nghi hoặc, nhưng tôi không để tâm. Tôi quá bận suy nghĩ về cách chúng tôi chào tạm biệt, quy trình của nó. Dừng lại trước cửa phòng, nàng nói, “tốt hơn là tớ nên leo thẳng lên giường đi ngủ, ngày mai có bài giảng lúc chín giờ mười lăm.”

“Phải đấy. Về...?”

“Stanislavski và Brecht, vở kịch Đường phân đôi lớn, dấu chấm hỏi.”

“Phải rồi, vì xét trên nhiều mặt thì họ không thật sự khác biệt đến thế, mặc dù người ta có xu hướng nghĩ triết lý của họ loại trừ lẫn...”

“Thật đấy, Brian, thật sự tớ nên đi ngủ.”

“Rồi. À, mà cảm ơn cậu vì đã đồng ý đi chơi với tớ.”

“Brian - tớ không đồng ý. Tớ muốn đi,” rồi nàng rướn người về trước rất nhanh và hôn lên mặt tôi chỗ gần tai. Nụ hôn thật nhanh, giống như một cú mổ của rắn hổ mang, và phản xạ của tôi không hẳn đã theo kịp, nên tôi chỉ có thời gian đủ để tạo ra tiếng hôn chụt ầm ĩ với cái miệng mở to lên lỗ tai của nàng, rồi cánh cửa đóng lại và nàng biến mất.

Và một lần nữa, tôi đi bộ trên con đường xe chạy lát sỏi, đi về nhà. Cuối cùng thì mọi chuyện cũng ổn. Tôi nghĩ thế là ổn. Tôi đã được mời đến ngôi nhà riêng ở vùng nông thôn của nàng, và tôi nghĩ hiện giờ nàng đã tìm thấy ở tôi “sự thú vị”, ngay cả khi “sự thú vị” không thật sự là điều tôi theo đuổi. Tôi có phần không thoải mái về lý do tại sao lại thế, nhưng vẫn...

“Ô hay, Jackson!”

Tôi nhìn quanh.

“Xin lỗi, ý tớ là Brian. Brian, trên này nè...” Đó là Rebecca, cô đang rướn người ra khỏi cửa sổ lầu một, chuẩn bị đi ngủ trong chiếc áo thun ngắn tay màu đen dài.

“Thế nào, chuyện sao rồi, chàng trai đang yêu?”

“Ờ, cậu biết đấy. Tốt đẹp.”

“Thế là tình yêu đã nảy nở?”

“Không phải ‘yêu’. ‘Thích’ thôi.”

“‘Thích’ nảy nở. Tớ nghĩ vậy. Tớ cảm nhận được điều đó. Giống như trong không khí ấy. Làm tốt lắm, Brian. Vậy cậu hãy kiên trì ở đó nhé, anh bạn.”

Trên đường về nhà tôi đi đến gara mở thâu đêm và tự thết đãi mình một Picnic và lon Lilt bằng số tiền tiết kiệm được nhờ khóc lóc. Khi tôi về đến Richmond House thì đã gần hai giờ sáng. Có ba mẩu giấy nhắn viết tay được đính trên cửa phòng...

7:30 Brian - mẹ cậu gọi.

10:45 Spencer gọi. Nhắn là cậu ấy “đã chán đến phát điên”. Cậu ấy ở trạm xăng suốt đêm. Gọi lại cho cậu ấy.

Brian, cậu làm ơn đừng xài sữa rửa mặt Apri của tớ mà không thèm hỏi nhé?

17

CÂU HỎI: Chính xác thì Dorothy Gale phải làm gì để quay về Kansas?

TRẢ LỜI: Đập gót chân xuống đất ba lần, trong đầu thì nghĩ rằng “Không Nơi Nào Tốt Hơn Ở Nhà”.

***

Khi tôi mở cửa vào nhà, mẹ vẫn còn ở Woolworths, nên tôi pha một ca đầy trà, quăng phịch người xuống ghế sofa, lấy bút đánh dấu cẩn thận chương trình ti vi sẽ xem vào dịp Giáng sinh trên tờ tập san của Radio Times. Tôi cảm thấy kiệt sức hoàn toàn, thật không may, điều này phần lớn là do loại bia tự ủ của Josh và Marcus hơn là những nhiệt thành học hành. Một vài tuần lễ cuối của học kỳ đã trôi qua với một vài bữa tiệc buồn tẻ thưa thớt người tham dự trong ngôi nhà của những người xa lạ, hay trò uống thi trong nhà bếp với đám bạn của Josh và Marcus; những thằng con trai chơi thể thao to cao, lực lưỡng và những đứa con gái nồng nhiệt, có làn da rám nắng quanh năm ở những đội thể thao dùng vợt để bắt và ném bóng, hết thảy đều dựng cổ áo sơ mi lên, đều học tiếng Pháp, đều đến từ những hạt xung quanh Luân Đôn, và đều có mái tóc vàng hoe chải ra sau giống hệt nhau. Tôi đã chế ra một câu chuyện đùa khá hay về kiểu con gái này, đó là tất cả bọn họ đều đi ra từ cỗ xe ngựa có-chùm-tua-trên-nóc[1] nhưng không may là không có ai để kể chuyện đùa đó.

[1] Nguyên văn “Surrey-with-a-fringe-on-top”: tên một bài hát.

Dù sao đi nữa, bất kể người ta dạy họ cái gì ở những trường tư đó, học chắc chắn biết cách uống bia. Tôi cảm thấy bị đầu độc, xanh xao và ốm đói, và tôi mừng vì đã về đến nhà, được nằm dài trên ghế sofa, xem ti vi. Trưa nay không có chương trình gì hay, chỉ có một vài phim cao bồi, tôi bèn đưa mắt nhìn mông lung vào những tấm ảnh hồi đi học của mình để trên nóc ti vi, chụp trước khi bố mất. Còn điều gì xám xịt và buồn bã hơn một tấm ảnh cũ hồi đi học? Họ nói máy chụp hình làm tôi trông mập ra khoảng hai ký rưỡi, nhưng có vẻ trong tấm ảnh này số ký lô tăng thêm đó đã dồn hoàn toàn vào đám mụn trứng cá. Tôi trông hệt như người Trung cổ, một nạn nhân của dịch bệnh, toàn những mụn nhọt, và tôi tự hỏi mẹ thấy thế nào khi tôi cười nhăn nhở khả ố trước mặt bà lúc bà đang cố xem ti vi.

Tấm ảnh khiến tôi nản lòng đến mức phải tắt ti vi và đi vào bếp để đun ấm nước pha thêm trà. Trong khi đợi nước sôi, tôi nhìn ra sân sau, một miếng đất nhỏ phủ bóng râm có kích thước của một cái giường đôi mà mẹ đã lát gạch sau khi bố mất, cho đỡ buồn. Tôi pha trà rồi đem túi xách đi lên phòng ngủ ở trên gác. Mẹ đã tắt lò sưởi, để tiết kiệm hơi đốt, thế là phòng lạnh như đá, nên tôi để nguyên quần áo leo lên giường và nhìn lên trần nhà. Chả hiểu sao cái giường có vẻ như nhỏ hơn, giống như giường trẻ con, mà thực ra thì căn phòng trông nhỏ hơn chứ không chỉ cái giường. Chúa mới biết tại sao, không phải là do tôi đã lớn thêm ra, nhưng rồi, chỉ sau ba tháng tôi bắt đầu cảm thấy đây giống như phòng của một người khác. Những thứ để ở đây giống như đồ chơi của con nít - những đống truyện tranh, những hóa thạch nằm ở ngưỡng cửa sổ, những mẩu ghi chú của Brodie, mô hình máy bay phủ một lớp bụi treo trên trần nhà, những cái áo sơ mi đi học cũ treo trong tủ quần áo. Vì nguyên cớ nào đó, tôi bắt đầu cảm thấy thoáng buồn, nên bèn nghĩ về Alice một lát, và rồi tôi ngủ thiếp đi.

***

Tôi đã không nói chuyện với nàng đúng nghĩa một thời gian dài rồi. Cuộc họp đội tuyển cuộc thi Thách thức đã được giải tán cách đây hai tuần, và kể từ bữa đó nàng dường như bị nuốt chửng vào trong cái hội nhỏ của mình, một đám ồn ào, khép kín với những đứa con trai con gái xinh đẹp, bảnh bao mà tôi đã thấy trong quán bar sinh viên, hay khi họ lái xe quanh phố, bảy hay tám người nhét chật ních vào chiếc xe 2CV vàng nhạt đầy khói, chuyền tay nhau chai vang đỏ và nghe nhạc của Jimi Hendrix, sau đó cả bọn quay lại căn hộ kiểu vua George của một người trong nhóm để thích thú chia sẻ ma túy và làm tình với nhau. Trên thực tế lần tôi tiếp cận Alice với khoảng cách gần nhất là ở quán bar sinh viên cách đây hai ngày. Tôi đã tiến lại và nói “Xin chào”, bọn họ đều đáp lại “Xin chào”, tươi tỉnh và mỉm cười, nhưng không may là không có đủ ghế ở bàn để tôi có thể ngồi xuống cùng với họ. Hơn nữa, Alice phải vẹo cả cổ mới quay lại nói chuyện được với tôi, và cũng không mất nhiều thời gian để bạn có thể đứng ở ngoài rìa một nhóm giống như thế trước khi bạn bắt đầu cảm thấy như thể mình đang làm nhân viên dọn bàn. Dĩ nhiên tôi không cảm thấy gì ngoài sự khinh thường cái đám trịch thượng, tự mãn, bảnh chọe đó, nhưng không may sự khinh thường đó không đủ để tôi không muốn là một thành viên của họ.

Nhưng chúng tôi cũng đã xoay xở nói chuyện đủ lâu để Alice có thể xác nhận rằng chuyến đi nghỉ ở ngôi nhà nông thôn sẽ được tiến hành. Tôi không phải mang gì theo ngoại trừ thật nhiều sách và áo khoác. Thật ra nàng đã cười nhạo khi tôi hỏi có phải đem theo khăn tắm không. “Nhà tớ có cả đống khăn tắm,” nàng nói, và tôi nghĩ, phải, đương nhiên nàng có rồi. “Không thể chờ được nữa,” nàng nói. “Không thể chờ thêm được nữa,” tôi nói, nhưng tôi thật sự có ý đó, vì tôi biết ở trường tôi thật sự chẳng bao giờ có thể chiếm nhiều thời gian của nàng, có quá nhiều điều phân tâm, quá nhiều những thằng con trai gầy cao lêu nghêu nghễu nghện có tiền của và căn hộ riêng. Nhưng cuối cùng, khi chúng tôi đi xa với nhau, chỉ có tôi và nàng, đó sẽ là cơ hội của tôi, thời cơ to lớn để chứng minh cho nàng thấy việc chúng tôi ở bên nhau là hoàn toàn không thể tránh khỏi.

***

Đó là buổi sáng ngày Giáng sinh, việc đầu tiên tôi làm khi thức dậy là ăn một tô Frosties đầy và bật ti vi lên. Bây giờ khoảng mười giờ, và bộ phim Phù thủy xứ Oz đã chiếu rồi, nên tôi để màn hình bật trong khi mẹ và tôi mở quà của nhau. Bố cũng hiện diện ở đó, theo cái cách, giống như hồn ma của Jacob Marley, ăn mặc giống trong tấm ảnh cũ chụp bằng máy Polaroid mà tôi còn giữ, trông mệt mỏi và chua chát trong cái áo ngủ đỏ tía, mái tóc đen chải ngược ra sau, ông mang một đôi dép lê mới và đang hút bao thuốc tôi đã mua và gói lại làm quà cho ông.

Năm nay mẹ mua cho tôi mấy cái áo gi lê mới và Tuyển tập chọn lọc của E. E. Cummings mà tôi đã yêu cầu rõ ràng, và bà đã phải đặt mua đặc biệt. Tôi xem giá tiền trên trang giấy để trắng ở đầu và cảm thấy cắn rứt lương tâm vì nó đắt quá, ít nhất cũng bằng một ngày lương, nhưng tôi bèn cảm ơn và hôn lên má bà, đưa món quà của tôi cho bà để đáp lại - một giỏ những chai dầu thơm nhỏ đan bằng liễu gai mua ở Body Shop, và một cuốn Ngôi nhà lạnh lẽo cũ thuộc tủ sách Everyman’s Library.

“Gì đây?”

“Đó là một tác phẩm của Dickens yêu thích của con. Hay tuyệt vời.”

“Ngôi nhà lạnh lẽo? Nghe như chính ngôi nhà này vậy.”

Và câu nói đó vừa mới tạo dựng nên tinh thần chung cho ngày hôm nay, thật sự là như vậy. Giống như trong truyện của Dickens.

Chú Des cùng ăn bữa tối Giáng sinh với chúng tôi. Vợ chú Des đã bỏ chú để chạy theo một gã đồng nghiệp cách đây hai năm, nên hằng năm mẹ đều mời chú ăn bữa tối Giáng sinh vì chú không còn nhiều người thân. Mặc dù không phải là chú ruột của tôi, chỉ là một người sống cách ba căn nhà, chú vẫn nghĩ là bằng cách nào đó có quyền làm rối tung tóc tôi và trò chuyện với tôi như thể tôi mới mười hai tuổi.

“Thế cháu thế nào hả, nhóc tì?” chú hỏi, bằng cái giọng dỗ dành con nít.

“Khỏe, cảm ơn chú Des.”

“Trời đất quỷ thần ơi, ở trường đại học họ không dạy cháu cách dùng lược hay sao!” chú thốt lên, vò đầu tôi. “Nhìn bộ dạng của cháu mà xem!” - rối, xù lên, bù xù - và tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tất cả điều này thật buồn cười khi được phát ra từ một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi có mái tóc vàng hoe uốn quăn và một bộ râu nham nhở hệt như được cắt ra từ một mẫu thảm, nhưng tôi im lặng vì mẹ không thích tôi cãi lại chú Des. Thế là tôi làm bộ lúng túng ngượng ngùng và tự thấy mình hãy còn may và ít ra năm nay chú ấy không lấy năm mươi xu ra từ đằng sau tai tôi.

Mẹ thò đầu khỏi cửa và thông báo, “Món cải lên nhé!” Một luồng hơi nóng chất diệp lục phảng phất đã xác thực lời cảnh báo của bà, và tôi cảm thấy hơi buồn nôn, vì tôi vẫn còn có thể cảm nhận được vị của Frosties bị mắc kẹt giữa mấy cái răng khôn. Sau đó bà quay lại nhà bếp còn chú Des và tôi ngồi xem Phù thủy xứ Oz với âm lượng được vặn nhỏ xuống.

“Quỷ thần ơi, không phải lại là thứ rác rưởi này chứ!” chú Des la lên. “Giáng sinh nào cũng Phù-thủy-chết-tiệt-của-cái-xứ-Oz-chết-bầm.”

“Chú nghĩ họ sẽ tìm một bộ phim khác để chiếu sao?!” tôi hỏi. Rồi chú Des hỏi về trường học.

“Vậy thật sự thì cháu làm gì suốt cả ngày hả?” Tôi cho đó là một câu hỏi hay, và là câu hỏi tôi đã tự vấn bản thân đôi lần.

“Nhiều chuyện để làm lắm - đi lên giảng đường, đọc sách, viết tiểu luận - đại loại như vậy.”

“Và chỉ vậy thôi hả? Quỷ thần ơi - tốt cho một vài...!”

Phải đổi chủ đề thôi. “Thế còn chú thì sao hả chú Des, công việc của chú thế nào rồi?”

“Ồ, không có gì ầm ĩ, Bri à, lúc này thì không có gì ầm ĩ...” Chú Des làm trong ngành xây dựng - xây nhà kính trồng hoa, cổng vòm và mái hiên - hay ít nhất chú đã làm công việc đó cho đến khi có vụ ly dị và suy thoái kinh tế. Hiện tại chiếc xe tải nằm lười nhác trước nhà, và chú Des dành phần lớn thời gian để tháo rời động cơ, rồi gắn chúng lại, hoàn toàn không chuẩn xác, để sau đó phải tháo chúng ra một lần nữa. “Người ta dường như không muốn mở mang cái gì cả, khi đang trong cuộc suy thoái. Những cái đó đúng là xa xỉ phẩm, những cổng vòm và nhà kính ấy...” Rồi chú lấy ngón tay ép râu xuống, và liếc nhìn thê lương vào bộ phim Phù thủy xứ Oz, những con khỉ hơi phiền toái có cánh mọc ra ở sau lưng, còn tôi thì thấy thật tệ nếu đi hỏi chú về công việc khi mà tôi đã biết là nó chẳng hề suôn sẻ. Sau khi một hay hai hồi ngây người nhìn vào những con khỉ đang bay, chú ấy kéo mình ra khỏi sự bâng quơ đó, bằng một sự nỗ lực vận động của cơ thể, ngồi thẳng lưng hết mức có thể theo độ dài lưng ghế, và vỗ tay. “Được rồi, giờ uống chút gì đó chứ? Rốt cuộc thì hôm nay cũng là Giáng sinh kia mà. Thuốc độc của cháu là gì đây Bri?” rồi thì, bí ẩn “... ngoại trừ món cải Brussels!”

Tôi nhìn đồng hồ để trên bệ lò sưởi - đã 11 giờ 55 rồi. “Chú Des này, cháu sẽ uống bia,” và chú lăng xăng đi vào nhà bếp, làm như thể chú ấy sống ở đây vậy.

Lúc ăn bữa trưa trong nhà bếp và kênh Radio 2 đang bật, tôi quyết định công bố tin trọng đại.

“Nhân đây - con muốn thông báo một chuyện...”

Mẹ ngừng nhai. “Chuyện gì?”

“Một số chuyện đã xảy ra ở trường đại học vào cuối học kỳ.”

“Ôi, Chúa ơi, Brian...” mẹ nói, bụm tay che miệng.

“Mẹ đừng lo, chuyện không tệ đâu...!”

Bà nhìn sang chú Des, rồi căng thẳng nói, “Nói tiếp đi con...”

“À, con sắp tham gia chương trình Thách thức Đại học!”

“Gì cơ, cái chiếu trên ti vi đó hả?” chú Des hỏi.

“Trúng phóc! Con ở đội tuyển!”

Mẹ bắt đầu cười sặc sụa, và nhìn sang Des, cũng đang cười phá lên. “Chúc mừng cháu, Bri,” chú nói, và đặt nĩa xuống để rảnh bàn tay vò tóc. “Đấy là một tin vẻ vang, thật sự là vẻ vang...”

“Chúa ơi, và thật nhẹ cả người,” mẹ nói, uống một ngụm rượu đầy, và đặt tay lên ngực để làm dịu nhịp tim đang đập.

“Sao vậy mẹ, thế mẹ nghĩ con sắp nói gì cơ?”

“À, con cưng, thật tình là, mẹ nghĩ con bảo mẹ là con bị đồng tính!” bà nói rồi lại phá lên cười, và nhìn sang chú Des, chú ấy cũng bắt đầu cười, cười lắm đến mức tôi e chú ấy sắp bị nghẹn rau cũng nên.

Vào buổi chiều, sau khi xử lý xong món gà tây, chú Des tự rót cho mình một ly Scotch lớn và châm một điếu xì gà dài nhỏ, còn mẹ châm một điếu Rothman, rồi chúng tôi chăm chú theo dõi chương trình Top of The Pops. Chú Des càu nhàu mỗi lần máy quay chĩa vào những ca sĩ hát đệm ăn mặc hở hang, mẹ cười khoan dung và vỗ vào cánh tay chú. Bà nghĩ ra cách thức riêng của mình để giải quyết một thùng rượu sô cô la truyền thống, cắn cái nắp ra khỏi những chai rượu sô cô la nhỏ và rót nhỏ giọt nhiều loại rượu khác nhau vào miệng mình, hệt như một kẻ nghiện rượu khó tính. Đây là một bước tiến mới đầy kỳ quái trong việc nghiện rượu của bà, và tôi không biết điều gì đã khiến bà như thế, nhưng không muốn bị bỏ lại đằng sau, tôi tiếp tục uống hết một lốc bốn lon bia. Vì tôi là một tay nghiện nhạc jazz, và luôn cập nhật tình hình âm nhạc thịnh hành hiện nay, tôi đã giúp nhận dạng những gương mặt ít tên tuổi trong đoạn video Do They Know It’s Christmas? (Họ có biết luôn nay là Giáng sinh không), sau đó cả nhà xem Bài diễn văn của Nữ hoàng, rồi chú Des lên đường đi gặp người mẹ già của chú ở phố trên, nhưng hứa sẽ quay lại lúc sáu giờ để ăn những món còn thừa và chơi trò cờ tỉ phú truyền thống, kéo dài vô tận, mà chú Des chắc chắn sẽ thắng, nhưng chỉ bằng cách tự chỉ định mình là nhà cái và gian lận tiền nong.

Sau đó trước khi mặt trời tối hẳn, mẹ và tôi mặc áo khoác rồi đi ra ngoài. Mẹ nắm lấy khuỷu tay tôi khi hai mẹ con đi bộ vài dặm đến nghĩa trang để đặt hoa lên mộ bố. Không khí ẩm và lạnh khiến bà có phần còn say hơn, và tôi phải cúi xuống để nghe bà nói chuyện. Bà có mùi của cây xô thơm, hành và rượu Tia Maria.

Như thường lệ tôi đứng với mẹ một lát và bảo làm sao mà bia mộ trông vẫn còn đẹp thế nhỉ, rồi tôi đi khỏi và đứng ra xa một đoạn để chờ trong khi mẹ nói chuyện với bố. Tôi luôn cảm thấy có phần không thoải mái khi chờ đợi mà không có sách để đọc, nên thay vào đó tôi cố nhận dạng các loài chim, nhưng chỉ có con quạ và ác là (thuộc họ quạ), sáo đá (họ sáo sậu) và sẻ (họ sẻ nhà), tôi chẳng hiểu tại sao nghĩa trang luôn thu hút những loại chim mang đến điềm báo chết chóc, bệnh tật và khổ đau như thế, và sau khoảng mười phút thì mẹ nói xong những gì phải nói, bà chạm nhẹ vào bia mộ, và bỏ đi, cúi đầu xuống, và nắm lấy cánh tay tôi, không nói lời nào cho đến khi bà có thể phần nào kiểm soát được hơi thở và có thể nói chuyện bình thường. Bây giờ thì trời đã tối hẳn, nhưng hai đứa nhóc từ điền trang trong vùng đang lái những chiếc xe đạp BMX mới mà chúng nhận được trong dịp Giáng sinh giữa những ngôi mộ, đạp phanh mạnh hết cỡ để bánh xe trượt xuống thấp làm đám sỏi bị văng lên. Mẹ, mắt vẫn còn đẫm lệ và hơi say do rượu sô cô la, cảm thấy khó chịu trước việc đó, và bắt đầu quát lên với chúng - “Các cháu không nên làm như vậy, không phải ở nghĩa trang, hãy biết tôn trọng chút đi.” Một đứa giơ tay chữ V rồi đạp xe ngang qua, cười vang và hét vọng lại, “Xéo đi, lo chuyện của bà đi, bà già dấm dỡ”. Tôi có thể cảm thấy mẹ lại đang bật khóc và đột nhiên tôi có mong muốn sục sôi là rượt sau thằng oắt đó, túm lấy mũ trùm của cái áo parka và hất nó ra khỏi chiếc xe đạp mới, đè đầu gối lên lưng nó và chà cái mặt đểu cáng, ngu si của nó xuống đám sỏi, để xem mất bao lâu thì nó nín cười. Và rồi cũng đột nhiên tôi ước mình đang ở một nơi xa, xa thật xa nơi này, nằm bất động với một ai đó, trên một chiếc giường ấm áp, chìm vào giấc ngủ.