Nhà Giả Kim (Câu Chuyện Một Giấc Mơ)

Chương 5



CHÀNG TRAI ĐÃ LÀM VIỆC CHO NGƯỜI THƯƠNG GIA PHA LÊ GẦN MỘT THÁNG, và chàng có thể thấy rằng nó không thật sự là loại việc làm có thể sẽ làm cho chàng vui tươi, hạnh phúc, an lạc. Ông chủ dành cả ngày lẩm bẩm phía sau quầy hàng, nhắc nhở chàng trai cẩn thận với từng món hàng để không đổ vở bất cứ thứ gì.

Chàng trai đã ở lại với việc làm bởi vì ông thương gia mặc dù là một ông già hay càm ràm, nhưng song phẳng; chàng nhận tiền hoa hồng tốt với mỗi món đồ vật bán được, và có thể dành giụm được một số tiền. Sáng hôm nọ, chàng trai đã làm xong một bài tính nhẩm: nếu tiếp tục làm việc hàng ngày, chàng sẽ cần suốt cả năm mới có tiền mua một số con cừu.

“Tôi muốn làm một cái kệ để đặt những món hàng pha lê,” chàng trai nói với người thương gia. “Chúng ta có thể đặt nó phía bên ngoài, và gợi sự chú ý cho những người đi ngang dưới chân đồi.”

“Người ta đi ngang sẽ đụng vào nó, và những món hàng sẽ vở đi.”

“Ồ, khi tôi đưa những con cừu của tôi qua những cánh đồng một vài con có thể chết nếu chúng tôi đến trước một con rắn. Nhưng đấy là con đường sống của những con cừu và những người chăn cừu.”

Người thương gia đã quay lại với một khách hàng, muốn mua ba chiếc ly pha lê. Ông ta bán nhiều hơn bao giờ hết…như là thời gian đã trở lại như những ngày đường phố này là một trong những con đường rộn rịp mà hầu hết mọi người để ý đến.

“Việc buôn bán đã thật sự tăng tiến,” ông ta nói với chàng trai, khi người khách đã rời khỏi. “Bác đang làm ăn khá hơn nhiều, và chẳng bao lâu cậu có thể trở lại với đàn cừu của cậu. Tại sao phải đòi hỏi hơn với đời sống.”

“Bởi vì chúng ta phải đáp ứng với những điềm lành,” chàng trai nói, hầu như không có ý gì khác; rồi thì chàng hối hận vì đã nói những điều ấy, ông ta chưa từng gặp vị vua già.

“Nó gọi là điểm chính yếu của thuận lợi, bắt đầu của sự may mắn. Bởi vì cuộc sống muốn cậu đạt đến “huyền thoại cá nhân” của cậu,” vị vua già đã nói như thế.

Nhưng người thương gia đã hiểu những gì chàng vừa nói. Sự hiện diện của chàng trai trong cửa hiệu là một điềm lành, khi thời gian trôi qua và tiền được tuôn vào hộc, ông ta không hối hận gì vì đã thuê chàng trai. Chàng trai được trả tiền nhiều hơn chàng nghĩ, bởi vì người thương gia, nghĩ rằng khối lượng hàng buôn bán thật quá nhiều, nên đã cho thêm tiền hoa hồng cao hơn. Chàng cho rằng chẳng bao lâu chàng sẽ trở lại với đàn cừu.

“Tại sao cậu muốn đến những Kim Tự Tháp?” ông ta hỏi, để tránh sự phô bày việc buôn bán.

“Bởi vì tôi luôn luôn nghe nó đến chúng,” chàng trai trả lời, không nói gì đến giấc mơ của chàng. Kho tàng giờ đây không là gì cả mà chỉ là một kỷ niệm đau buồn, và chàng cố gắng để tránh nghĩ về nó.

“Bác không biết bất cứ ai ở quanh đây muốn vượt qua sa mạc chỉ để nhìn thấy những Kim Tự Tháp,” người thương gia nói. “Chúng chỉ là những khối đá. Cậu có thể dựng nó trong vườn.”

“Bác chưa từng có những giấc mơ du hành,” chàng trai nói, quay sang đón một khách hàng vừa vào tiệm.

Hai ngày sau đấy, người thương gia nói với chàng trai trưng bày phô trương.

“Bác không thích thay đổi nhiều,” ông ta nói. “Bác và cậu không giống như Hassan, người giàu có kia. Nếu ông ta có một sự mua bán sai sót, nó không ảnh hưởng với ông ta nhiều. Nhưng cả hai chúng ta phải sống với sai lầm của chúng ta.

Sự thật ấy quá đủ, chàng trai nghĩ, một cách đáng thương.

“Tại sao cậu nghĩ chúng ta nên phô trương việc buôn bán?”

“Tôi muốn trở lại với đàn cừu của tôi nhanh hơn. Chúng ta phải tận dụng cơ hội khi may mắn và thuận lợi đang ở với chúng ta, và làm thật nhiều để khuếch trương việc ấy, nó đang hổ trợ chúng ta. Nó gọi là điểm chính yếu của thuận lợi. Hay sự bắt đầu của may mắn.”

Người thương gia im lặng một lúc. Rồi ông ta nói, “Đấng Tiên Tri cho chúng ta Kinh Koran, và để lại cho chúng ta chỉ năm nhiệm vụ để làm tròn trong suốt cuộc đời của chúng ta. Việc quan trọng nhất là tin tưởng chỉ ở một Thượng Đế chân thật. Những điều khác là cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan, và giúp đở những người nghèo.

Ông ta dừng ở đấy. Đôi mắt ông ta đẫm lệ khi nói về Đầng Tiên Tri. Ông ta là tín đồ ngoan hiền, và, ngay với tất cả sự không kiên nhẫn, nôn nóng của mình, ông muốn sống cuộc đời tuân thủ những luật lệ của Hồi giáo.

“Bổn phận thứ năm là gì?” chàng trai hỏi.

“Hai ngày trước đây, cậu nó là tôi chưa bao giờ mơ đến du hành,” người thương gia nói. “Bổn phận thứ năm của mỗi người Hồi giáo là một người hành hương. Chúng tôi được đặt nghĩa vụ, ít nhất một lần trong đời của chúng tôi, phải viếng thăm thành phố thánh địa Mecca.”

“Mecca xa hơn nhiều đối với những Kim Tự Tháp. Khi còn trẻ, tất cả những gì bác muốn làm là giành dụm đủ tiền để mở cửa hiệu này. Bác nghĩ một ngày náo ấy bác giàu có và có thể đến Mecca. Bác bắt đầu làm ra tiền, nhưng bác đã không tìm ra cho bác một người để phó thác cửa hiệu; pha lê thì dễ vở. Cùng lúc ấy, bao nhiêu người đã đi ngang qua cửa hiệu của bác, hướng đến Mecca. Một ít trong những người ấy là những kẻ giàu có, trong từng đoàn với những người hầu hạ và những con lạc đà, nhưng hầu hết là những người hành hương nghèo hơn bác.

“Tất cả những người đến ấy đều vui vẻ chưa từng có. Họ đặt những dấu hiệu của người hành hương trên cửa của họ. Một trong những người ấy, một người thợ làm giày, sống bẵng nghề chửa vá những đôi ủng, nói rằng ông ta đã du hành suốt cả một năm qua sa mạc, nhưng ông ta mệt mỏi hơn khi phải đi bộ qua những đường phố Tangier để mua da cho ông ta.

“Ô thế thì tại sao bác không đi Mecca bây giờ? Chàng trai hỏi.

“Bởi vì sự tư duy về Mecca đã giữ cho bác sống. Đấy là những gì hổ trợ cho bác đối diện với những ngày luôn luôn giống nhau như thế này, những món hàng pha lê câm nín trên kệ, và buổi ăn trưa và ăn chiều tại cùng tại cái quán cóc cà phê chán ngắt ấy. Bác sợ rằng nếu ước mơ của bác thành hiện thực, bác sẽ không còn lý do gì để tiếp tục sống.

“Ước mơ của cậu về những con cừu và đến Kim Tự Tháp, nhưng cậu khác với bác, bởi vì cậu muốn thực hiện niềm mơ ước của cậu. Bác chỉ muốn mơ về Mecca. Bác đã tưởng tượng hàng nghìn lần vượt qua sa mạc, đến Công trường Tảng Đá Thánh, và đi nhiễu chung quanh bảy lần trước cho phép mình chạm vào nó. Bác đã tưởng tượng những người bên cạnh bác, và những ai phía trước bác, và những mẫu đối thoại và những lời cầu nguyện mà mình có thể trao đổi với nhau. Nhưng bác sợ rằng nó sẽ là tất cả những gì của một sự thất vọng, nên bác chỉ thích mơ về điều ấy.”

Ngày hôm ấy, người thương gia cho phép chàng trai làm một chiếc kệ trưng bày hàng bán. Không ai có thể thấy những mơ ước của ông ta đến trong cùng ngày.

°

HAI THÁNG NỮA ĐÃ TRÔI QUA, VÀ CHIẾC KỆ đã hấp dẫn biết bao khách hàng đến cửa hiệu. Chàng trai đoán rằng, nếu làm sáu tháng nữa, chàng có thể trở lại Tây Ban Nha và mua sáu mươi con cừu. Trong không đầy một năm, chàng có thể nhân gấp đôi đàn cừu lên, và chàng có thể trao đổi buôn bán với những người Ả Rập, bởi vì giờ đây chàng có thể nói thứ ngôn ngữ lạ của họ. Kể từ buổi sáng ở trong chợ, chàng chưa bao giờ dùng lại hai viên đá Unim và Thummim bởi vì Ai Cập giờ đây chỉ như khoảng cách của một giấc mơ đối với chàng như Mecca đối với ông thương gia. Tuy vậy, bất cứ thế nào đi nữa, chàng trai đã trở nên vui vẻ với công việc, mặc dù chàng luôn nghĩ đến ngày chàng sẽ đặt chân lên Tarifa , Tây Ban Nha, như một kẻ thắng cuộc.

“Cậu phải luôn luôn biết là cậu muốn gì,” vị vua già từng nói. Chàng trai đã biết, và bây giờ đang làm việc để hướng đến nó. Có lẻ nó là kho tàng của chàng mà chàng phải kết cuộc như thế trên mãnh đất lạ ấy, gặp phải một tên trộm, và nhân đôi đàn cừu mà không phải chi dụng gì cả.

Chàng tự hào với chính mình. Chàng đã học một số những việc quan trọng, giống như phải hành xử như thế nào với những món hàng pha lê, và về những ngôn ngữ không lời … và về những điềm lành. Một buổi chiều chàng thấy một người đàn ông trên đỉnh đồi, phàn nàn rằng không thể tìm ra một nơi lịch sự, tươm tất để kiếm một cái gì ấy giải khát sau khi phải leo lên một ngọn đồi như thế. Chàng trai, đã quen với việc nhận ra những điềm lành, nói với người thương gia rằng:

“Hãy bán trà cho những người leo lên đồi.”

“Hàng khối những nơi bán trà chung quanh đây,” người thương gia nói.

“Nhưng chúng ta có thể bán trà trong những chiếc ly bằng pha lê. Người ta thưởng thức trà và muốn mua những chiếc ly. Tôi từng nghe nói rằng xinh đẹp là sự cám dỗ của những người đàn ông.”

Người thương gia không trả lời, nhưng buổi trưa ấy, sau khi cầu nguyện, và đóng cửa hiệu, ông ta mời chàng trai ngồi xuống với ông ta và chia sẻ ống điếu hookah cùng ông, chiếc ống điếu lạ ấy được dùng bởi những người Ả Rập.

“Cậu đang tìm kiếm điều gì?” ông hỏi.

“Tôi đã nói với bác rằng, tôi cần mua lại đàn cừu, vì vậy tôi phải giành dụm tiền để làm như thế.”

Ông ta đặt thêm thuốc vào ống điếu, và rít vào một hơi dài.

“Bác đã có cửa hàng này ba mươi năm rồi, bác biết pha lê tốt hay xấu, và mọi thứ khác để biết về pha lê. Bác biết không gian của chúng và thái độ chúng thế nào. Nếu chúng ta phục vụ trà trong pha lê, cửa hiệu sẽ mở rộng. Và rồi bác phải thay đổi cung cách của đời sống của bác.”

“Ô, thế điều ấy không tốt sao?”

“Bác đã quen với sự việc thế này rồi. Trước khi cậu đến, bác đã nghĩ là không biết bao nhiêu thời gian mà bác đã hoang phí cùng một nơi như thế này, trong khi bạn bè của bác đã dời đi, cũng có người đã phá sản hay có kẻ thành công hơn trước đây. Nó làm bác rất nản. Bây giờ, bác có thể thấy rằng nó không đến nổi quá tệ. Cửa hiệu chính xác ở cái kích thước mà bác luôn luôn muốn nó được như thế. Bác không muốn thay đổi bất cứ thứ gì, bởi vì bác không biết phải đối phó thế nào với sự đổi thay. Bác đã quen với cung cách của bác.

Chàng trai không biết nói gì hơn. Ông già nói thêm, “Cậu đã là một sự phù hộ thật sự đối với bác. Hôm nay bác hiểu thêm những việc mà bác không thấy trước đây: mọi sự phù hộ bị phớt lờ sẽ trở thành những sự nguyền rủa. Bác không thay đổi bất cứ gì khác trong cuộc sống. Nhưng cậu đang thúc đẩy bác nhìn thấy sự thịnh vượng ở những chân trời mà bác chưa từng biết. Bây giờ bác đã thấy chúng, và giờ đây bác đã thấy khả năng bao la của bác như thế nào. Bác sẽ cảm thấy bác đã làm tệ hơn, trước khi cậu đến đây. Bởi vì bác biết những việc bác có thể hoàn thành, và bác không muốn làm như thế.

May thay mình đã kềm chế không nói gì với người thợ làm bánh ở Tarifa, chàng trai nghĩ như thế.

Họ tiếp tục hút thuốc bằng ống điếu hookah trong một lúc khi mặt trời bắt đầu khuất bóng. Họ đang nói chuyện bằng tiếng Ả Rập, và chàng trai cảm thấy hảnh diện vì có thể làm như thế. Đã có lúc chàng nghĩ rằng đàn cừu có thể chàng mọi thứ chàng cần để biết trên thế giới. Nhưng chúng không bao giờ có thể dạy chàng tiếng Ả Rập.

Chắc chắn có những thứ khác trên thế giới mà đàn cừu không thể dạy chàng, chàng trai nghĩ khi nhìn về ông thương gia già. Thật sự tất cả những gì chúng từng làm là tìm thực phẩm và nước uống. Và có thể chúng không dạy chàng điều gì, nhưng chàng học từ chúng.

“Maktub,” cuối cùng người thương gia nói.

“Thế là nghĩa gì?

“Cậu sẽ phải sinh ra là một người Ả Rập để hiểu,” ông trả lời. “Nhưng trong ngôn ngữ của cậu nó phải có những thứ gì giống như ‘Nó đã được viết’. ”

Và, khi ông ta dập tắt lửa than trong ống điếu, ông nói với chàng trai rằng ông ta có thể bắt đầu bán trà trong những ly tách pha lê. Đôi khi, dường như không có cách nào để ngăn trở một dòng sông.

°

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG LEO LÊN ĐỒI, VÀ HỌ MỆT NHỌC khi họ lên đến đỉnh. Nhưng rồi nơi ấy họ thấy một cửa hàng pha lê và bán trà làm sảng khoái. Họ vào để uống trà được đựng trong những ly tách pha lê tuyệt đẹp.

“Vợ tôi chưa từng nghĩ về điều này,” một người nói như thế và ông ta mua vài món pha lê – Ông ấy là một trong những khách hàng thích thú đêm ấy, và những khách hàng sẽ phải ấn tượng bởi sự tuyệt đẹp của những ly tách pha lê. Một người khách khác còn nhấn mạnh rằng trà luôn luôn ngon hơn khi nó được phục vụ trong những vật dụng pha lê, bởi vì hương vị được giữ lại. Người thứ ba nói rằng đấy là truyền thống phương đông, dùng những ly tách bằng pha lê để dùng trà vì nó có những năng lực diệu kỳ.

Chẳng bao lâu, tin ấy lan truyền, và hàng khối người bắt đầu leo lên đồi để thấy cửa hiệu đang làm những việc mới mẻ trong một ngành buôn bán quá cũ kỷ. Những quán khác được mở ra để bán nước trà trong pha lê, nhưng chúng không phải ở trên đỉnh đồi, và việc buôn bán của chúng cũng ít ỏi nhỏ nhoi.

Sau đấy, người thương gia phải mướn thêm hai người phụ việc. Ông ta bắt đầu nhập cảng hàng khối lượng khổng lồ trà, cùng với những vật dụng pha lê, và những người đàn ông, đàn bà mong mỏi tìm kiếm những thứ mới trong cửa hiệu của ông .

Và, theo cách ấy, bao tháng đã trôi qua.