Ngôi Nhà Cổ Trên Phố Tradd

Chương 5



Ba ngày sau buổi họp mặt đầy kịch tính ấy ở quán Râu Ðen, tôi trở thành chủ nhân của một đống gỗ xây nhà mục nát, một con chó lúc nào cũng gây vướng víu, một người quản gia, và một mặc cảm tội lỗi dài như con sông Cooper River. Về sau tôi sẽ tự nhủ làm thế nào mà cuộc sống hoàn hảo của tôi đã thay đổi một cách chóng vánh như thế, và điều duy nhất tôi chỉ có thể nghiệm ra chính là một khắc yếu lòng khi tôi bị lừa đảo bởi những thứ đơn giản như một món đồ sứ có sơn hình hoa hồng và một bức thư viết tay trên giấy viết thư tuyệt đẹp.

Tôi quay về ngôi nhà trên phố Tradd trong trang phục sẵn sàng chiến đấu. Thậm chí tôi còn mang theo một cái chổi quét lá có cán dài, một cái bay thợ nề, và một dụng cụ làm vườn cầm tay có những chĩa nhọn mà tôi chẳng thể nhớ tên gọi của nó là gì. Cô tiếp tân văn phòng Nancy Flaherty đã cho tôi mượn những món này, sau khi tôi kể cho cô ta nghe về tình trạng của khu vườn hiện nay. Cô ta thậm chí còn biết về những bông hoa hồng Louisa, và tôi có cảm giác mình giống như Ngài Lancelot khi cô ấy đưa cho tôi cái bay và nói một cách trịnh trọng, “Sự tồn tại của những bông hoa hồng ấy trên cõi đời này đang nằm trong tay chị đấy, Melanie ạ.”

Tôi tròn mắt. “Và từ khi nào mà chị bỏ thời gian đánh golf mà học nghề làm vườn thế?”

Cô ta không muốn mắc mồi nhử của tôi. “Làm vườn không phải là thứ mà chị phải học, Melanie ạ.” Rồi cô ta ép bàn tay mang găng đánh golf lên ngực. “Nó là thứ nằm ở đây này. Nó có thể là bẩm sinh, hoặc là thứ chị không bao giờ có. Và ai mà biết được chứ? Biết đâu chị có nó thì sao.”

Cô ta lại nhìn tôi như thể cô ta nghĩ rằng tôi đang nói đùa. “Chị cứ thử xem sao nào. Có lẽ chị lại thấy rằng mình thích chăm nom cho một khu vườn đấy.”

Tôi bước ra cửa, các dụng cụ làm vườn trong tay. “Ðúng đấy. Và thậm chí tôi còn có thể phát hiện rằng mình thật sự thích những ngôi nhà cổ thay vì chỉ nghĩ đến chúng như những cái lỗ hổng to tổ bố mà những con người ngu ngốc quẳng tiền vào.”

Cô ta giữ cửa cho tôi bước ra ngoài. “Có những việc còn lạ hơn thế đã xảy ra đấy chị ạ.”

Tôi đã ra đến vỉa hè thì Nancy lại gọi với theo một lần nữa. “Và chị biết không, chị sai rồi.”

Tôi dừng lại và nhìn cô ta. “Về cái gì?”

“Về việc chị không thuộc tuýp người thích chăm nom cho kẻ khác. Như nhiều người khác thì họ đã gạch sổ ba chị từ lâu rồi.”

Cô ta không chờ câu trả lời mà đóng cửa văn phòng, để lại tôi đứng đấy trên vỉa hè, nhìn chằm chằm vào cái cửa vừa đóng với một cảm giác vừa hận lại vừa khâm phục. Tôi bước xuống đường đi đến nơi đậu xe với một hy vọng nhỏ nhoi rằng tôi không quá luộm thuộm trong vụ làm vườn tược nhà cửa.

Nhưng ngay khi tôi vừa đứng trước cánh cổng ngôi nhà số 55 phố Tradd, thì tôi biết ngay không một chút ngờ vực rằng Nancy đã hoàn toàn sai lầm, và một lần nữa tôi lại nghĩ đến sáng kiến trát xi măng lại toàn bộ khu vườn như một đối trọng cho danh sách các lựa chọn của mình.

Tôi mở cánh cổng và bước vào, lại để ý thấy nó mở ra trên các bản lề một cách dễ dàng mà không có chút phản đối nào. Tôi đứng đấy một lúc, lắng nghe, rồi nhẹ nhõm khi không nghe thấy gì ngoài tiếng chim hót và chốc chốc là tiếng vo ve của một con ong trước khi bước tiếp vào khu vườn đầy cỏ dại và chiếc đài phun nước đìu hiu.

Hương hoa hồng lại áp đảo, nhưng không giống như mùi hoa lụi tàn và quá ngọt ngào. Mà là, nó giống như một kỷ niệm đẹp, như cảm giác được một người bà hiền dịu bế vào giường ngủ mỗi tối. Tôi không có được kỷ niệm đẹp như thế, nhưng tôi vẫn cảm giác bình yên một cách kỳ lạ khi ngửi hương thơm đã thấm đẫm góc vườn này.

Tôi đặt cái túi Nancy cho mượn xuống đất và bước chậm rãi chung quanh chiếc đài phun nước một lần nữa, cố tránh né cái nhìn đau khổ của tượng thiên sứ, và bước nặng nề trên đôi chân mang giày ba-ta giữa đám rừng cỏ dại cao ngất cho đến khi tôi đã đứng giữa vườn hồng. Tôi lại bị mê hoặc bởi hương thơm đang lan tỏa của chỉ bốn khóm hồng rồi gập người cúi xuống kéo một cụm cỏ dại đang lấn qua nhóm cây tuyết tùng vừa được cắt xén. Tôi lại thấy một cụm cỏ dại khác và lại cúi người xuống nhổ nó đi. Rồi tôi bắt đầu ngồi xổm xuống cạnh chân đài phun nước và bò lồm cồm vòng quanh nó chỉ với quyết tâm duy nhất là nhổ cho sạch cỏ dại.

Tôi không biết mình đã khom người làm việc ấy trong bao lâu, nhưng cuối cùng tôi chợt nhận ra rằng không chỉ có một mình tôi ở đấy. Tôi ngừng tay rồi từ từ đứng dậy, cảm thấy lưng mình oằn xuống vì đã khom người quá lâu. Tôi lại cảm thấy gáy mình bị châm chích bởi một cảm giác nóng lạnh quen thuộc, và tôi xoay người dõi tìm chiếc xích đu có người phụ nữ và cậu bé con mà tôi đã thấy lần trước.

Trước khi quay người lại thì tôi đã biết mình sẽ không nhìn thấy họ ở đó. Không có tiếng dây thừng cạ vào thân cây và thậm chí tiếng chíu chít của đám chim trong vườn cũng vụt tắt. Hương thơm ngào ngạt của những bông hồng tươi giờ đã hóa thành mùi của những cánh hoa chết và thối rữa vì đã nằm trong bình hoa quá lâu. Tôi chun mũi lại khi tôi nhìn đối diện bên hông ngôi nhà, và mắt tôi bị hút vào những ô cửa sổ trên lầu.

Mặt trời khuất sau một đám mây khi tôi nhìn vào bóng đen lúc này như đã chiếm lĩnh toàn bộ ô cửa sổ. Nó đã chuyển thành hình hài rõ rệt của một người đàn ông, và tôi có thể cảm nhận được cái nhìn chòng chọc từ gương mặt ấy. Mùi thối rữa trong vườn như cô đặc lại, và tôi vừa bịt mũi vì nôn ọe vừa lảo đảo bước ra khỏi khu vườn hồng và cố lê bước đến hành lang có mái vòm.

Mặt trời lại lóe sáng trên ô cửa sổ hoa hồng Tiffany trên cánh cửa trước khi tôi lục tìm chìa khóa trong túi áo bằng những ngón tay run rẩy. Theo kinh nghiệm lâu ngày của tôi về những việc như thế này thì tôi biết mình có hai lựa chọn: tôi có thể phớt lờ nó với hy vọng nó sẽ biến mất, hoặc tôi có thể đương đầu với nó để nó bỏ đi nhanh hơn. Với suy nghĩ này, tôi chọc chìa khóa vào ổ khóa rồi đẩy cửa vào.

Mùi thối rữa trong nhà còn nồng nặc hơn nữa, và tôi bịt chặt gấu áo sơ mi lên mũi rồi ép mình bước lên cầu thang chính và tìm đường vào căn phòng bên hông ngôi nhà nơi tôi vừa thấy cái bóng ma báo gở ấy trên cửa sổ. Ta mạnh hơn ngươi. Ta mạnh hơn ngươi, tôi thì thầm với chính mình, ngạc nhiên khi thấy những ngôn từ mà mẹ đã dạy tôi lại nằm sẵn trên đầu lưỡi mình như thế.

Tôi đứng bên ngoài cánh cửa và từ từ vặn chiếc tay nắm cửa bằng đồng. Chỉ với một cái vặn nhanh, cánh cửa bật mở trên những chiếc bản lề lặng lẽ rồi nhẹ nhàng chạm vào bức tường phía sau. Ngay lập tức tôi cảm nhận được rằng cái bóng người hay là bất cứ thứ gì khác mà tôi đã nhìn thấy khi nãy giờ đây đã không còn nữa. Tôi nhìn trộm vào phòng, trông thấy cái giường có khung màn treo, những chiếc màn cửa sổ bằng lụa trung đông thật dày, và những chiếc tủ nhiều ngăn kéo nặng nề, rồi cảm thấy có lỗi vì sự rình mò của mình. Tôi vừa bước được nửa đường ra hành lang thì chợt nhớ ra bây giờ tôi đã là chủ căn phòng này cùng với toàn bộ đồ đạc bên trong và rằng tôi không chỉ được phép để cửa phòng mở ngỏ, mà còn có thể cứ ngang nhiên đi vào mà không cảm thấy áy náy vì đã xâm phạm đời tư của người khác.

Tôi đưa mình đến đứng cạnh cửa sổ bên hông nhà, và hít một hơi thật sâu, ngạc nhiên vì lại ngửi được hương hoa hồng lần nữa. Tôi kiểm tra để chắc chắn rằng các cửa sổ trong phòng vẫn đang đóng và nhăn mặt, tự hỏi làm sao mà hương hoa hồng ở tận hai tầng lầu bên dưới lại có thể len lỏi qua lớp cửa sổ đang đóng và nồng nàn đến thế, như thể tôi đang dí mũi sát vào chúng vậy.

Hai tay chắp sau lưng, tôi đi đi lại lại quanh phòng, nhận ra rằng đây chắc hẳn phải là phòng ngủ của ông Nevin Vanderhorst. Trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường ngủ và trên đầu tủ đối diện là một đống những tấm hình trắng đen được lồng trong những khung hình màu bạc che phủ cả lớp gỗ sậm màu. Tôi tiến đến gần hơn, xem xét từng cái một như cách một nhà thực vật học nghiên cứu các con bướm bên dưới lớp kính, rồi kiểm tra từng chi tiết nhỏ vốn giúp người nghiên cứu thấy được mối quan hệ giữa các mẫu xét nghiệm.

Ðể bắt đầu, tôi nhận ra rằng người phụ nữ trong rất nhiều tấm hình chính là người phụ nữ tôi đã nhìn thấy trong vườn. Có vài tấm hình của ông Nevin thời còn nhỏ chụp chung với người phụ nữ này, và tôi nghĩ đó phải là Louisa Vanderhorst. Trông bà rất trẻ và xinh đẹp, với đôi mắt to đen giống hệt như đôi mắt của con trai bà, và họ cùng có một nụ cười rất ấm áp. Có một tấm hình cưới của bà chụp với một người đàn ông rất cao và một tấm hình bà đang ôm một đứa bé sơ sinh. Tấm hình gần giường nhất chắc hẳn phải là tấm hình mà ông Vanderhorst đã nhìn lần cuối mỗi đêm trước khi đi ngủ và cũng là vật đầu tiên mà ông ngắm nhìn mỗi sáng thức dậy. Ðó là chân dung của một đứa bé trai đang ngồi trên đùi mẹ, loại chụp ở tiệm ảnh. Họ đang ngồi đối diện nhau và cùng mỉm cười, mũi gần như chạm vào nhau. Tôi cầm khung hình lên để nhìn cho rõ hơn, rồi nhận ra rằng hương hoa hồng giờ đây đã trở nên nồng nàn hơn bao giờ hết.

Tôi nheo mắt lại rồi cầm khung hình kê sát vào mặt, ước gì tôi có mang mắt kính để xem cho rõ hơn. Nhưng tôi không cần mắt kính để biết rằng đây không phải là tấm hình của một người phụ nữ mà có thể đành đoạn bỏ rơi con trai mình được. Tôi nhắm mắt lại, nhớ lại những lời lẽ trong thư của ông Vanderhorst mà dường như tôi không thể nào quên.

Mẹ ta yêu quý ngôi nhà này gần nhiều như bà đã yêu thương ta. Cũng có người sẽ không đồng ý về việc này, dĩ nhiên, vì bà đã từ bỏ cả con trai mình cùng ngôi nhà khi ta còn là một đứa trẻ. Nhưng chuyện đã không dừng ở đó, mặc dù ta đã không thể khám phá ra câu chuyện đằng sau việc này. Có lẽ số phận đã mang cháu đến trong đời ta giúp đưa sự thật ra ánh sáng để bà ấy có thể yên nghỉ sau những năm tháng qua.

Tôi đặt bức hình xuống một cách đột ngột, và làm nó rơi xuống đất. Bức hình rơi úp mặt xuống và tôi không buồn nhặt nó lên, lòng chẳng muốn nhìn thấy tấm hình hai mẹ con nữa. Cuối cùng thì, tôi là người biết rõ nhất, rằng nụ cười của một người mẹ có thể tráo trở đến mức độ nào.

Xoay người trên gót chân mình, tôi chạy cắm đầu rồi va vào một vật gì đó âm ấm và rắn chắc, rõ ràng là một người đàn ông, và tôi hét lên.

Hai cánh tay mạnh mẽ giữ vai tôi lại. “Mellie - tôi đây mà. Jack đây.”

Tôi nhìn chằm chặp vào mặt anh một hồi lâu và chờ cho tim mình thôi đập loạn xạ trước khi vùng người ra khỏi sự kềm cặp của anh. “Anh làm cái quái quỷ gì ở đây thế này?” Tôi la toáng vào mặt anh dù anh chỉ đứng cách tôi chưa đầy hai tấc. Tôi không dám thú nhận rằng tôi quá hoảng sợ, và mẹ tôi đã dạy cho tôi một bài học rất hay rằng sự giận dữ sẽ có thể đuổi nỗi sợ hãi đi. “Và tên của tôi là Melanie,” tôi nói thêm, bực mình vì cách anh cứ dùng tên riêng thân mật của tôi, vốn càng làm cho vết thương lòng trong tôi càng thêm đau đớn mặc dù anh chẳng hề hay biết gì về hậu quả của việc ấy.

“Cô đã mời tôi đến nhà mà, nhớ không? Cô bảo tôi đến gặp cô tại đây vào chín giờ rưỡi sáng.”

Tôi liếc nhìn vào chiếc đồng hồ cổ bằng đồng đặt trên mặt tủ kéo. “Anh đến muộn. Bây giờ đã là chín giờ bốn mươi lăm phút. Và, ngoài ra, anh có bao giờ nghe nói về chuông cửa hay không?”

Anh lại nở nụ cười đặc biệt của mình ra khiến tôi phải nghiến răng lại.

“Tôi xin lỗi vì đến muộn. Tôi phải giúp một người bạn làm vài việc ở thư viện vào sáng nay.” Anh móc hai ngón tay cái vào lưng quần jean của mình, khiến tôi thắc mắc không hiểu loại “bạn” nào mà anh phải đến giúp vào buổi sáng sớm như thế. Anh lại nói tiếp. “Còn về vụ không bấm chuông, tôi nghĩ cánh cửa rộng mở cũng có nghĩa là lời mời cho khách cứ vào thẳng bên trong. Cô biết không, thật tình thì cô không cần phải làm thế. Với nhiều đồ đạc trong nhà như thế này, cô cần phải luôn luôn cài đặt báo trộm dù cho cô có ở đây hay không.”

“Trong nhà không có hệ thống báo trộm nào cả. Ông Vanderhorst có nói với tôi rằng gần đây cũng có vài vụ phá hoại nhưng ông ấy chưa cài đặt hệ thống báo trộm nào.”

Jack lôi một cuốn sổ tay nhỏ từ trong túi sau ra và bật một cây bút chì ngắn ra từ những cái vòng sắt của cuốn sổ. “Vậy thì việc này phải là việc cần làm đầu tiên trong danh sách của chúng ta.”

Tôi liếc nhìn lên lớp vôi vữa nứt nẻ và một dấu đen to đậm nằm trong góc phòng mà trông rất giống như nấm mốc. Tôi quay nhìn anh, hơi cáu vì cái cách anh đề cập đến danh sách “của chúng ta”. “Thật thế sao, Jack. Tôi nghĩ chúng ta còn có nhiều vấn đề khác đáng lo hơn là hệ thống báo trộm. Ngoài ra, tôi nghĩ rằng bọn phá hoại sẽ nản lòng chẳng muốn đột nhập vào trong khi nhìn thấy tình trạng bên ngoài của ngôi nhà. Nếu là tôi thì tôi sẽ nản lắm đấy. Trừ khi anh cho rằng bọn họ sẽ thấy tội nghiệp tôi và lẻn vô nhà vào ban đêm mang theo sơn và cọ giúp tôi sơn sửa đôi chút.”

Anh phớt lờ tôi, tiếp tục ghi chép vào cuốn sổ tay. “Tôi có một người bạn làm trong ngành hệ thống báo trộm tư gia. Tôi sẽ gọi cho người ấy và hẹn gặp, càng sớm càng tốt.”

“Tôi thật lòng không nghĩ việc ấy là cần...”

Ðôi mắt xanh của anh đang nhìn xoáy vào mặt tôi, thể hiện sự lo lắng. “Tin tôi đi, việc này hơi bị cần thiết đấy.” Rồi anh lại cắm cúi ghi chép thêm gì đó vào sổ tay và ngừng lại một chút, nhìn tôi như thể vừa nghĩ ra thêm điều gì đấy. “Khi nãy chính cô đã nói rằng ông Vanderhorst đã bị bọn phá hoại đến viếng vài lần. Giờ đây cô lại sống ở đây một mình, thì càng cần phải tăng cường an ninh một chút.”

Tôi cảm thấy hơi lạ khi anh cứ khăng khăng đòi lắp đặt hệ thống báo trộm, nhưng đúng là câu cuối của anh khiến tôi mất cảnh giác. “Tôi đâu có nói là tôi sẽ về đây ở đâu...”

Anh lại nhìn vào mắt tôi, nhưng lần này kèm với một bên chân mày đang nhướn lên. “Cô đã nói là một phần trong các điều khoản của di chúc yêu cầu cô phải sống trong ngôi nhà này trong vòng một năm.”

Tôi cảm giác có cái bong bóng bị xì hơi trong lồng ngực. Không hiểu sao tôi lại quên mất cái điều khoản quý hóa ấy. Tôi lại nhìn quanh mình với đám nấm mốc và những lớp thạch cao đã bị hư hại nặng một lần nữa. “Cứ cho là những bức tường này không đổ sập xuống người tôi trước thì có lẽ tôi sẽ phải sống ở đây vậy.” Tôi thở dài ngao ngán, thổi phồng hai má lên. “Cứ gọi bạn của anh đi. Có lẽ tôi phải bắt đầu xài đống tiền ấy vào một việc nào đó, một hệ thống báo trộm chẳng hạn. Có lẽ chúng ta sẽ có thể thu hồi nó lại sau khi ngôi nhà đã đổ sập sát sườn mình.”

Tôi xoay người bỏ đi.

“Hóa ra, đây là phòng của ông Nevin.”

Tôi lại đối diện Jack một lần nữa và thấy anh đang săm soi những bức hình trên chiếc bàn nhỏ. Anh cầm lên tấm hình Louisa và con trai mà tôi đã làm rơi và để mặc nó nằm úp mặt xuống. Jack liếc xéo tôi đầy vẻ trách móc rồi lại nhìn kỹ bức hình. “Họ chắc hẳn đã rất gần gũi với nhau.”

Tôi lại nhớ đến những tấm hình làm thiệp Giáng Sinh của tôi khi còn nhỏ chụp cùng ba mẹ, cười rạng rỡ nhìn vào ống kính máy ảnh và đứng làm dáng ngượng nghịu. “Tôi nghĩ thật khó mà xét đoán sự việc khi chỉ dựa vào một tấm hình.”

Anh không nói gì mà chỉ nhẹ nhàng đặt khung hình trở lại bàn và nhìn quanh món đồ gỗ này. “Nếu ba mẹ tôi được chạm tay vào một số món để mang về cửa hiệu của họ thì quả là đúng người đúng việc đấy. Cô đã có dịp xem qua món nào chưa?”

Tôi phải tự nhắc nhở mình rằng anh ta có lý do khi quá tò mò về ngôi nhà như thế, cũng như về những người đã từng sống ở đây. “Chưa. Tôi định bắt đầu xem xét vào sáng nay nhưng cuối cùng lại dọn cỏ ngoài vườn một chút.”

“Tôi chẳng nghĩ cô thuộc tuýp người thích làm vườn.”

“Ðúng thế.” Tôi nhún vai. “Cũng như tôi chẳng phải tuýp người thích nhà cổ, nói chi đến việc trùng tu nó. Nhìn là biết đấy.”

“Melanie à? Cậu có ở đây không?” Tiếng Sophie gọi giật từ tiền sảnh. “Cậu để cửa mở ngỏ, nên mình tự vào.”

Tôi liếc nhìn Jack một cách khó chịu. “Nếu anh quá quan ngại về việc có người lẻn vào nhà, ít ra anh cũng nên cố đóng cửa lại sau khi vào chứ.”

Trông anh có vẻ ngạc nhiên. “Nhưng tôi có đóng cửa mà. Tôi còn kiểm tra lại cho chắc nữa là. Thậm chí tôi còn thử cài then cửa từ bên trong để xem nó có khóa chặt lại hay không đấy.”

Tôi nhìn vào mắt anh trong giây lát rồi quay mặt đi. “Chắc chắn là cửa đã không khớp vào khung trước khi anh cài then,” tôi giải thích như thế rồi bước ra khỏi phòng và đi đến cầu thang, tin chắc rằng Jack chẳng tin vào lời giải thích ấy nhiều hơn chính tôi là bao.

Sophie đứng ở cuối cầu thang, xem kỹ lớp giấy dán tường Trung Hoa giờ đây đã phất phơ khỏi tường ở chỗ những mép nối, quá mệt mỏi chẳng còn muốn bám vào ngôi nhà chút nào nữa. Nó mang loại dép lê đế bằng mà nhìn đâu đâu cũng thấy có người mang, và, bất chấp tất cả những gì thuộc về logic hay khái niệm thời trang, nó còn tương vào người đôi vớ sọc ngang cao đến gối và một chiếc váy nhuộm loang lổ có thân trên kiểu sơ mi. Mái tóc xoăn của nó giờ đây được chất lên đỉnh đầu, khoe ra chiếc cổ trắng gầy -phần duy nhất trên người nó có thể được gọi là mong manh. Có lẽ cũng vì sự kết hợp đầy tương phản giữa mạnh mẽ và yếu đuối này của Sophie mà đàn ông mê mệt nó. Dĩ nhiên, hoàn toàn không phải vì gu ăn mặc của cô nàng.

Nó vẫn không nhìn lên khi chúng tôi đến gần, có vẻ như đang bị mê hoặc bởi bức tường. “Toàn bộ giấy dán tường này đều được vẽ bằng tay đấy, có lẽ được nhập cảng từ Trung Hoa. Cứ nhìn vào kỹ thuật vẽ thì biết! Làm mình nhớ đến thời gian mình học lớp nghệ thuật vẽ khỏa thân - wow, vụ đó hay lắm. Hôm nào cậu nên thử học lớp đó xem sao Melanie, biết đâu nó giúp thả lỏng sự dồn nén tình dục mà cậu mang vào người giống như là đeo cái vòng đai trinh tiết ấy...” Giọng của nó bỗng nhỏ dần khi nó ngẩng lên và nhận ra rằng không chỉ có mình tôi ở đấy. Một nụ cười nhận diện hé trên môi nó khi nó nhìn Jack bước xuống cầu thang sau lưng tôi. “Ô là la,” nó nói với một nụ cười tự mãn.

Tôi nhìn nó bằng cái nhìn mà bất cứ một người bình thường nào cũng phải hiểu có nghĩa là “cút xéo”, nhưng Sophie thì hoàn toàn phớt lờ. Khi Jack tiến đến gần, nó chìa tay ra. “Tôi là Tiến sĩ Sophie Wallen. Rất hân hạnh được gặp anh...”

Anh bắt tay nó bằng cả hai tay, và tôi thấy nó nhũn ra một tí khi anh nhìn xuống và cười với nó. “Tôi là Jack Trenholm. Và tôi mới là người được hân hạnh gặp chị. Tôi biết rất nhiều về các công trình của chị với Hiệp hội Bảo tồn Lịch sử của thành phố. Thật ấn tượng.”

Tôi thề là Sophie vừa đỏ mặt, một việc chưa từng xảy ra với nó bao giờ. “Cám ơn anh. Tôi cũng phải thú thật với anh tôi là một tín đồ của những cuốn sách anh viết. Tôi hoàn toàn mê cuốn Tự sát hay Ám sát: Cái chết của Napoleon. Khi anh mặc nhiên công nhận rằng chất độc arsen thấm trong giấy dán tường chính là thủ phạm giết chết ông ấy, tôi như bị mất hồn vậy. Giả thuyết này hoàn toàn có thể hiểu được, vì không hề có chứng cứ nào ủng hộ lý thuyết tự sát hay ám sát cả.” Mặt nó như bừng sáng lên khi nói chuyện với anh. “Và thậm chí với cuốn Alamo của anh, mặc dù có một số sự việc đã xảy ra với cuốn Ðường dây nóng, thì đã có rất nhiều giá trị đáng được công nhận. Báo đài lẽ ra không nên hạ nhục anh như thế mà không xem xét toàn bộ những sự kiện có thật.”

“Cám ơn chị,” giọng anh nghiêm nghị. Cuối cùng thì Jack cũng thả tay Sophie ra khi có một quầng tối thoảng qua mặt anh. Tôi thấy Sophie dường như cũng nhìn ra điều đó vì sau khi nó tươi cười với anh thì lại quay sang tôi và lái ngay sang đề tài khác. “Thế, hai người quen nhau như thế nào?”

“Bạn mới,” Jack nói.

“Hoàn toàn là những kẻ xa lạ,” tôi nói cùng một lúc với anh.

Sophie chau mày lại rồi gật đầu ra vẻ hiểu biết. “À ạ, kiểu bạn tình ẩn danh trong giờ nghỉ trưa chứ gì.”

“Không hề!” Tôi la lớn.

“Là tôi đấy,” Jack nói cùng một lúc với tôi.

Tôi trừng mắt nhìn cả hai. “Ông Trenholm - à, Jack - đang viết một cuốn sách về sự mất tích của Louisa Vanderhorst, là mẹ của ông Vanderhorst vừa quá cố. Mình đã đồng ý cho anh ấy được phép vào nhà và đổi lại anh ấy sẽ giúp mình trong việc phục chế ngôi nhà cũng như chia sẻ thông tin nào mà anh ấy có được.”

Sophie chun mũi trong khi tôi nín thở chờ đợi nó châm ngòi thêm một quả bom khác khiến tôi chẳng còn chút phẩm giá nào nữa. Tuy nhiên, nó chỉ nói “Tuyệt lắm, giống như âm dương điều hòa cho nhau ấy.” Rồi nó mỉm cười. “Thế Mel có vô tình đề cập đến lý do khiến nàng ấy muốn tìm hiểu xem việc gì đã xảy đến với Louisa hay không?”

“Cô ấy có đề cập đến một bức thư mà ông Vanderhorst đã để lại cho cô ấy. Và cả việc ông ấy cho rằng Mellie sẽ là người có thể trả lời cho câu hỏi này.”

Sophie lại chun mũi lần nữa, một thói quen mà tôi bắt đầu thấy ghét. “À, dù sao đó cũng là một phần của câu chuyện. Có lẽ nó sẽ kể hết những việc ấy cho anh nghe một khi hai người thân nhau hơn. Xem ra thì vụ này chắc chắn sẽ là một đề tài thú vị cho cuốn sách đây.”

Tôi trừng mắt nhìn nó trong khi Jack nhướn một bên mày lên. “Tôi rất mong sớm được nghe câu chuyện ấy của Mellie.” Giọng nói của anh khiến tôi ớn lạnh xương sống trong khi những ngôn từ mà anh dùng thì lại hàm chứa nhiều ẩn ý.

Tôi so vai, quyết không để cho sự quyến rũ rẻ tiền ấy của anh lấn át tôi được. “Nhớ là đừng có nín thở đấy nhé.” Rồi tôi vờ như suy nghĩ trong giây lát. “Mà tốt hơn thì nên như thế.” Tôi quay sang Sophie, nghía nhìn cuốn sổ tay với những trang giấy có thể tháo rời ấy trong tay nó. Mặc dù thi thoảng cũng khá lập dị, nhưng nó luôn luôn là một người thầy tột bậc: luôn luôn sẵn sàng cho bất cứ việc gì.

Sophie thổi một sợi tóc vương trên mặt nó. “Bọn mình có thể bắt đầu bằng việc kiểm kê toàn bộ những phần thuộc kết cấu cần phải tu sửa để mình có thể ưu tiên cái nào cần làm trước.”

Như thể đồng tình với ý kiến này, một mảng sơn tróc nhỏ đã chọn ngay khoảnh khắc ấy mà gieo mình từ trần nhà rồi chao lượn xuống đất, đậu ngay trên cái đầu ổ quạ của Sophie. Nó hớn hở kéo mảnh sơn tróc ấy ra khỏi những lọn tóc rối bời rồi mỉm cười. “Thật hoàn hảo! Giờ thì bọn mình không phải lo tường bị hư hại nếu mình lấy một mảnh sơn để đọ tìm màu cho tiệp với màu sơn ở đây - ngôi nhà đã tự ý cho mình rồi đây này!”

Sự hớn hở không đúng nơi đúng lúc của nó khiến tôi không khỏi nhăn nhó. “Hu ra!”, tôi vừa gào lên vừa với lấy quyển sổ tay của nó. Tôi giật lấy cây viết nhét trên trang bìa quyển sổ, bật ngón tay lật trang đầu tiên ra và viết vào đấy công việc thứ nhất:Tìm màu sơn già nua khổ hạnh cho hợp với trần nhà. Tìm hiểu xem có thể đặt hàng đủ chất đầy cả một chiếc tàu hay không.

Tôi áp quyển sổ vào ngực ngay khi tôi thấy Jack đang mon men đến gần và nhìn trộm qua vai tôi.

“Hay là trong khi hai cô làm việc ấy thì tôi có thể lên gác mái và bắt đầu liệt kê các loại đồ dùng cá nhân cùng các món đồ gỗ. Trong xe tôi có máy ảnh chụp lấy liền để chụp ảnh lưu sổ sách. Nếu tôi kẹt không biết nhận dạng món nào thì tôi có thể nhờ ba mẹ tôi đến xem giúp.”

Mắt Sophie sáng lên. “Chờ chút - Hiệu đồ cổ Trenholm trên phố King là của ba mẹ anh à?”

“Ờ phải. Nó đấy. Cô có biết cửa hiệu này à?”

“Tôi chẳng có đủ tiền để mua món gì trong ấy cả, nhưng chắc chắn là tôi có biết về cửa hiệu ấy. Anh không thể là một nhà nghiên cứu kiến trúc nếu không am tường về các loại đồ gỗ nội thất và các loại đồ trang trí của các thời kỳ, đúng không?”

“Tôi cũng luôn nghĩ như thế,” Jack nói, cái kiểu cười “ối trời ơi” của anh khiến tôi muốn lộn mửa. “Ðúng là chí lớn gặp nhau, nhỉ?”

Sophie cười rạng rỡ. “Ðúng thế.” Rồi nó quay lại nhìn tôi. “Mình tưởng cậu muốn khởi đầu bằng việc làm vườn trong hôm nay ấy chứ.”

“Ðúng là mình đã muốn thế. Mình đến sớm và đã bắt đầu dọn cỏ dại trong vườn hồng. Mình nghĩ chỉ cần nhổ hết mọi thứ lên rồi phủ cỏ giả lên trên thì đó sẽ là một phương sách đỡ tốn công làm vườn tuyệt vời...” Tôi ngừng nói khi thấy Jack và Sophie đang liếc nhìn nhau đầy ngụ ý.

“Gì thế?” tôi hỏi.

Sophie đằng hắng. “Cậu mặc cái thứ này để đi làm vườn à?”

Tôi nhìn xuống chiếc áo hai dây choàng qua cổ bằng vải bông kẻ hai màu trắng hồng cùng với quần lửng màu trắng đồng bộ và giày bata hồng. “Bộ đồ mình đang mặc thì có gì sai nào?”

Cái nhìn chằm chằm của Jack bắt đầu từ xâu chuỗi ngọc trai quanh cổ tôi, rồi từ từ kéo dài xuống dưới cơ thể khiến tôi rùng mình. “Không có gì sai, nếu cô định đi dự một bữa tiệc ngoài vườn.”

Sophie bước đến. “Thôi nào, Mel. Cậu không có lấy vài chiếc áo thun cũ và vài chiếc quần jean cắt ống ngắn à? Phục chế nhà cổ và làm vườn là những việc vừa dơ bẩn vừa bừa bộn. Thậm chí cậu còn có thể bị xước một cái móng tay nữa đấy.”

Tôi nhìn xuống móng tay cái đã bị xước vì cả buổi sáng tôi đã phát quang bụi rậm cùng cỏ dại ngoài vườn. “Mình không có ý phải hạ thấp tiêu chuẩn cá nhân của mình xuống chỉ vì phải làm một vài việc chân tay nào đó. Và nếu cậu noi theo gương ấy của mình thì sẽ chẳng phương hại gì cho cậu đâu, Sophie ạ,” tôi bồi thêm câu ấy và cố ý nhìn chằm chặp vào đôi vớ sọc nhét vào đôi dép lê ọp ẹp màu nâu của nó.

Nó may mắn không phải tìm câu trả lời cho câu trả đũa ấy của tôi vì khi ấy bỗng có tiếng gõ cửa. Tôi mở cái then và dây xích neo cửa rồi kéo tay nắm cửa xuống. “Soph, đây chẳng phải là Pháo đài Fort Knox nhé. Một cái khóa là đã quá đủ rồi.”

“Nhưng mình đâu có...”

Tôi không cho nó nói hết câu vì biết nó sẽ định nói những gì. Tôi mở cửa, rồi ước gì tôi đã không làm thế. Ba tôi, trong trang phục áo thun đánh golf và quần kaki, đứng ngay trước mặt tôi, tóc vẫn còn ướt như thể ông vừa bước ra từ phòng tắm.

Tôi nhìn vào đồng hồ. “Giờ này vẫn còn hơi sớm để ông có thể bò ra khỏi giường phải không? Chưa tới giờ ngọ mà.”

Ông nhìn tôi với đôi mắt có màu giống hệt màu mắt của tôi - màu nâu nhạt pha xanh lá mà theo lời mẹ thì đó chính là lý do khiến bà đã phải lòng ông. “Ba đã không uống rượu mấy ngày nay rồi.”

Ðây không phải là lần đầu tiên tôi nghe ông nói điều này. “À thì, giờ này vẫn còn khá sớm.” Tôi vẫn cứ đứng một cách cố chấp ở bậc cửa và không cho ông vào nhà. “Ông đến đây làm gì?”

Jack nói với từ sau lưng tôi. “Tôi mời bác đấy. Tôi nghĩ giờ đây bác đã là người nắm giữ hầu bao, thì bác ấy cần làm việc với bọn mình để kiểm tra thiệt hại của ngôi nhà để rồi khi mình cần lấy tiền thì bác sẽ biết là dùng cho việc gì.”

Tôi trừng mắt nhìn anh thật lâu, giận dữ như chưa bao giờ đã từng giận dữ đến thế. Tôi không cho phép mình được giận dữ; đời tôi đã quá tự chủ nên tôi không bao giờ cho phép người ngoài hay những sự việc không liên quan có thể làm đảo lộn thế giới đầy trật tự của tôi. Thế nhưng cho đến tuần vừa qua thì mọi việc đã không còn được như xưa nữa.

“Anh là cái thá gì mà dám mời người khác đến nhà tôi khi chưa được tôi cho phép hả? Và còn nữa, anh làm cái mả mẹ gì mà cứ phấn khởi lúc nào cũng muốn thúc đẩy việc khởi công trùng tu ngôi nhà này là sao? Tôi chắc chắn là những thông tin mà anh cần để viết sách đều nằm trên căn gác mái ấy và anh chỉ cần một hai ngày là tìm ra hết ngay. Hay là có cái bản đồ đi tìm kho báu nào ẩn giấu sau các bức tường mà anh chưa cho tôi biết hả? Tôi yêu cầu anh tránh ra chỗ khác và để tôi tự liệu mọi việc, được chứ?”

Anh hơi ngập ngừng một chút, và trên mặt anh có một vẻ gì đó hơi khó hiểu. Nhưng rồi anh lại mỉm cười và nói, “Cô nói đúng, tôi xin lỗi. Từ bây giờ cô là người quyết định mọi việc. Nhưng bây giờ dù sao ba cô cũng đã đến đây rồi, có lẽ mình cần mời bác ấy vào nhà chứ. Ngoài trời nóng quá kìa.”

Một cách miễn cưỡng, tôi bước lùi lại trong khi Jack chìa tay ra cho ba tôi. “Chào Ðại tá Middleton, rất hân hạnh được gặp lại bác.”

Ba tôi bắt tay Jack và mỉm cười. “Cám ơn cậu đã lái xe đưa tôi về nhà vào đêm kia. Tôi nghĩ là mình không thể nào tự liệu được việc ấy rồi.”

“Mừng là tôi có thể giúp bác. Thế cuộc họp vào đêm qua như thế nào ạ?”

Ba tôi lướt nhìn tôi một cách vụng trộm. “Tốt lắm, rất tốt.”

Sophie bước đến và hôn vào má ông. “Bác khỏe không ạ, thưa ngài Ðại tá?”

Ông có vẻ rạng rỡ lên với cái nhìn của Sophie trong khi tôi trợn tròn mắt, tự hỏi làm sao nó làm được điều ấy và không biết có anh đàn ông nào, ở bất cứ lứa tuổi nào, có thể thoát khỏi ảnh hưởng ấy của nó. “Bác khỏe lắm, con gái ạ. Rất khỏe. Nụ hôn của cô có thể chữa lành cả ngàn căn bệnh đấy.”

Nó lại rướn người lên và hôn ông vào má bên kia. “Ðây này. Thế này thì còn tốt hơn nữa đấy nhé.” Rồi nó vặn lấy bàn tay ông. “Bác đi họp vào đêm qua à? Ðây là tin tốt quá.”

Tôi biết cảm giác của Julius Caesar là như thế nào trong lần cuối cùng ông ta ở nghị viện. “Et tu, Brute?”[3] tôi thì thầm trong khi Sophie lùi bước cho Jack đóng cửa. Tôi đoán ba tôi đi họp ở Hội những người hỗ trợ nhau bỏ rượu, và tôi chẳng buồn suy đoán làm thế nào mà Jack biết về việc ấy. Tôi cũng chẳng màng nghĩ xem việc ấy có đáng tin hay không nữa. Tôi không nhớ đã bao nhiêu lần ba tôi đi họp lần đầu tiên rồi sau đó là vào quán rượu, thay vì đi họp lần thứ hai. Cứ thế nỗi thất vọng trong tôi cứ kéo dài triền miên và đến một lúc nào đấy tôi đã quyết định không cho phép mình phải buồn khổ vì thất vọng nữa.

[3] Tiếng Latin, tạm hiểu là “Kể cả ngươi cũng phản bội ta à, Brutus?” - ở đây ý Melanie ám chỉ Sophie lúc này cũng “phản bội” cô ta mà đứng về “phe” ba của cô.

Tôi khoanh tay trước ngực, một lần nữa lại tự hỏi làm sao mà cuộc sống vốn được kiểm soát chặt chẽ của tôi giờ đây lại có thể giống như con diều bị néo dây trong cơn gió lớn. Bất cứ lúc nào nó cũng sẽ có thể lao đầu xuống mặt đất, và sẽ chỉ còn lại mình tôi tự nhặt lấy những mảnh vỡ vụn mà thôi. Lại một lần nữa. Tôi tự an ủi mình rằng thôi thì việc này đã là tệ dưới đáy rồi, do đó từ giờ trở đi mọi việc sẽ chỉ có thể đi theo chiều hướng tốt đẹp lên thôi.

Ba tôi bước đến gần tôi, đôi mắt và cái miệng ông dường như đang kềm giữ lại điều gì đó, và tôi bắt đầu ngờ vực về sự chắc chắn của mình rằng “mọi việc sẽ chỉ có thể đi theo chiều hướng tốt đẹp lên thôi”.

“Chào con, Melanie.” Ông không chạm đến tôi và tôi mừng về điều đó. Rồi ông hắng giọng. “Mẹ con gọi hôm qua. Bà ấy muốn nói chuyện với con.”

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông, cảm thấy con diều đang từ từ xoáy xuống, chuẩn bị đâm đầu xuống đất và vỡ tan tành.