My Beloved

Chương 6



Sebastian đứng lên và bước về phía cửa sổ hình vòng cung ngắm nhìn lãnh địa của chàng. Phòng ngủ của chàng bố trí giống hệt như phòng Juliana, điểm khác biệt duy nhất là cửa sổ của chàng không có lớp kính và cũng không rộng bằng, dù từ đây chàng vẫn nhìn được bao quát vùng nông thôn. Sẽ thật ngu ngốc khi lãng phí nhiều tiền bạc vào một thứ mà có thể sẽ bị phá huỷ một cách dễ dàng trong tuyến phòng ngự của Langlinais. Mặc dù lâu đài chưa từng chứng kiến một sự vây hãm nào trong hơn hai trăm năm qua, nhưng thật khó để quên rằng họ đang sống trong một khu vực vô trật tư, trong một thời đại hỗn loạn.

Đây là khoảng thời gian mà chàng yêu thích trong ngày. Những con chim vẫn còn đang say ngủ; còn một giờ nữa mới đến buổi bình minh khi trời đã hửng sáng nhưng mặt trời vẫn chưa xuất hiện ở đường chân trời. Sáng nay sương mù đã tan, để lại bầu không khí tinh khiết mà thường chỉ thấy sau một cơn mưa rào.

Quê hương đã trở thành sao bắc cực, là mục tiêu mà chàng luôn hướng đến trong suy nghĩ suốt những tháng ngày cô đơn khi chàng bị giam cầm. Cha chàng đã qua đời, mẹ chàng đã mất từ lâu, em trai thì phục vụ dưới trướng quân Templar, chỉ còn lại một mình chàng đơn độc canh giữ và bảo vệ Langlinais.

Chàng đã sáng suốt khi ra lệnh cho Jerard trở về Anh ngay sau khi anh ta được phóng thích. Người cận vệ của chàng đã trở thành quản gia và chứng tỏ lòng trung thành của anh ta với quê hương của chàng như đối với Sebastian. Chính Jerard là người đã giữ gìn sự thịnh vượng của Langlinais trong thời gian chàng ngồi tù. Và khi chàng trở về, Langlinais đứng sừng sững như một ngọn hải đăng màu trắng trên đất liền, chào đón Sebastian với một thái độ kính trọng hoàn toàn và nhiệt liệt, xứng đáng với vị trí lãnh chúa của chàng.

Chàng đút tay vào hai ống tay áo, hướng về phía đông để ngắm mặt trời đang bắt đầu cuộc hành trình của nó trên những ngọn đồi của Langlinais. Lại một nghi thức nữa. Một nghi thức đánh dấu trình tự hàng ngày của chàng. Chàng quan sát bức tranh toàn cảnh bày ra trước mắt với những cảm nhận luôn mới mẻ vào mỗi sáng. Bên trái chàng là ngôi làng nhỏ. Phía trước nó là bãi chăn thả chung, một nhà xưởng và những khu nuôi cừu.

Một vài mảnh đất được chia cho dân làng. Những người sống ở đó có nghĩa vụ với chàng cũng như chàng chịu trách nhiệm với họ. Vì lợi ích của chàng và cả của họ mà chàng đã phải lên kế hoạch để bảo vệ thế giới này. Chàng sẽ không để nó phải chịu sự đè nén và áp bức của quân Templar. Những tên tu sĩ kiêm chiến binh sẽ trục xuất người của chàng và chiếm đóng quê hương chàng. Trừ phi chàng có thể ngăn bọn chúng không tới đây.

Hôm nay những cánh đồng sẽ lại mọc đầy cỏ dại. Những cây kế không được cắt bỏ trước ngày Hạ chí vì người ta tin rằng chúng sẽ mọc lại nhanh gáp ba lần nếu bị cắt xén quá sớm. Làng có một truyền thống là sẽ đánh dấu ngày đó với trò Rút rơm. (drawing of straws: Một kiểu bắt thăm, một người cầm trong tay những đoạn rơm bằng nhau trong đó có một cọng ngắn hoặc dài hơn, lần lượt từng người rút một cọng, ai rút được cọng ngắn hoặc dài là người thua hoặc thắng cuộc tuỳ luật của trò chơi). Những cậu bé thắng cuộc sẽ đi vòng quanh những cánh đồng với những ngọn đuốc sáng rực để xua đuổi những con rồng. Chàng nghi rằng không người dân làng nào thực sự tin vào sự tồn tại của những sinh vật đuôi dài và thở ra lửa. Chỉ đơn giản là họ thích thú tham gia ngày lễ mà thôi. Tuy nhiên, tiếp đến sẽ là Ngày hội mùa tháng Chín. Cho đến khi đó sẽ có những tuần làm việc đến kiệt sức để thu dọn cỏ khô, sau đó gặt lúa mì và lúa mạch đen.

Người dân Langlinais sẽ nộp phần thuế thóc vào kho của chàng khi tiếng kèn lệnh vang lên, nghi thức này sẽ được thực hiện với sự trang nghiêm. Và chàng sẽ yêu cầu Jerard đến gặpvà gửi lời cảm ơn của chàng tới họ. Họ sẽ nhớ lại khi cha chàng tiếp đãi họ bằng những câu chuyện về những cuộc Thập tự chinh, những buổi liên hoan với bia và rượu đỏ ê hề, khi ngày nộp thuế là một nghi lễ tràn ngập âm nhạc, khiêu vũ và sự vui vẻ.

Cha chàng là một nguời đàn ông dữ dội, người đã làm tăng sự giàu có của dòng họ bằng những chiến thắng trong vô số trận thi đấu qua hàng năm dòng, mua lại những bộ áo giáp và những con ngựa thắng cuộc và đơn giản là bán lại chúng một cách dứt khoát. Nhưng đồng thời ông cũng nổi danh vì sự công bằng. Ông đã có một cuộc hôn nhân tốt đẹp với một người phụ nữ vùng Poitou, và mang lại cho vùng đất của ông sự khao khát mãnh liệt cho một triều đại. Nhưng mười một người con của ông được sinh ra, bảy trong số đó là con trai, chỉ còn hai người sống sót và cả hai đều không ở bên cạnh ông khi ông qua đời.

Họ đã không được nuôi dạy theo cách thông thường. Một lần John Langlinais đã nói với những đứa con trai rằng ông tự thấy mình thừa khả năng để nuôi dạy họ một cách đúng đắn. “Các con là những con sư tử nhỏ,” ông nói. “Sao ta lại bắt một người bạn phải chịu đựng các con chứ?” Những nhiệm vụ của họ dưới sự giám sát của cha chàng hết sức nặng nề, ước mong một ngày có thể dài gấp đôi. Đầu tiên, là để đủ thời gian dạy họ tất cả những nhiệm vụ mà họ phải thành thạo, và sau đó cho họ nếm mùi thảm hại.

Sebastian mỉm cười, nghĩ về nụ cười đầy tự hào của cha chàng vào cái ngày chàng được phong tước hiệp sĩ. Chàng khi đó vừa đến tuổi 20, háo hức được kiểm chứng lòng can đảm của mình trên chiến trường. Thậm chí háo hức hơn cả để tìm hiểu thế giới. Chàng đã làm được, và quay trở về quê nhà với bí mật này, bí mật mà người của chàng chưa phát hiện ra.

Cha chàng qua đời không phải vì một cơn đau tim như nhiều người khác vào tuổi đó. Mặc dù hình vẽ khắc trên bia mộ của ông thể hiện dáng vẻ của một người đàn ông độ ba mươi ba tuổi theo phong tục truyền thống, nhưng John Langlinais đã ra đi ở tuổi sáu tám.

Và khi đó Sebastian đang ở Paris, không hay biết gì.

Một sự chuyển động thoáng qua góc tầm nhìn của chàng làm chàng xao lãng. Chàng quay đầu lại và nhìn thấy nàng. Cô dâu của chàng đang dạo bước về phía cánh cổng phía đông, mang theo một cái giỏ trên tay. Nàng không hề đội mũ cũng như khăn trùm đầu, mái tóc nàng chỉ được viền bằng một cái vương miện. Nàng sải bước dài, thể hiện biết rõ mục tiêu và đích đến trong từng bước đi.

Người phụ nữ đã làm mê hoặc tất cả những người sống tại Langlinais, nếu Jerard nói đúng. Nàng hiếm khi ra lệnh, đối xử hoà nhã với tất cả mọi người với sự công bằng đáng kinh ngạc. Chàng đã được báo lại, là nàng hầu như hoàn toàn chú tâm vào công việc của mình.

Chàng quan sát nàng, thoải mái với khoảng cách giữa họ. Làn gió ban mai nhảy múa vui vẻ quanh mắt cá chân nàng, cuộn váy nàng lên một cách nghịch ngợm, làm lộ ra hình dáng đôi chân nàng dưới lớp vải. Nàng đang nghĩ cách rời bỏ chàng chăng? rời bỏ Langlinais? Một nụ cười giễu cợt suy nghĩ đó. Như thế nào, Sebastian? Với hành trang không có gì khác ngoài một cái giỏ ư? Sự hiếu kì của chàng bị khêu gợi, ngay cả khi nàng đẩy cánh cổng mở ra và đi vào rừng.

Nàng đã tìm thấy cái giỏ trong kho. Nó không chính xác là thứ nàng cần, nhưng một cuộc kiểm tra lướt qua cũng không phát hiện được bất cứ cái chai hay lọ sành nào. Nàng sẽ phải ứng biến, nhưng rồi nàng cũng đã quen với việc này. Tu viện Thánh nhân từ là một nơi keo kiệt. Thề nguyện một cách nghiêm túc, họ không chỉ căm ghét sự lãng phí, mà còn thường xuyên thiếu thốn những vật dụng cơ bản trong một phòng viết. Nhưng Juliana đã nhận ra rằng nghèo khó cũng có thể là một kinh nghiệm rất đáng quý. Nàng chưa bao giờ lãng phí một mảnh giấy da nào, và nàng có thể pha chế ít nhất là ba màu mực.

Người gác cổng đang ngủ gật, tựa vào hàng rào gỗ cao, cổ ông ta đặt ở một tư thế kì cục. Ông lão Simon đã tặng nàng một con mèo nhỏ khắc bằng gỗ như một món quà chào mừng đến Langlinais. Nàng mỉm cười, đi nhón gót qua ông ta, đóng cổng lại thật nhẹ và hướng vào rừng.

Nàng dừng lại trước một gốc sồi lâu đời, đi vòng quanh thân cây trong vài phút, kiểm tra mặt đất. Nàng chuyển sang cây thứ hai, rồi thứ ba. Đến cái cây thứ tư, nàng tìm thấy thứ nàng cần. Nàng bắt đầu nhặt những miếng mụn sồi, chất chúng vào trong giỏ của nàng. Nàng có thể luộc phần chóp quả đầu (chả biết là quả quái gì), nhưng mụn sồi sẽ cho loại mực nàng cần, hỗn hợp màu xanh đen bền và không bị phai đi.

Nàng khom người và lại tìm được một mẩu khác và đặt nó vào giỏ. Nàng may mắn khi tìm được một cái cây bị côn trùng phá hoại. Nếu không thì, nàng sẽ phải rạch vỏ cây, một hành động đôi khi có thể làm hư hại một cái cây. Nàng phải tự trừng phạt vì sự lề mề này mới được. Nàng càng nhanh kết thúc công đoạn này, công việc của nàng càng sớm được tiếp tục.

Chàng tự nhủ thật ngu ngốc khi có mặt ở đây. Nhưng nàng không ở bên trong, và chàng thì thấm đẫm sự hiếu kì về người phụ nữ mà hoàn cảnh đã đưa đẩy nàng thành vợ chàng. Chàng đứng giữa căn gác với đôi mắt nhắm nghiền, đánh hơi trong không khí như con sói tìm kiếm bạn tình. Hương hoa hồng, thoang thoảng như thể làn gió nhẹ đã cuốn mùi hương vào từ cửa sổ. Nhưng thực ra nó lại bắt nguồn từ mùi hương tự nhiên toả ra từ chính người con gái đó.

Nàng sắp xếp đồ dùng rất ngăn nắp.

Ở đây có một đống bút lông ngỗng, vài cái đã được cắt tỉa và sẵn sàng, một vài cái khác vẫn chưa hoàn thành xong. Một cái đĩa nhỏ trên đó còn dính một giọt mực khô. Chính giữa là một quyển sách bọc bằng gỗ, gáy sách bằng da cho biết không chỉ tuổi tác mà còn cả công dụng của nó. Bên cạnh là một mảnh giấy da, đã được hoàn thành một nửa, những chữ cái được viết một cách nắn nót.

Chàng đã học đọc theo cách mà chàng đã làm hầu hết mọi thứ khi là một cậu bé, với một sự miễn cưỡng giả vờ và một niềm thích thú ngấm ngầm. Magdalene đã dạy chàng tiếng Latinh và Hi Lạp, và cả những con số, để chàng sẽ không cần đến một học giả viết hay đọc cho chàng nghe. Nhưng trên hết, bà đã biến những bài học của chàng thành những điều hết sức lí thú. Chàng đã phát hiện rằng chàng rất thích học, thích khám phá những khả năng trí tuệ của chàng.

Tại sao chàng lại nghĩ đến Magdalene rõ nét như vậy ngay lúc này? Bởi vì bà ấy là một người phụ nữ có học thức cao? Hay bởi vì lúc này bà cũng sẽ có cùng cảm nhận với chàng? Bị ấn tượng bởi sự khéo léo của người đã ghi chép những những dòng chữ trên mảnh giấy da trước mắt chàng.

Chàng không chạm vào bất cứ thứ gì, chỉ hạ thấp bàn tay vẫn đang mang găng da xuống, cho đến khi nó chỉ còn cách một inch với những vật dụng mà Juliana sử dụng hàng ngày. Nó nấn ná ở đó như thể để thu lấy hơi ấm của một bàn tay không hiện diện, chạm vào một ngón tay mà sẽ vuốt nhẹ lên mảnh giấy da vào ngày mai.

Một âm thanh, không lớn hơn tiếng gió thổi, làm chàng bất động. Chàng hít thở âm thầm, mỗi giác quan đều cảnh báo sự nguy hiểm. Những năm qua chàng đã chối bỏ sự sống chứ không bao giờ mất đi sự cảnh giác. Thậm chí ngay ở Langlinais.

Chàng nên đi khỏi đây ngay, rời khỏi căn phòng nhưng chàng không làm thế. Sau đó, chàng đã tự hỏi phải chăng chàng đã cố tình lờ đi sự cảnh báo đó để được nhìn thấy nàng.

Nàng bước vào phòng một cách vội vã, nhưng đột ngột dừng lại khi thấy chàng.

Đó là thời khắc chín muồi để nói với nàng một lời xin lỗi, để giải thích rằng chàng không có ý làm nàng giật mình hay để làm thoả mãn sự hiếu kì của chàng một cách công khai. Nhưng những từ ngữ bị nghẹn lại bởi cảm xúc kinh ngạc của chính chàng. Chàng đã không hề tưởng tượng ra nàng, cũng như không biến nàng thành một ai khác mà không phải là nàng. Quá cao để được coi là mảnh mai, quá rực rỡ để được gọi là đẹp theo truyền thống. Nhưng nàng vẫn làm chàng gợi nhớ đến mùa xuân. Hay có lẽ là thứ gì đó mãnh liệt hơn. Tóc nàng được búi gọn trên đầu bằng những dải nơ. Chàng muốn nhìn thấy nó buông xuống trên vai nàng, một dải tóc xoăn đen như gỗ mun mà không hề bị gò bó.

“Tại sao nàng lại vào rừng?” Câu hỏi bật ra khỏi môi chàng trước cả khi chàng biết nó có ở đó, nhưng sự hiếu kì vẫn là cảm giác an toàn nhất mà chàng có lúc này đây.

Đôi mắt nàng mở to, như thể nàng bị kinh ngạc khi chàng biết từng cử động của nàng. Cả hai tay nàng di chuyển để ghì chặt quai giỏ, như thể để bảo vệ cho những miếng địa y bên trong.

“Tôi đi nhặt những miếng mụn sồi.” nàng đáp. Giọng nàng vang lên run run. E thẹn ư? Hay là sợ hãi? Có vẻ là cái sau. Chàng không trở nên bớt đáng sợ hơn với cái nhìn thoáng qua thứ hai.

“Và mụn sồi là gì vậy?”

Nàng ngước lên nhìn chàng. “Trứng của ong bắp cày tạo mụn cây. Nằm trên vỏ cây sồi. Mụn cây được hình thành quanh quả trứng.”

“Nàng muốn tìm những thứ đó làm gì?”

Nàng ngó xuống cái giỏ. “để làm mực.” Nàng rút một miếng ra từ dưới mảnh địa y. Nó trông như một quả bóng nhỏ bằng vỏ cây với một chỗ nhô lên ở cuối. Đó không phải là thứ làm chàng thấy thích thú. Mà là sự run rẩy rõ ràng của những ngón tay nàng. Nàng vẫn đang sợ hãi, thậm chí đến tận bây giờ.

“ Nàng sẽ làm gì khi đã có chúng?’

“Luộc sôi chúng. Sau đó thêm vào một ít rượu, và một lượng gỉ sắt nhất định.”

“Và loại mực này có bền không? Nó sẽ không bị chuyển màu chứ?”

“Chỉ lúc đầu thôi, thưa ngài. Nhưng khi viết lên giấy nó sẽ duy trì như vậy.” Nàng không ngẩng đầu lên khi nói, nhưng dường như để chú tâm vào cái giỏ.

Chàng quay người chuẩn bị bỏ đi. Đó là sự tử tế của chàng với nàng. Trước đây, đàn bà đã cười với chàng, dụ dỗ chàng vào giường với họ và đôi khi là vào cả trái tim họ. Chàng đã chấp nhận một cách thanh thản với sự thật là chàng thích thú với những trò giải trí xác thịt đó, khoái cảm hoàn toàn mà chàng nhận được xoa dịu những khoảnh khắc cô đơn của chàng trong da thịt mềm mại sẵn sàng của những người đàn bà dễ dãi. Chàng sẽ không bao giờ có nó một lần nữa. Nhưng kí ức cũng phần nào có lợi cho chàng. Như bây giờ đây, để phỏng đoán.

“Tôi đã làm phật lòng ngài điều gì chăng, thưa ngài?”

Chàng quay lại. Nàng đang nhìn chàng, đôi mắt xanh màu lá mở to và bừng sáng.

“Chúng ta phải cư xử như những người xa lạ ư? Nếu chúng ta không thể là vợ chồng, ít nhất cũng có thể làm bạn chứ?”

“Bạn bè ư?” chàng hỏi.

Nàng tiến một bước về phía chàng, thật chậm rãi và ngập ngừng đến mức chàng đã có cơ hội để bỏ đi trước khi nàng đến gần hơn. Chàng đã làm vậy, thậm chí cả khi chàng nguyền rủa sự bắt buộc của nó. Khuôn mặt đỏ bừng của nàng thể hiện nàng đã chú ý thấy cử chỉ đó.

“Nếu không có gì khác, thưa ngài, thỉnh thoảng chúng ta không thể trò chuyện sao?” nàng nói, lắp bắp đến khi dừng lại. Nàng lại ngó xuống sàn.

“Nàng muốn nói chuyện với ta?” ý tưởng đó quá mới lạ đến mức chàng muốn nâng cằm nàng lên và nhìn vào mặt nàng một lần nữa, để đọc sự thành thật trong yêu cầu đó qua đôi mắt nàng.

Cái gật đầu của nàng là một sự thừa nhận khá rõ ràng.

“Nàng không thấy ai khác ở Langlinais có thể làm bạn cùng hay sao?”

“Mọi người đều ngừng nói chuyện khi tôi đi vào phòng ăn,” nàng đáp. “Không thì họ chỉ mong phục vụ tôi thôi.”

“Điều này làm nàng phiền lòng?”

“Tôi không thấy thoải mái với sự khúm núm quá kiên định như vậy, thưa ngài.”

“Vậy mà nàng lại thể hiện điều đó với ta đấy,” Nàng ngước lên nhìn chàng, kinh ngạc. “Tên của ta là Sebastian.”

Im lặng, trong khi nàng đứng đó, hoàn toàn câm lặng. Chàng đã nhẫn nại hết mức có thể rồi. Chàng nên rời khỏi phòng ngay mới phải, nhưng thay vào đó, chàng lại dò hỏi nàng xa hơn.

“Nàng không sợ ta sao, Juliana?” Không báo trước, sự hiếu kì của chàng lại nhiệt tình bật ra.

Nàng thẳng người lên, nhưng chàng nhận thấy cái siết của nàng trên quai giỏ trở nên chặt hơn, quá sức đến mức chàng có thể nhìn thấy những khớp ngón tay nàng trắng bệch ra.

“Có chứ,” nàng thở ra. “Tôi có sợ.”

“Vậy mà nàng vẫn muốn nói chuyện với ta.”

“Chỉ là tôi không quen với trạng thái cô độc như vậy.” Nàng di chuyển, và sau đó một bước nhỏ. Không phải về phía chàng mà là lùi lại.

“Sao nàng không trò chuyện với Grazide?”

“Đúng hơn là bà ấy nói chuyện với tôi, thưa ngài… Sebastian,” nàng nói, chữa lại nhanh chóng. Nàng lại nhìn lên. Đó là lần đầu tiên chàng trông thấy bóng nụ cười của nàng thấp thoáng trên môi. Nó làm nàng trông đẹp tuyệt.

Môi chàng nhếch lên với sự thích thú không mong đợi. “Nàng không thay đổi nhiều mấy, so với cô bé sinh động mà ta còn nhớ.” Chàng cuời lớn. “Nếu chuyện đó xảy ra, chúng ta sẽ bàn luận về điều gi?” chàng hỏi nàng một cách thẳng thắn.

Biểu hiện của nàng quá rộng mở, quá dễ bị tổn thương. Chàng muốn nói với nàng rằng câu hỏi đó không hề xứng đáng với cái nhìn đầy biết ơn như thế. Chàng vẫn chưa quyết định được liệu việc bầu bạn với nàng có phải chỉ đơn thuần là lòng tốt hay là một sự ngớ ngẩn vô lý nữa.

“Có đề tài nào có thể chấp nhận được mà tôi nên nêu ra không?”

“Thời tiết chẳng hạn,” chàng nói, không hề dừng lại. “Và chính trị, bởi vì ta thích những cuộc tranh luận thú vị. Phép Logíc và siêu hình của Aristốt. Hay về Averroes, Maimonides ,Charlemagne , Eleanor vùng Aquitaine gây chấn động , hay thậm chí là cả Saladin nữa.”

“Tôi không hề có khái niệm gì về hầu hết những cái tên đó. Ngài sẽ nói cho tôi biết về họ chứ? Tất cả và mọi điều?” Nàng lại nhìn xuống sàn nhà. “Nếu chúng ta có thể nói chuyện với nhau.”

Tại sao nàng lại quá nhút nhát như vậy chứ? Điều gì đã thay đổi cô bé táo bạo thành người phụ nữ rụt rè? Một câu hỏi mà chàng không nên tự hỏi mình, bởi vì nó làm mềm yếu quyết tâm, xua đuổi sự phòng vệ của chàng và làm chàng tò mò theo một cách thiếu khôn ngoan.

“Ta sẽ xem xét việc đó, Juliana ạ.” Chàng nói, những lời nói đang soi xét chàng bởi chính lương tâm chàng. Thật ra, sẽ sáng suốt hơn nếu chàng không làm như vậy. Chàng rời khỏi phòng, tự hỏi liệu ánh mắt nàng có đang dõi theo chàng hay không.