Một Phát Một Mạng

Chương 5



Reacher nghĩ, Vinh dự cho tôi quá. Bà nhân viên tiếp tân ghi tên của ông lên tấm thẻ vào cửa dành cho khách và luồn nó vào một chiếc vỏ plastic. Ông kẹp nó lên áo và đi tới chỗ thang máy. Lên tầng ba. Tầng ba có trần nhà thấp và hành lang bên trong được thắp sáng bằng đèn huỳnh quang. Có ba cánh cửa bằng ván ép phủ sơn đang đóng và một cánh cửa đôi bằng gỗ đánh bóng đang để mở. Đằng sau là một người thư ký ngồi ở bàn. Người gác cửa thứ hai đây. Cô ta trẻ hơn người phụ nữ dưới kia nhưng có lẽ là cao cấp hơn.

Cô hỏi, “Ông Reacher?”

Ông gật đầu, cô rời khỏi bàn và đưa ông đến chỗ những văn phòng có cửa sổ. Trên cánh cửa thứ ba mà họ đến có ghi A.A Rodin.

Reacher hỏi, “Chữ A.A có nghĩa là gì vậy?”

Cô thư ký đáp, “Tôi tin rằng ông Rodin sẽ cho ông biết nếu ông ấy muốn.”

Cô gõ cửa và Reacher nghe một giọng nam trung vọng ra từ bên trong. Rồi cô mở cửa ra và đứng tránh cho Reacher bước vào.

Ông nói, “Cám ơn.”

Cô trả lời, “Không có chi.”

Reacher bước vào. Rodin đã đứng lên từ sau bàn, sẵn sàng chào đón khách, đầy vẻ lịch lãm. Reacher nhận ra người trên ti vi. Ông ta là một người trạc năm mươi, gầy vừa phải, thon thả vừa phải, tóc hoa râm cắt cao. Nhìn người thật thì ông nhỏ con hơn trên ti vi. Có lẽ ông bớt một phân thì vừa mét tám và thiếu hai lạng đầy chín mươi cân. Ông mặc bộ vest mùa hè màu xanh sậm. Áo sơ mi xanh dương, và cà vạt cũng xanh dương. Mắt ông xanh dương. Không nghi ngờ gì nữa, xanh dương là màu của ông. Ông cạo râu thật kỹ và dùng nước hoa. Ông là người rất ưa trật tự, chắc chắn là vậy. Reacher nghĩ, Ngược hẳn với mình. Như là một nghiên cứu về những đối lập. Đặt kế bên Rodin thì Reacher là một người khổng lồ ăn mặc cẩu thả. Ông cao hơn cả cái đầu và nặng hơn khoảng trên hai mươi ký. Tóc của ông dài hơn năm phân và trang phục thì rẻ hơn cả nghìn đô la.

Rodin hỏi, “Ông là Reacher?”

Reacher gật đầu. Văn phòng theo tiêu chuẩn căn bản của chính phủ, nhưng rất gọn gàng. Mát mẻ và yên tĩnh. Nhìn từ cửa sổ không có cảnh đẹp. Chỉ là những mái nhà phẳng của những cửa hàng bình dân và văn phòng của Sở Đăng kiểm, bày ra mọi thứ ống dẫn. Có thể nhìn thấy tòa cao ốc kính đen cách đó một quãng. Mặt trời tỏa sáng yếu ớt trên bầu trời. Vuông góc với cửa sổ là một bức tường trưng chiến tích nằm sau cái bàn, đặt những bằng cấp và hình Rodin chụp chung với các chính trị gia. Có đầu đề các bài báo thuật lại những lời phán quyết trong bảy vụ án khác nhau được đóng khung. Trên một bức tường là tấm hình của một cô gái tóc vàng đội chiếc mũ cử nhân và áo thụng, tay cầm tờ bằng tốt nghiệp cuộn tròn. Cô gái rất xinh. Reacher nhìn cô một thoáng lâu hơn cần thiết.

Rodin nói, “Đó là con gái tôi. Nó cũng là luật sư.”

Reacher nói, “Vậy à?”

“Nó vừa mở văn phòng riêng dưới phố.”

Giọng ông ta không bày tỏ điều gì. Reacher không biết ông ta hãnh diện hay không tán thành.

Rodin nói, “Tôi nghĩ hẳn ông sắp gặp nó.”

Reacher hỏi, “Tôi à? Vì sao?”

“Vì nó nhận biện hộ cho James Barr.”

“Con gái của ông? Như thế có đúng nguyên tắc không?”

“Không có luật nào chống lại điều đó. Nó có thể không hợp lý cho lắm, nhưng không trái nguyên tắc.”

Ông nhấn mạnh chữ hợp lý với nhiều hàm nghĩa. Thật là không khôn ngoan khi biện hộ cho một vụ án tai tiếng như thế, không khôn ngoan khi con gái chống lại cha của mình, không khôn ngoan khi bất cứ ai chống lại A.A Rodin. Ông ta có vẻ là một kẻ rất thích ganh đua.”

Ông nói, “Nó đưa tên ông vào danh sách nhân chứng tạm thời của mình.”

“Tại sao?”

“Vì nghĩ rằng ông có thông tin.”

“Cô ấy lấy tên tôi ở đâu ra?”

“Tôi không biết.”

“Từ Lầu năm góc chăng?”

Rodin nhún vai. “Tôi không biết chắc. Nhưng nó đã có được cái tên. Vì thế người ta đang tìm anh đấy.”

“Có phải vì thế tôi mới được vào đây không?”

Rodin gật đầu.

“Vâng, đúng vậy. Chính xác vì thế. Thông thường tôi không ưu ái những vị khách không mời.”

“Nhân viên của ông có vẻ theo nội quy đó rất nghiêm.”

Rodin nói, “Tất nhiên tôi hy vọng điều đó. Xin mời ngồi.”

Reacher ngồi xuống chiếc ghế dành cho khách và Rodin ngồi phía sau bàn. Cửa sổ nằm bên tay trái của Reacher và tay phải của Rodin. Không ai bị nắng chiếu vào mắt. Đó là một cách sắp đặt nội thất khá công bằng. Khác hẳn với một số văn phòng công tố viên mà Reacher từng biết.

Rodin hỏi, “Ông uống chút cà phê không?”

Reacher đáp, “Vâng.”

Rodin gọi cà phê qua điện thoại.

Ông nói, “Tất nhiên là tôi muốn biết vì sao anh đến đây gặp tôi trước. Ý tôi là gặp bên buộc tội thay vì bên bào chữa.”

Reacher nói, “Tôi muốn nghe ý kiến của cá nhân ông.”

“Về điều gì?”

“Về việc những lý lẽ buộc tội James Barr của ông vững mạnh tới mức nào.”

Rodin không trả lời ngay. Một khoảng thời gian im lặng ngắn ngủi, rồi có tiếng gõ cửa và cô thư ký mang cà phê vào. Cô bưng một chiếc khay bằng bạc, mọi thứ đặt trên đó. Một ấm pha kiểu Pháp, hai chiếc tách, hai chiếc đĩa, một lọ đường, một bình bé xíu đựng kem, hai chiếc thìa bạc. Những chiếc tách cũng không xin bảo lãnh tại là đồ sứ tuyệt đẹp. Reacher nghĩ, Không phải hàng của chính phủ, Rodin muốn cà phê của ông pha đúng điệu. Cô thư ký đặt chiếc khay trên mép bàn, nằm chính giữa chiếc ghế của chủ và ghế của khách.

Reacher nói, “Cám ơn.”

“Không có chi.” Cô trả lời và đi ra.

Rodin nói, “Xin cứ tự nhiên.”

Reacher đẩy nắp đậy xuống tự rót cho mình một tách, không kem, không đường. Vị khá đậm và thơm. Cà phê, pha đúng điệu.

Rodin nói, “Lý lẽ buộc tội Barr mạnh ngoài sức tưởng tượng.”

Reacher hỏi, “Có nhân chứng thấy tận mắt?”

Rodin đáp, “Không có. Nhưng lời khai của nhân chứng tận mắt chứng kiến có độ tin cậy rất khó lường. Tôi thậm chí mừng vì không có nhân chứng thấy tận mắt. Bởi thay vào đó, chúng tôi lại có chứng cứ vật chất cực tốt. Mà khoa học thì không nói dối bao giờ. Nó không gây lúng túng.”

Reacher nói, “Cực tốt à?”

“Một dây chứng cứ hoàn toàn vững chắc gắn tên đó vào tội ác.”

“Vững chắc đến mức nào?”

“Chắc như đinh đóng cột. Cái tốt nhất mà tôi từng thấy. Tôi tuyệt đối tin vào nó.”

“Tôi đã nhiều lần nghe công tố viên nói câu này.”

“Vụ này khác hẳn, ông Reacher à. Tôi là người rất thận trọng. Tôi không truy tố những vụ án tử hình trừ phi tôi biết chắc kết cục của nó.”

“Để giữ tỷ số à?”

Rodin khoát tay trên đầu và phía sau lưng chỉ bức tường đầy những chiến tích.

“Bảy trên bảy. Một trăm phần trăm.”

“Trong bao lâu?”

“Trong ba năm. Vụ James Barr nữa là sẽ thành tám trên tám. Nếu hắn có bao giờ tỉnh dậy được.”

“Giả sử hắn tỉnh lại mà bị tàn phế thì sao?”

“Chỉ cần bộ não hắn còn hoạt động khi tỉnh lại, hắn sẽ ra tòa. Chuyện hắn đã gây ra ở đây không thể được tha thứ.”

Reacher nói, “Tốt rồi.”

“Tốt cái gì?”

“Ông đã cho tôi biết điều tôi muốn biết.”

“Ông nói là ông có thông tin. Từ trong quân đội.”

“Giờ tôi sẽ giữ kín nó cho riêng mình.”

“Ông từng là quân cảnh, đúng không?”

Reacher đáp, “Mười ba năm.”

“Và ông biết James Barr?”

“Chút ít.”

“Kể cho tôi nghe về hắn đi.”

“Chưa được.”

“Ông Reacher này, nếu ông có thông tin để bào chữa, hay bất cứ điều gì khác, thì ông cần phải nói với tôi bây giờ.”

“Tôi phải nói à?”

“Dù thế nào thì tôi cũng sẽ lấy được thôi. Con gái tôi sẽ nộp. Nó sẽ tìm cách thương lượng lời khai.”

“Chữ A.A có nghĩa là gì?”

“Sao cơ?”

“Tên viết tắt của ông.”

“Aleksei Alekseivitch. Gia đình tôi từ Nga tới. Nhưng lâu lắm rồi. Trước cả Cách mạng tháng Mười.”

“Nhưng họ vẫn giữ các truyền thống cũ.”

“Thì anh thấy đó.”

“Người ta gọi ông như thế nào?”

“Alex, tất nhiên.”

“Vâng, cám ơn ông đã bỏ thì giờ tiếp tôi, Alex. Và cà phê nữa.”

“Giờ ông sẽ đi gặp con gái tôi chứ?”

“Có ích gì đâu? Ông có vẻ tự tin lắm.”

Rodin mỉm cười, nụ cười ra vẻ bao dung.

Ông nói, “Chỉ là vấn đề thủ tục thôi. Tôi là nhân viên của tòa, và ông nằm trong danh sách nhân chứng. Tôi buộc phải nói rằng ông bắt buộc phải đi. Bất cứ một thiếu sót nào cũng sẽ là trái nguyên tắc.”

“Cô ấy ở đâu?”

“Trong tòa cao ốc kính mà ông có thể nhìn thấy từ cửa sổ.”

Reacher nói, “Được thôi. Tôi nghĩ là tôi sẽ ghé qua đó.”

Rodin nói, “Tôi vẫn cần mọi thông tin mà ông có.”

Reacher lắc đầu.

“Không. Ông thật sự không cần đâu.”

Ông trả tấm thẻ vào cửa dành cho khách cho bà tiếp tân rồi ngược trở lại về hướng quảng trường công cộng. Đứng trong nắng lạnh và xoay trọn một vòng, để cảm nhận về nơi chốn. Mọi thành phố đều giống hệt nhau, mà lại không thành phố nào giống nhau cả. Chúng đều có màu sắc riêng. Một số màu xám. Cái này màu nâu. Reacher cho rằng gạch được làm từ loại đất sét của địa phương và mang cả màu của đất nông trại cũ vào những mặt tiền. Thậm chí đá cũng bị những vết lốm đốm, như lẫn những vụn quặng sắt. Đây đó có những vệt màu đỏ sậm, như là những kho đụn ngày xưa. Đây là một nơi ấm áp, không đông đúc lắm, nhưng nó đang tiếp tục sống. Nó sẽ hồi lại sau thảm họa. Có sự tiến triển, sự lạc quan và động lực sôi nổi. Tất cả những công trình xây dựng mới chứng minh cho điều đó. Những công trường và lề đường bê tông thô ở khắp mọi nơi. Rất nhiều hy vọng.

Phần xây thêm của bãi đậu xe neo vào đầu phía Bắc của khu phố thương mại. Nó báo trước sự phát triển thương mại sau này. Nó nằm về hướng Nam và hơi chệch về hướng Tây của khu xảy ra vụ bắn giết. Rất gần. Thẳng về hướng Tây và có lẽ xa gấp đôi là một đoạn của xa lộ treo. Nó lượn thành một đường chừng ba mươi thước giữa không gian thoáng rộng trước khi vào vòng cuốn phía sau thư viện. Rồi nó trải thẳng ra một chút phía sau tòa cao ốc kính đen. Tòa cao ốc nằm về hướng Bắc của quảng trường. Nó trưng một tấm bảng NBC gần cánh cửa, trên một phiến đá granite màu đen. Nơi làm việc của Ann Yanni, Reacher đoán vậy, cũng là nơi làm việc của con gái Rodin. Phía Đông của quảng trường là tòa nhà hành chính nơi có văn phòng của Sở Đăng kiểm và phòng tuyển quân. Đó là nơi những nạn nhân đi ra. Họ đổ xô ra khỏi cánh cửa. Ann Yanni đã nói gì nhỉ? Sau một tuần dài làm việc? Họ đã chen nhau về hướng Tây, băng ngang qua quảng trường về hướng xe đang đậu hay trạm xe buýt và rơi vào cơn ác mộng. Lối đi hẹp làm họ đi chậm lại và sắp thành hàng. Như bắn cá nhốt trong một cái chậu lớn.

Reacher bước theo chiều dài của chiếc hồ cảnh để cạn đến cánh cửa xoay ở tầng một của tòa tháp. Ông bước vào và liếc qua tiền sảnh để tìm bảng chỉ dẫn. Một tấm bảng lồng kính nền bằng nỉ xốp đen với những chữ màu trắng gắn trên đó. NBC nằm trên tầng hai. Một số lô khác để trống, và Reacher đoán rằng những phòng còn lại đổi chủ quá nhanh, không đáng công gắn vào bảng chữ. Văn phòng luật của Helen Rodin được ghi nằm ở tầng bốn. Những con chữ hơi xiên xẹo và khoảng cách giữa chúng không đều. Reacher nghĩ, Dĩ nhiên nó không phải là Trung tâm Rockefeller rồi.

Ông đợi thang máy với một người đàn bà tóc vàng xinh đẹp. Họ nhìn nhau. Cô ta bước ra ở tầng hai và ông nhận ra rằng đó là Ann Yanni. Ông nhận ra cô ta qua chương trình trên truyền hình. Rồi ông hình dung tất cả những gì mình cần làm là tìm gặp Emerson ở sở cảnh sát và ông sẽ hâm nóng lại toàn bộ câu chuyện thời sự nhảm nhí đang hấp hối.

Ông tìm thấy văn phòng của Helen Rodin. Nó nằm ở khu trước tòa nhà. Các ô cửa sổ hẳn sẽ mở về phía quảng trường. Ông gõ cửa. Nghe một tiếng trả lời vọng ra như từ rất xa, rồi bước vào. Một phòng tiếp tân trống không với một chiếc bàn dành cho thư ký. Cái bàn để trống. Nó là đồ cũ, nhưng gần đây không được dùng. Reacher nghĩ, Chưa có thư ký. Những ngày khởi nghiệp.

Ông gõ cánh cửa văn phòng bên trong. Vẫn giọng nói lúc nãy trả lời. Ông bước vào, nhìn thấy Helen Rodin ngồi sau một chiếc bàn cũ khác. Ông nhận ra cô qua tấm ảnh của cha cô. Nhưng khi đối diện nhìn cô còn xinh xắn hơn. Chắc hẳn cô chưa quá ba mươi, cao dong dỏng, người mảnh khảnh. Theo kiểu thường xuyên tập luyện. Không phải là do ăn kiêng quá mức. Hoặc cô có chạy bộ hay chơi bóng đá, hoặc cô quá may mắn với hệ trao đổi chất của mình. Cô có mái tóc vàng dài và đôi mắt xanh của cha mình. Đôi mắt ẩn chứa vẻ thông minh. Cô mặc tuyền một màu đen. Quần tây và một chiếc áo thun bó bên dưới áo choàng. Reacher nghĩ,Lycra. Loại số dzách.

Cô nói, “Xin chào.”

Ông đáp, “Tôi là Jack Reacher.”

Cô tròn mắt nhìn ông, “Ông đùa à. Có thật ông là Reacher không?”

Ông gật đầu, “Trước vẫn thế, sau này vẫn thế.”

“Không thể tin nổi.”

“Có sao đâu. Mỗi người đều là một ai đó.”

“Ý tôi là, làm sao ông biết mà đến đây? Chúng tôi không thể tìm ra ông.”

“Tôi thấy trên ti vi, Ann Yanni, sáng thứ Bảy.” Cô nói, “Cám ơn Chúa đã sinh ra cái ti vi. Và cám ơn Chúa vì ông có mặt ở đây.”

Ông nói, “Tôi ở Miami với một vũ nữ.”

“Một vũ nữ à?”

“Cô ấy là người Na Uy.”

Ông bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài. Ông đang đứng trên tầng bốn, và con phố mua sắm chính chạy thẳng về hướng Nam, dốc xuống thoai thoải, càng khiến ông có cảm giác đứng trên cao. Cạnh dài của cái hồ cảnh được đặt thẳng hàng với con đường. Thực tế là cái hồ nằm trên con đường, nhưng sau đó người ta đã chặn con đường lại để làm thành quảng trường. Nếu có ai đi xa trở về, người đó sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy một hồ nước lớn ở chính chỗ con đường trước đây. Cái hồ trông dài và hẹp hơn so với khi đứng trên mặt đất mà quan sát nó. Trông nó buồn bã và trống rỗng, chỉ có một lớp bùn rác mỏng trên nền gạch đen. Phía ngoài của nó, hơi chếch về bên phải là bãi đậu xe mới, hơi thấp hơn so với quảng trường. Có lẽ chênh lệch độ nửa tầng lầu.

Reacher hỏi, “Cô có ở đây không? Khi chuyện đó xảy ra ấy?”

Helen Rodin lặng lẽ trả lời, “Có, tôi ở đây.”

“Cô có chứng kiến không?”

“Ban đầu thì không. Tôi nghe thấy ba phát súng đầu tiên. Chúng nổ rất nhanh. Phát đầu tiên, rồi ngưng một tí, rồi hai phát tiếp theo. Rồi ngưng một lúc nữa, hơi lâu hơn một tí, nhưng quả thật cũng chừng nửa giây thôi. Tôi đứng dậy kịp chứng kiến ba phát sau cùng. Thật kinh khủng.”

Reacher gật đầu. Ông nghĩ, Cô gái can đảm đấy. Cô nghe tiếng súng, và cô đứng dậy. Cô không chui xuống gầm bàn để núp. Rồi ông nghĩ tiếp, Phát đầu tiên, rồi ngưng lại một chút.Đó là tiếng súng của một tay súng chuyên nghiệp, nhìn xem phát đạn đầu tiên đi đâu. Có quá nhiều yếu tố tác động. Nòng súng lạnh, tầm bắn, sức gió, việc nhắm súng, ngắm bắn.

Ông hỏi, “Cô có thấy người chết không?”

Cô trả lời, phía sau ông “Hai người. Thật là khủng khiếp.”

“Ba phát và hai người?”

“Hắn bắn trượt một phát. Có thể là phát thứ tư hay phát thứ năm, họ không biết chắc. Họ tìm thấy đầu đạn dưới hồ. Hồ cạn là vì thế. Người ta đã tháo nước đi.”

Reacher không nói lời nào.

Helen nói tiếp, “Viên đạn là một phần của các chứng cứ. Nó gắn cây súng với tội ác.”

“Cô có biết ai trong số những người chết không?”

“Không. Họ chỉ là người bình thường, tôi đoán vậy. Ngẫu nhiên hiện diện không phải nơi, không phải lúc.”

Reacher không nói gì.

“Tôi thấy ánh lửa lóe lên từ khẩu súng. Tít ngoài kia, trong bóng râm, trong bóng tối. Những ánh lửa nhỏ khạc ra.”

Reacher nói, “Chớp lửa đầu nòng.”

Ông từ cửa sổ bước trở lại. Cô chìa tay ra.

Cô nói, “Tôi là Helen Rodin. Tôi xin lỗi, lẽ ra phải giới thiệu đúng phép tắc hơn.”

Reacher nắm tay cô. Bàn tay ấm và mạnh mẽ.

Ông nói, “Chỉ Helen thôi? Không phải Helena Aleksey a hay là cái gì khác à?”

Cô lại ngó ông trừng trừng, “Làm thế quái nào ông biết được?”

Ông trả lời, “Tôi đã gặp cha cô.” Và buông tay cô ra.

Cô hỏi, “Thật à? Ở đâu?”

“Ở văn phòng ông ấy, vừa mới đây thôi.”

“Ông đến văn phòng cha tôi? Hôm nay?”

“Tôi mới rời khỏi đó.”

“Tại sao ông đến văn phòng cha tôi? Ông là nhân chứng của tôi. Lẽ ra cha tôi không được gặp ông.”

“Nói chuyện với ông ấy rất thú vị.”

“Ông nói với ông ấy những gì?”

“Không nói gì cả. Ngược lại tôi đặt câu hỏi cho ông ấy.”

“Những câu hỏi gì?”

“Tôi muốn biết lý lẽ của ông ấy mạnh đến đâu. Để buộc tội Barr.”

“Tôi đang đại diện cho James Barr. Và ông là nhân chứng biện hộ. Lẽ ra ông nên nói chuyện với tôi, chứ không phải với ông ấy.”

Reacher không nói gì.

Cô nói, “Rủi thay những chứng cứ chống lại James Barr là rất mạnh.”

Reacher hỏi, “Làm sao cô biết được tên tôi?”

Cô trả lời, “Tất nhiên là từ James Barr. Còn ở đâu nữa?”

“Từ Barr? Tôi không tin.”

Cô nói, “Vậy cứ nghe đi.”

Cô quay sang cái bàn và bấm nút trên chiếc máy cat-set kiểu cũ. Reacher nghe một giọng nói mà ông không biết: Chối tội không phải là một chọn lựa. Helen bấm nút Pause và giữ nguyên ngón tay ở đó.

Cô nói, “Đó là luật sư đầu tiên của ông ta. Chúng tôi thay luật sư đại diện vào hôm qua.”

“Làm sao được? Hôm qua hắn còn hôn mê mà.”

“Nói cho đúng thì thân chủ của tôi là em gái James Barr. Người thân gần nhất của hắn.”

Rồi cô thả nút Pause ra, Reacher nghe tiếng động trong phòng và tiếng lẹt xẹt rồi một giọng nói mà ông đã không nghe lại trong mười bốn năm nay cất lên. Nó giống y như là ông còn nhớ. Nó trầm, căng thẳng và cáu kỉnh. Nó là giọng nói của một người ít khi mở miệng. Nó nói: Tìm Jack Reacher cho tôi.

Ông đứng yên, bàng hoàng.

Helen bấm nút Stop.

Cô nói, “Thấy đó?”

Rồi cô xem đồng hồ trên tay.

Cô nói, “Mười giờ ba mươi. Ông ở lại luôn dự buổi hội ý với khách hàng nhé.”

Cô đưa ông ra mắt như là một nhà ảo thuật trên sân khấu. Như một con thỏ chui ra khỏi một chiếc mũ. Trước tiên là một người mà ngay lập tức Reacher nhận ra ông ta là một cựu cảnh sát. Ông ta được giới thiệu là Franklin, một điều tra viên tự do làm việc cho các luật sư. Họ bắt tay nhau.

Franklin nói, “Tìm anh là một việc chẳng dễ dàng.”

Reacher đáp, “Sai. Tìm tôi là một việc bất khả thi.”

“Anh có định cho tôi biết vì sao không?” Trong mắt Franklin hiện lên những câu hỏi tức thời. Những câu hỏi của một cảnh sát. Như, Cha này làm nhân chứng thì có lợi như thế nào đây? Hắn là ai? Một tội phạm? Một kẻ đào tẩu? Liệu hắn có đủ tư cách để làm nhân chứng không?

Reacher đáp, “Chỉ là một sở thích, một lựa chọn riêng thôi.”

“Tóm lại là anh cứng cựa chứ gì?”

“Gà nòi thượng phẩm đấy.”

Một phụ nữ bước vào. Cô khoảng ba lăm đến gần bốn mươi tuổi, trang phục như một nhân viên văn phòng, có vẻ căng thẳng và mất ngủ. Nhưng bên dưới vẻ bối rối ấy, cô không phải là không hấp dẫn. Cô trông có vẻ là một người tốt và đứng đắn. Thậm chí xinh xắn. Nhưng rõ ràng cô là em gái của James Barr. Reacher biết điều đó trước khi được giới thiệu. Cô có cùng nước da, và cùng một khuôn mặt ấy, chỉ có dịu dàng hơn, nữ tính, và già hơn mười bốn năm.

Cô nói, “Tôi là Rosemary Barr. Tôi rất mừng vì anh tìm được chúng tôi. Thật như là trời xui vậy. Giờ thì tôi mới cảm thấy chúng ta sẽ có được chút kết quả gì đó.”

Reacher không nói gì.

Văn phòng luật của Helen Rodin không nối với một phòng họp. Reacher đoán rằng sau này sẽ có. Có lẽ vậy, nếu cô phát đạt. Thế nên cả bốn người ngồi lại với nhau ở phòng trong. Helen ngồi ở bàn giấy. Franklin ngồi ghé lên một góc bàn. Reacher đứng tựa vào bậu cửa sổ. Rosemary Barr bồn chồn bước tới bước lui. Nếu trên sàn có lót thảm, thì có lẽ cô đã làm thủng nó rồi.

Helen nói, “Ok, chiến lược bào chữa. Ít nhất chúng ta muốn theo đuổi một thỏa thuận về y tế. Nhưng chúng ta sẽ nhắm đến điều cao hơn thế. Sau cùng, chúng ta đạt được đến mức nào tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Các yếu tố gắn với nhau ra sao, trước tiên, tôi chắc rằng tất cả chúng ta đều muốn nghe những gì ông Reacher định nói.”

Reacher nói, “Tôi không nghĩ các bạn muốn đâu.”

“Muốn gì?”

“Muốn nghe những điều tôi định nói.”

“Tại sao?”

“Bởi cô đã có một kết luận sai lầm.”

“Là?”

“Cô nghĩ vì sao tôi lại đến gặp cha cô trước?”

“Tôi không biết.”

“Vì tôi không định tới giúp James Barr.”

Không ai nói lời nào.

Reacher nói, “Tôi đến đây để thanh toán hắn.”

Mọi người nhìn chằm chằm vào Reacher.

Rosemary Barr hỏi, “Nhưng tại sao?”

“Vì trước đây hắn đã làm chuyện này rồi. Và một lần đã là quá đủ.”