Kim Cương Bất Hoại

Chương 38: Trương Bỉnh Nhi học võ



Khi bọn người Văn Tú Tài đi khuất, trên con đường từ thao trường dẫn đến thị trấn dọc ven sông, người đi đường nhận thấy ông già ăn bận quần áonông dân và hai cậu nhỏ vị thành niên vừa đi vừa nói chuyện. Một cậu bémặt láu lỉnh lanh khôn, còn cậu kia cũng chững chạc nhưng ngờ nghệch.

- Cha mẹ ôi! Bọn họ đánh nhau dữ dội quá. Lúc gã kia bị chặt đầu máuchảy có vòi tia lên không trung, cháu sợ nhắm tít cả hai mắt lại. Bâygiờ nghĩ lại vẫn còn kinh hãi.

Cậu nhỏ Cung Đình kéo lê đôi vân hài thêu trở nên quá rộng so với đôibàn chân thu nhỏ của cậu, quần chùng áo dài, thản nhiên đáp :

- Có gì mà sợ hãi, tôi đã “mần” như vậy nhiều lần...

Cụ già cuống quýt xua tay :

- Đi với ta đừng nói nhảm nhí, người ta nghe người ta bắt bỏ tù cả lũ thì chết!

Chẳng mấy lúc, ba người đến khu chợ đông. Người buôn bán chen vai thíchcách, đi lại sầm uất, Trương Bỉnh Nhi kêu đói luôn miệng, nhắc nhở thúcphụ cho ăn “khá” hơn mọi khi vì hôm nay được món phát tài.

- Có tiền nhưng còn phải để dành, đủ tiền thuyền xe về chứ. Ăn hết ngửa tay ăn xin được sao?

Vô hàng quán nào cũng đông nghẹt thực khách vì người đi xem trở về đều tìm tửu lâu ăn uống nhậu nhẹt.

Chợt đi qua một quán ăn rộng rãi, khang trang, mùi các món chiên xào bay ở trong bay ra thơm nức mũi. Cậu nhỏ hít hà thèm nhỏ rãi, ông già cứhếch mũi đánh hơi, chân không muốn bước vô nhưng bao tử có mãnh lực vôhình xô đẩy bộ ba lững thững bước vào trong phạn điếm.

Khách sang ăn ở trên lầu, khách bậc trung ngồi tầng dưới. Tửu bảo phổ ky chạy hầu bàn tới tấp, ba người một già hai trẻ tìm một bàn chỗ góctrống bảo nhau ngồi xuống rất là khiêm tốn.

Tửu bảo ngó nghiêng, đánh giá tùy theo phục trang bộ mã bên ngoài mà mắt xanh mắt trắng, tiếp đãi niềm nở hoặc sơ sài.

Ba người chờ hết tuần trà nọ đến tuần trà kia không được ai hỏi han chiđến. Có lẽ vì bộ mặt hà tiện keo kiệt quá rõ rệt của ông già và bộ mặtđói ăn với hai cánh mũi phập phồng của cậu nhỏ trông không “sáng nước”cho lắm nên các món ăn cứ tíu tít chạy tới các bàn bên mà không tới chỗba người.

Sự kiên nhẫn đến đâu cũng có giới hạn, ông già đành liều vẫy tay gọi một tên phổ ky tới gần. Hắn cầm cây bút lông và quyển sổ nhỏ lại hỏi kháchăn muốn dùng thực phẩm gì?

Đây là một phạn điếm nổi tiếng nhất Châu Hòa trấn. Các thực đơn kê khaiđều mắc tiền không phù hợp với hầu bao của ông già. Hỏi tới món nào ôngcũng lắc. Phải mất một thời gian khá lâu, khách mới thuận tình ở ba món: heo quay, tô canh và cơm trắng.

Tên phổ ky thở dài và quay vô bếp lấy thức ăn cho ba người. Trái lại ởtrên lầu, ở bàn nào cũng có la liệt kỳ trân mỹ vị. Mỗi lần nghe phổ kylên tiếng rao tên những thực phẩm nhà bếp đã nấu nướng xong đem ra, cậunhỏ họ Trương lại đưa lưỡi liếm môi quèn quẹt :

- Bát bảo nấu gà tơ.

- Chim cầu hầm tống cú, hải sâm.

- Bào ngư tần râu câu, trứng rùa hấp vây cá...

Ông già chốc lát lại móc tiền trong bọc ra đếm. Chừng tới khi món ăn đem lên, hai ông cháu mắt sáng rực lên trông thấy đĩa heo quay bì ròn rángmỡ không chịu nổi sự khiêu khích quyến rũ của hảo phẩm nên nước dãi chảy nhểu ròng. Quên cả lề lội lịch sự, hai ông cháu lấy cơm vô bát, gắp vội những miếng thịt ngon lành, chấm vội nước tương pha dầu vừng thêm béongậy, đủ hành tiêu gia vị ăn liền, quên cả cậu nhỏ đồng hành ngồi bên.

Cung Đình không chú ý đến sự ăn uống, hai mắt hết ngắm dọc những bứchoành phi, câu đối trang hoàng trong cửa tiệm lại liếc mắt ngó nhữngthực khách. Ăn một hơi hết một nửa đĩa thịt heo quay, vị Tam lão họTrương mới bảo cậu nhỏ Cung Đình rằng :

- Ngon lắm. Không ăn đi còn ngồi ngắm trời ngắm đất nữa sao? Heo quay béo mềm, cơm trắng nóng sốt, không ăn thì còn muốn gì nữa?

Cậu nhỏ lễ phép trả lời :

- Cháu chưa đói! Cụ và anh Trương cứ ăn no đi.

Lão Tam lấy thìa sẻ cơm vô bát cho cậu nhỏ, gắp cho miệng thịt lớn nói rằng :

- Đường về Thủy Khẩu xa dài. Không ăn lấy sức đâu mà đi đặng. Ngồi xengựa chạy xóc lại càng chóng đói lắm. Không ăn ở đây, dọc đường chỉ cònăn bénh tét khô với uống nước lạnh nữa mà thôi.

- Được. Lúc nào cháu đói thì cháu sẽ ăn. Thịt heo quay nhà hàng này quay dở ẹc.

Lão Tam bực mình gắp nhai ngấu nghiến miếng thịt trong bát cậu nhỏ trừng mắt :

- Trời. Thịt quay ngon thế này mà chê là dở. Không ăn để ta ăn hết coi.Coi bộ thằng nhỏ này khó ăn khó uống thế này, đòi đi theo ta sao được?Muốn ăn phải chịu khó kiếm đặng nhiều tiền thì mới vòi vĩnh, muốn mónnày món kia. Không có tiền thì biết làm thế nào.

Trương Bỉnh Nhi biết tình lão Tam keo kiệt :

- Thúc phụ để yên cho anh ấy! Anh Cung nè, anh ăn với tôi miếng này. Anh không ăn thúc phụ tôi giận đấy.

Cung Đình lắc đầu. Bỗng nhiên tất cả những thực khách trong tiệm đềudừng tay đũa. Ông chủ phạn điếm muốn tuyên ngôn gì đây? Thực là trịnhtrọng, vì người ta thấy một số người làm công, đầu bếp, tài phú, quản lý đều đứng xung quanh viên chủ tiệm.

- Kính thưa chư vị quí khách. Hôm nay nhằm đúng ngày đệ nhị chu niên bản hiệu khai trương tại nơi thị trấn, được quý khách chiếu cố đông đảonhất tỉnh. Hầu hết những thân hào nhân sĩ trong trấn đều đến ăn ở đây.Các vị đó đòi hỏi bản tiệm phải luôn luôn cho ra lò những thực phẩm đặcbiệt. Lý Cẩm sếnh sáng nhận làm đầu bếp chính của bản tiệm, hôm này vừamới dùng bí thuật của khoa gia chánh, nấu nướng ba món ăn chơi đặc sắctrên đời chưa hề có đem ra để quý vị thưởng thức. Ba món này nếm xongkhông phải trả tiền. Quý khách nào là tay sành điệu đệ nhất ẩm thực xinviết tên ba món tam tuyệt đó là món thịt gì, dùng gia vị gì? Nếu trúng,Lý Cẩm sẽ đến tận bàn bái tạ và nhà hàng kính biếu tặng phẩm là một trăm lạng vàng.

- Một trăm lạng vàng? Thiệt ư?

Mọi người nghe chủ tiệm nói xong nhao nhao lên? Có người nghe không kỹ muốn hỏi lại cho rõ, ngỡ mình nghe lộn.

Nếm ba món ăn, nếu nói rõ, xác định được món thịt gì thì được thưởng một trăm lạng vàng. Có thế thôi chứ còn gì nữa.

Lý Cẩm tiên sinh là ai? Tại sao hắn lại dám thị tài như vậy? Trong đámthực khách quen ăn ở đây, thiếu gì người “thực tri kỳ vị” ăn vị nào gọitên ra món đó, thú cầm, thủy tộc, sơn hào hải vị... Thiên hạ xì xầm tonhỏ. Nghe nói chuyện khảo nhau thấy nói Lý Cẩm đã thuộc loại lão niênhỏa đầu trưởng biệt tài nấu riêng cho vị võ sư Châu Hòa trấn... Mọingười nín thính!

Chả trách hắn ta dám ra mặt thách thức mọi người. Đây cũng là một cáchnhà hàng quảng cáo. Ai chẳng biết đạo quan bị tấn công, Tứ đại tôn giảđã thọ tử trên Thiết Xích kiều, người làm trong đạo quan bây giờ tớigiúp việc nấu bếp cho nhà hàng, không nấu nướng cho vị tôn sư trong đạoquan nữa.

- Khách nào có tiền muốn thưởng thức vật ngon, của lạ tại bản quán sẽđược nếm những nhất tuyệt, tam - tứ tuyệt, tuyệt hảo, tuyệt ngon, tuyệtkỳ, tuyệt dị trên đời không kém món ăn trong hoàng cung nội phủ.

Nhưng trước khi ra mắt, hãy thử tài thiên hạ đã. Lý Cẩm sếnh sáng nấuchơi ba món để mọi người nếm chơi không phải trả tiền, chỉ cần biên giấy cho biết là ba món gì? Ai “thực tri kỳ vị” thì tặng thưởng vàng ròngtrăm lạng, chất đầy chiếc khay khảm xà cừ để trong lồng kính bên cạnh ba đĩa nhỏ có bày một món thực phẩm và đồ gia vị.

Sau khi được giải thích am hiểu tường tận cuộc vui, ăn nhậu thách đố,tất cả thực khách trong tiệm đều đứng dậy, một loạt vỗ tay hoan hô ầm ĩvà hối chủ tiệm cho bắt đầu cuộc nếm thi nóng sốt ngay lập tức.

Tất cả mọi người làm công trong tiệm đều được huy động bưng ngay tới bàn khách những món “tam tuyệt” đó.

Tức thời từ trong nhà bếp mùi thơm món ăn xông ra nhức mũi, ngon thiệtlà ngon. Chỉ ngửi thôi cũng đủ nhào đại vô. Thực ăn ăn lối tục thò đũagắp lên miệng nhai nuốt đánh ực, ăn xong hết phần mình mà mặt mày vẫncòn ngơ ngác chẳng hiểu mình vừa được nhậu món gì?

Nai chăng. Ếch chẳng? A ha! Thịt rừng! Phải chỉ có thịt rừng là quý! Heo rừng, chim rừng, gấu rừng, cầy hương, bò tót?

Có người cẩn thận hơn nhấm nhám từng tí. Bỗng hắn nhắm tịt cả hai mắtnói ra một vài thức gia vị, này quế, này giếng, củ sả, lá thơm cay, bạchà, húng ngò hành hoa, chanh khế, nhưng đến khi người bạn đồng bàn hỏimón thịt là món gì thì chịu, không trả lời được. Hình như thịt thỏ rừngthì phải?

Kẻ này chê bai người nọ không thiếu lời: Anh thì biết đếch gì? Mặt anhrõ là thuộc loại cơm nhà với vợ, trăm năm mới đi ra ngoài, thế mà cũnglên râu phê bình món ăn thực phẩm. Món ăn bao giờ cũng phải đủ bộ ba:chim trên trời, thú dưới đất, cá dưới nước...

Món ăn này có vị tanh là hải sản, lại bảo là thịt “chim cu”.

- Ôi trời ơi. Lắng tai nghe chúng nó nịnh bợ, rồi có thằng che tàn LýCẩm sếnh sáng hạ bút kê thịt phượng hoàng chả kỳ lân và thịt đuôi rồngcho mà xem.

Cũng có tay ranh điệu, gọi rượu liên hồi để nhắm với tam tuyệt. Ngườinào nếm xong cũng ca tụng thực kỳ trân kỳ vị, nhưng tới khi cầm bút tựhạ kê khai món ăn thì lại ngần ngừ, phân vân không biết quyết định rasao? Bảo là ngỗng thì không dai, bảo là gà thì nhỏ thớ, bảo là vịt thìmềm xèo, thôi thì đúng là chim rừng. Cái gì thì cũng ở trên rừng với đáy biển thì mới quý. Vậy thì viết ngỗng trời, cá chim, cá vược, chẻm, gộc, hồng...

Cũng có người lập dị, tỏ tài có cái lưỡi “bất hữu” nên ghi là thịt rắn,tắc kè, kỳ nhông, ba ba, rùa núi, sơn hào hải vị kể là vòi voi, bàn taygấu, đười ươi, thịt khỉ, sơn dương, gà rừng, chim trĩ, đa đa, con két...

Mọi người đều có ước muốn đoạt được khay vàng. Giả sử có trúng một món,sai hai món thì cũng hy vọng được một phần ba số vàng đầy ắp sáng chóimắt.

Đáng buồn cho lão Tam và hai cậu nhỏ, ngồi chờ mãi để xem ba món ăn kỳlạ tới, nhưng mãi tới lúc người ta đã thu giấy từng bàn, ba người mớithấy bày ra trước mặt vỏn vẹn ba đĩa nhỏ xíu trên chỉ có ít thịt thà đểnếm. Lão Tam gắp cả ba miếng nhỏ đưa vào miệng chưa kịp nhai đã trôixuống cổ. Vị ngon thì ngon thực, lạ thì lạ vô cùng song chả biết là thịt giống gì cả. Lão Tam lẩm bẩm một mình :

- Nó mang đến cho chúng mình ít quá. Tao ăn mà chẳng biết là đã ăn cái gì?

Nói thế tức là lão muốn ăn sang cả phần Trương Bỉnh Nhi và cậu nhỏ CungĐình. Cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi khá hơn, nhấm nháp từ từ và nói rằng :

- Giống thịt chim sẻ mày ạ.

- Chim sẻ mía hay là thịt dơi?

- Mày đã ăn thịt dơi bao giờ chưa. Ngon ghê lắm. Nhưng chưa ăn và chưabiết làm thì ăn thế đếch làm gì được. Chỉ ăn ốc nói mò, mà tao thấygiống thịt ốc mày ạ.

- Ốc gì? Ốc nhồi, ốc bưu hay ốc gạo?

Lão Tam thấy hai thằng nhỏ cứ hỏi vặn nhau hoài liền bảo :

- Phần hai đứa chúng bay không ăn mau đi, để tao ăn họ cho xong. Ăn xong trả tiền đi cho rồi, hơi đâu mất thì giờ mà đoán nhăng, tao biên đại là mắm tươi, mắm ruốc, mắm nêm cho xong chuyện.

Cậu nhỏ Cung Đình đưa đũa lên đầu lưỡi nếm thử mỗi món chút ít, cậu nhăn mặt rồi sẵn bút mực và giấy phổ ky mang đến, viết thảo “liên chi hồđiệp” những dòng chữ lão Tam chẳng hiểu gì cả.

- Thằng nhỏ này giỏi ghê, viết nhanh như chớp vậy hả mày? Mày viết chi?Thịt khỉ, thịt cừu hay thịt chó? Con ngan con cút hay con kên kên? Cáút, cá kèo lòng tong hay cá bống?

Cung Đình cười nói :

- Tham tiền người ta cũng nói như khiếu như vẹt. Thằng Lý Cẩm là vua xỏlá nên nó cho ăn thịt vẹt lông xanh mỏ đỏ đấy. Thằng nào vô tiệm ăn haykhoe hay khoe giỏi nhưng thực ra dốt như lừa, nó cho ăn thịt lừa đấy. Ăn như rông cuốn, nói như rồng leo, lâm sự sợ ra quần và nhát như cáy nênnó cho ăn thịt cáy, mắm cáy nấu với cá tra đấy. Có thế mà không biết. Ởtrong đạo quan có chuồng vẹt nhiều con. Ta bỏ đi nên đầu bếp Lý Cẩm sợvẹt cũng bị bỏ đói cũng chết nên làm thịt món chim đó, cả ngàn người ănkhông hết. Trong chuồng còn đôi lừa già nó cũng đem ra thịt. Còn dướiven sông thiếu gì cáy ở trong đầm, vũng nước với ao cá tra ăn phân? Nócó tài chế hóa gia vị nó đã sử dụng gia vị đánh lừa cái lưỡi vô duyêncủa những phàm phu tục tử thì có trời mới biết nổi...

Lão Tam nghe cậu nhỏ Cung Đình nói vậy hai mắt tròn xoe đã đinh đưa tay lên mấy lần bịt miệng không cho nói nhưng lại không dám.

Còn chút thịt thừa trên đĩa thì lấy đũa gắp ăn nốt, xong hấp tấp đứng dậy bảo hai cậu nhỏ rằng :

- Ta trả tiền rồi ra bến chợ thuê xe xuôi về Thủy Khẩu. Ở đây, tụi mìnhviết bậy bạ, ông chủ tiệm và ông đầu bếp trưởng thấy nói cho khách ănnhững thịt cú, thịt vẹt, lừa ngựa, mắm cáy với tra. Người ta lấy gậyđánh cho như đòn.

Nói xong lão ra quầy trả tiền và rút lui có trật tự không cần chờ biết nhà hàng tuyên bố kết quả cuộc thi nếm ba món ăn ra sao?

Tửu bảo thấy ông già và trẻ nhỏ nên cũng mặc kệ, cho rằng những ngườinày thuộc vào loại cổ cày vai bừa, ăn lấy sống, mũi tịt, lưỡi tê khôngbiết nếm mùi vị, chưa nhai đã nuốt biết gì việc thưởng thức những món ăn do một tay đầu bếp chế biến ra.

Ra khỏi cửa tửu điếm, lão Tam thúc hai trẻ nhỏ đi nhanh như có ma đuổi sau lưng. Nhưng có người đuổi sau lưng thực?

Số là mấy trăm bàn thực khách đều biên trật hết không đúng lấy một danhtừ thú cầm thủy tộc đem ra làm thực phẩm bữa nay. Nhưng tên phổ ky biếtđọc chữ cá tra, thịt lừa và thịt vẹt thì nổi sùng, lon ton cầm ngay mảnh giấy chạy thẳng vào trình Lý Cẩm sếnh sáng đương ngồi uống trà cùng với chủ nhân và một vài người danh giá trong vùng.

Tên tửu bảo trình giấy mục đích là để nhận lệnh chủ nhân cho phép trừngtrị mấy tên hỗn láo dám động chạm tới đại danh của vị hỏa đầu trưởngđáng kính.

Ai ngờ đọc xong mảnh giấy Lý Cẩm mặt biến sắc kêu lớn :

- Trời! Ai mà viết như vậy? Giống như tự dạng của... bậc Tôn sư? Trờinhững vị thực khách ngồi tại bàn nào? Trên lầu hay dưới nhà?

Phổ ky nhanh nhẩu đáp :

- Dạ ngồi ở bàn trong góc dưới gần cửa? Máy tên đó quê mùa, cục mịch hỗn láo lắm, xin cho phép con ra cật vấn rồi cho chúng một trận!

- Láo nào! Đồ bị thịt có mắt không tròng! Mau mau! Đưa ta tới kính chào... Giấy biên trúng hết.

Lý Cẩm lật đật chạy xuống lâu như bay biến làm tên phổ ky ngây người như tượng gỗ. Chủ nhân và các vị thân hào chạy theo Lý Cẩm. Trông thấy khay vàng để trong lồng kính, vị hỏa đầu trưởng cứ lễ mễ bưng trong tay vàhối rối rít :

- Những người trúng giải đâu rồi?

- Ai? Ai?

- Ông già và hai cậu nhỏ ngồi ở góc kia?

- Bàn đó trống trơn rồi? Tại sao chưa tuyên bố kết quả chúng bay đã đểkhách đi. Quân ngu dốt quá chừng. Đáng đánh đòn! Đáng đánh đòn!

Mắng xong Lý Cẩm chạy vội ra đường, thấy hút Lão Tam dẫn hai trẻ đi tậnđằng xa, cứ thế bưng khay vàng hối hả chạy theo. Lý Cẩm chạy trước rồichủ nhân, thân hào, tửu bảo và đám khách ăn hiếu kỳ cũng nối đuôi thànhhàng dài chạy đuổi theo.

Không ngờ Lão Tam ngoảnh lại, thần hồn nát thần tính tưởng người trong tiệm chạy đuổi theo bắt đánh đòn, lão kêu la :

- Thôi bỏ mẹ rồi! Nhỏ ơi! Mày hại thằng già này! Chạy đi, tụi trong tiệm xông ra đuổi bắt chúng mình kia kìa! Chúng nó mà chộp được thì... Chúng nó cho hết lết nổi.

Cả ba người ù té chạy nhanh. Lý Cẩm càng chạy nhanh thì ba người càng phóng nước đại. Lý Cẩm gọi to :

- Đừng chạy nữa! Đừng chạy nữa! Đáp trúng rồi! Vàng đây! Vàng đây!

Trương Bỉnh Nhi tuổi nhỏ thính tai nghe rõ tiếng kêu vội bảo ông chú vô tích sự rằng :

- Thúc phụ ơi, đừng chạy nữa, người ta gọi bảo giải đáp đúng cho vàng đấy.

Nghe tiếng “vàng” Lão Tam hốt hoảng :

- Mày nói cái chi? Ai cho vàng? Vàng nào?

Khốn khổ cho Lý Cẩm tiên sinh, chạy tụt cả giày, đầu tóc rũ rượi. ông ta kính cẩn nâng cao khay vàng quỳ trước chân cậu nhỏ Cung Đình, hai bànchân nhỏ mà đi đôi vân hài to tổ bố.

- Lý Cẩm kính dâng Tôn sư! Không biết Tôn sư hạ giá quang lâm! Bày tròhôm nay tội thật đáng chết, chỉ có Tôn sư mới là người “thực tri kỳ vị” ở trần gian này.

Lão Tam há hốc, hai mắt tròn xoe không hiểu tại sao lại được kính dâng khay vàng như vậy. Lão quê một cục hỏi rằng :

- À thế ra cá tra, thịt vẹt, thịt lừa ngon như vậy hả? Những món đó bán ê hề ngoài chợ chẳng ma nào mua. Ông nấu thế nào mà thiên hạ ăn sùm sụpmà khen ngon váng cả lên. Dạy tôi nấu với!

Cung Đình đỡ lấy khay vàng, kéo tay ông già nấu bếp tóc bạc phơ đứng dậy nói rằng :

- Tài nấu của bác khá! Nhưng bày cho người ta ăn mà không mang rượu“chôm chôm” hay ngâm “bìm bịp” cho uống thì còn là khuyết điểm. Dù cólàm thêm tại đạo quan vài năm nữa vẫn chỉ là đầu bếp thứ hạng, ta chẳngphê ưu được nghe.

Lý Cẩm tiên sinh cung kính chắp tay vái tạ :

- Xưa nay thường bị mắng mở là ở vào hàng “vô hạng” bây giờ khen “thứhạng” thì kẻ hạ tiện này mãn nguyện lắm rồi, dù chết không dám quên ân.

Cung Đình nhìn Lão Tam nói rằng :

- Tiền thắng cuộc của cụ đấy. Cụ cất vào khăn gói để làm lộ phí cho bọnta xuôi Thủy Khẩu. Như vậy không phải ăn bánh tét khô và uống nước lãnữa.

Lão Tam mừng quýnh, thu nhận trăm lạng vàng bọc gói cẩn thận vô khăn gói: Lão vẫn cận thận nói rằng :

- Cậu không thích ăn heo quay, khoái ăn cá tra để lão tìm mua cả chục con mập ú, béo trắng để ăn cơm, như vậy bằng lòng không?

Lý Cẩm đứng bên cung kính nói :

- Kẻ hạ tiện này già rồi nên chẳng thể theo hầu hạ Tôn sư thực là đángtiếc. Này cụ già kia, phải thay ta hầu hạ Tôn sư của ta cho phải đạonghe không? Phải tuyệt đối trung thành, thờ kính hết lòng nghe. Ngườimuốn gì cũng phải chiều lấy được.

Lý Cẩm còn níu tay lão già nói nhỏ :

- Trăm lượng vàng không nghĩa lý gì đâu. Cụ nên nhớ, chỉ một viên trânchâu hay bảo thạch đính ở đôi vân hài kia cũng có giá trị mua mười cửatiệm mà cụ vừa ăn hồi này.

Lão Tam giương đôi mắt chẫu chuộc nhìn đôi vân hài đầy bụi, bùn đất hỏi nhỏ lại :

- Cụ nói gì? Những hòn bi ve kia là ngọc hả! Nó mua được cả tiệm ăn to lớn hả. Nói thực hay xí gạt lão đấy?

Lý Cẩm tiên sinh tức mình đạo mạo trả lời :

- Xí gạt cụ thì ích gì? Cụ muốn đưa Tôn sư đi Thủy Khẩu để tôi bảo chủnhân lấy cỗ xe của tiệm tặng cụ dùng đi cho đàng hoàng chóng tới nơi?

Lý Cẩm tiên sinh là người được chủ quán trọng vọng nên nghe vậy, ông chủ tiệm sai đầy tớ về đánh cỗ xe tới để Lão Tam và hai cậu nhỏ tùy tiện sử dụng, cỗ xe có hai ngựa kéo chắc chắn và sạch sẽ, Cung Đình thản nhiênbước lên xe và nói rằng :

- Ta đi ngao du ít lâu, ngày nào đó trở về đạo quan ta sẽ nhớ đến bác.

Sự việc xảy ra cũng nhanh chóng nghề rong xe là nghề tay trái của LãoTam nên ông già thích chỉ vừa được vàng lại được tặng xe, vui sướng cảmơn trời phật cứ sau khi buôn bán thua lỗ gần sạt nghiệp thì lại trúngmón bở đền bù lại.

Xe đi khuất, Lý Cẩm tiên sinh kiêu hãnh nói với mọi người rằng :

- Ta cứ tưởng mang chút thuật nhỏ mọn ra để chiêu hàng thiên hạ ai biếtlà món chi? Ai ngờ Tôn sư đọc vanh vách thấu rõ cả ruột gan ta! Ngườixứng đáng là vị Tôn sư muôn thuở tại Châu Hòa trấn này. Người đã cải lão hoàn đồng đi chu du thiên hạ. Sau này có ngày người trở về thì cửa tiệm của ông sẽ nổi tiếng nhất thiên hạ. Anh hùng bốn bể đều đến nhậu nhẹt ở quán ông. Ngàn vàng hồ dễ đón một khách anh hùng lại ăn tiệm tầm thường của chúng mình?

Mọi người nghe nói đều chắp tay cảm kích, hướng về phía xe chạy cungkính bái vọng. Câu chuyện bữa ăn nấu ba món thưởng trăm vàng trở nêngiai thoại truyền tụng từ cửa miệng người này tới tai người kia, lẽ tấtnhiên là ai ai cũng phục tài nấu nướng của Lý Cẩm tiên sinh, đánh lừađược lưỡi thiên hạ.

Thầ Hành Nụy Cước là người có trách vụ chỉnh đốn lại đạo quan và các cơsở của Cung Đình tôn sư, đầu tiên tìm đến Lý Cẩm tiên sinh để dọ hỏi tin tức vị tôn sư kỳ lạ, lẽ tất nhiên Giang Bình Hầu phu nhân lập tức đónbị hảo đầu trưởng về dinh phủ để sử dụng tài năng của ông ta.

Đây lại nói chuyện Lão Tam rong cương cho xe chạy trên đường độc độc bên sông. Không hiểu ông già khoái chí được tiền đến mức độ nào, hát hò ê a luôn miệng.

Trương Bỉnh Nhi ngồi cùng với Cung Đình trong xe, cậu nhỏ khôn ngoan cầm lấy đôi hài ngắm nghĩa. Cậu ta lấy giẻ lau sạch bụi dơ, quả nhiên thấymũi hài đính nhiều hạt châu báu sáng ngời lóng lánh, vì Cung Đình mặcquần áo dài che lấp nên lúc đầu ra khỏi đạo quan không mấy ai chú ý tới.

Lão Tam đang ngồi phía mé ngoài, ngoái cổ trông vô xe thấy trân châu bảo ngọc phát hào quang sáng rực rỡ lấy làm lạ, gò cương cho xe đỗ.

Lão Tam đôi mắt hau háu nhìn :

- Trời ơi, những cục thủy tinh này đẹp sáng dữ a? Tại sao trong tối nó cũng sáng lóe vậy?

Trương Bỉnh Nhi đáp :

- Ngọc dạ minh châu đấy! Ngoài sáng thì như thủy tinh, nhưng trong tốithì lại sáng lạ lùng. Thực là bảo vật quý giá. Ông đầu bếp nói đổi viênnày lấy mười tiệm ăn là đúng lắm. Thúc phụ ạ.

Lão Tam chui vô xe cầm đôi vân hài nặng trĩu báu vật ngắm nghía, đột nhiên lão lo sợ nói rằng :

- Chúng ta đi đường xa, chỉ có ta và hai cháu nhỏ, mang theo nhiều hoàng kim đã là điều tối kỵ, bây giờ lại mang nhiều châu báu thế này thì nguy lắm!

- Tại sao hả thúc phụ?

- Bởi vì vô phúc giữa đường gặp lâu la cướp bóc thì... chắc chúng giếtcả ba chúng mình. Hồi này đường xá cướp bóc như rươi. Chúng đánh hơi mùi vàng bạc tài lắm. Thà nghèo nàn túi rỗng còn giữ được cái đầu. Chính vì có của thì lại càng dễ dàng bỏ mạng vì của.

- Vậy thúc phụ tính sao cho ổn?

- Đưa ta dao nhỏ, ta cắt các hạt châu ngọc rời ra rồi bỏ vô túi nhỏ xấu xí để cất giấu.

Trương Bỉnh Nhi khen phải. Nói xong là thi hành ngay, Lão Tam cắt rờitrân châu, ngọc bích, dạ minh châu bỏ vô túi nhỏ bằng vải xấu giao choTrương Bỉnh Nhi cất giữ.

Cậu nhỏ Cung Đình chỉ cười khì, mặc cho hai chú cháu nhà họ bàn soạn, làm việc cất giấu ngọc quý. Hắn nói :

- Tôi chỉ cần tìm đâu mua cho tôi một đôi giày nhỏ vừa chân, giày này rộng khó đi lắm.

Lão Tam bỗng dưng vỗ trán đánh “đốp” một cái :

- Trời ơi. Có thế mà ta không nghĩ ra. Chúng ta giữ làm gì những vật mắc tiền này. Tại sao không bán quách nó đi, lấy tiền xài, ăn uống, buônhàng về xứ kiếm lời có hơn không?

- Mình bán cho ai bây giờ? Ai có nhiều tiền mua nổi những viên ngọc hiếm có này?

- Ừ nhỉ! Thôi không xuôi về Thủy Khẩu nữa! Tiện đường ta nên vào thẳng Kinh, ở đấy tìm mối bán có tiền dễ dàng hơn.

- Phải đấy. Vào Kinh, chúng cháu chưa về thăm đế đô bao giờ, có nhiềutiền về nơi văn minh xem thiên hạ thị thành khôn ngoan đến mức nào?

Thế là Lão Tam quay xe, hỏi thăm đường về mạn Lâm An thủ phủ. Chính vì hỏi thăm đường nên mới xảy ra chuyện có người đi nhờ xe.

Xe đang chạy ngon trớn, có hai đại hán phi thân đuổi theo, vừa đuổi vừa gọi :

- Cho hai ta đi nhờ xe với!

- Xe của tư sao lại nói đi nhờ! Muốn đi thì phải trả tiền?

Hai người chạy theo sau thở mệt nhọc :

- Ừ, trả tiền thì trả chớ sao? Dừng xe lại cho mặc cả.

Lão Tam ngắm trông hai thanh niên đều hung hăng dữ tợn nghi là kẻ cướpkhông dừng xe, trái lại còn ra roi cho ngựa phóng nhanh hơn.

Nhưng vừa quẹo qua khỏi khúc rẽ đã thấy đám người lố nhố đứng chặn ngang đường khiến xe không chạy được nữa. Xe vừa đỗ những người đứng chờ ùalên xe. Họ dồn hai cậu nhỏ ngồi ép chặt như nhồi bông. Kế đến hai đạihán chạy sau bắt kịp thấy hết chỗ ngồi cũng leo tót lên mui.

Lão Tam hỏi :

- Các ông đi đâu mà lại kéo nhau xâm phạm xe tôi vậy.

Một người trong bọn đáp :

- Xe của cụ bị sung công làm việc nghĩa. Cụ cứ cho chạy thẳng qua đườngtrước mặt rẽ sang đường nhỏ đi về Túc Mễ Cương là tới tổng Đại Nghĩathôn xã Phú Cường.

- Các thầy đến đó để làm gì.

- Thiên hạ nhiễu nhương, triều đình khuyến khích thanh niên tạm gác bútnghiên theo nghiệp đánh đấm. Nước có hùng cường dân có mạnh khỏe thìgiặc Liêu mới không mang binh về xâm phạm đế đô một lần nữa. Gần đâyĐông Cung thái tử thân hành phủ dụ trai tráng trong nước theo nghiệp võđể cùng người gây dựng lại đất nước, cử binh tiểu trừ phỉ loạn. Có mườiông nhà giàu trong hàng Tổng vui lòng bỏ tiền ra chiêu binh mãi mã luyện tập cho chúng tôi trở thành các võ sĩ siêu hạng rồi cử về Lâm An tranhcờ đoạt soái. Nhưng trước khi xuất môn để đấu với người ngoài, mười phúgia còn lập đài tuyển phu cho mười cô ái nữ đẹp như tiên nga, xinh nhưmộng. Vì thế nên hôm nay chúng tôi sung công xe cụ để trực chỉ tuyển phu đài cầu hôn đấy.

Lão Tam nghe rõ câu chuyện cười ha hả :

- Có vậy mà làm lão hết hồn. Lão cứ tưởng các thầy là thuộc phe hắc đạomuốn cướp không xe của lão phu và hai cháu. Như vậy được, lão vui lòngcho xe chạy tới Phú Cường để các thầy thi võ chiếm đoạt người ngọc.

Trên đường đi, nhiều chàng thanh niên các thôn xóm vùng lân cận cũng tấp nập ngựa xe kéo về một phía. Hai ba chàng cưỡi chung một con ngựa, cóchàng cưỡi bò, cưỡi trâu để tới vũ đài.

Trương Bỉnh Nhi ngồi dồn bị ép chặt quá, không nhúc nhích được, nhìn sang hai bên đường thấy vậy thì hỏi :

- Các bậc đàn anh đều là những võ cử xuất sắc, hai chân đâu không phihành tẩu mã mà lại toàn ngồi xe ngựa. Hai con ngựa mà kéo hai chục mạngthì tới nơi ngựa xụm mất.

Một cậu thanh niên râu cá chốt bị hỏi móc họng, cười hì hì đáp :

- Chú còn nhỏ tuổi, biết một mà không biết hai. Các bậc đàn anh đi đấuvõ còn phải để dành hơi sức chứ. Nếu chạy bộ từ nhà đến võ đài thì tớinơi đã long đinh óc thì còn... múa võ lấy vợ đẹp làm sao được?

Trương Bỉnh Nhi nháy mắt với Cung Đình như chia sẻ nỗi niềm, thiện hạ khổ vì phụ nữ chẳng phải chỉ có ông bạn “oắt con”.

Kế đó hỏi tiếp :

- Các đàn anh đi ké một chuyến đến tuyển phu đài thì phải trả xe cho chúng tôi. Tại sao lại nói là sung công làm việc nghĩa?

- Chúng tôi nói sung công là sung công, không có đi ké.

- Em chẳng thấy tinh thần thượng võ của các anh ở chỗ nào? Y đông hiếpcô lại chiếm đoạt của người một cách ngang xương mà lại nói làm việcnghĩa, em chẳng biết ra sao cả?

Thanh niên có đôi mắt ti hí giải thích :

- Thì ta đã nói em còn nhỏ tuổi quá mà! Chưa hiểu việc đời chi hết. Bâygiờ, chúng ta còn sung sức, khí lực dồi dào có thể bạt sơn cử đỉnh màkhông thể cuốc bộ thì đến chiều, sau khi đã đấm đá liên hồi để đoạt mỹnhân, thằng nào cũng toạc máu đầu, u trán, gãy giò, què tay. Nếu khôngcó xe đưa về nhà... Thì biết làm sao? Xe của cụ và các cháu lúc bấy giờmới tế độ chở giùm cả lũ chúng ta về nhà thì chẳng phải là làm việc đạinghĩa nhất đời đó sao? Chúng ta vì nghĩa lớn đất nước phải hy sinh mangthân đi chịu chưởng thì xe của cụ và các em cũng vì nghĩa nhỏ chịu phépsung công một ngày chở chúng ta về. Như vậy không hợp lệ quỷ thần trờiđất hay sao?

Lão Tam ngồi ngoài nghe vậy cũng mủi lòng :

- Như vậy tội nghiệp các thầy quá nhỉ? Nhưng trong trường hợp xe tới phú Cường, lão phải có việc riêng tư như đi mua sắm chút quần áo giày vớcho cháu nhỏ thì cứ tự tiện lấy xe đi, có phải hỏi các thầy không?

- Không thể được. Đã bị sung công thì lẽ tất nhiên không còn quyền tự do dùng xe mà phải hỏi bọn chúng ta?

- Nếu không chịu thì sao?

- Ông cụ này kém thông minh quá. Xe tới võ trường thì thuộc quyền của con nhà võ. Vi lệnh sẽ bị đòn và mất xe luôn.

- Sao lại võ đoán như vậy?

- Cụ trông kia kìa, cụ tưởng những trâu bò, lừa ngựa kia là của riêng tư cả sao? Toàn sinh vật “ủng hộ” đấy.

Lão Tam nghe vậy tức giận không chịu nổi :

- Thế thì lão phu này cũng phải xin học võ mất?

Cả bọn nhao nhao :

- Hoan hô. Thế thì còn gì bằng. Hoan hô tinh thần thượng võ của ông cụphu xe. Cụ mà ở lại chịu học võ, đấu võ với chúng tôi thì không ai cóquyền sung công xe cụ nữa.

Trương Bỉnh Nhi vội hỏi :

- Thúc phụ ơi. Thúc phụ muốn học võ thiệt ư? Cho cháu học với.

Cung Đình từ nãy ngồi yên, có lẽ sực nhớ trước đây mình là võ sư vào hạng “tổ sư” liền hỏi :

- Anh Trương Bỉnh Nhi mục đích của anh học võ để làm gì?

- Để đánh những thằng chơi cha, thích đi xe “cọp” một trận nhừ tử.

Lão Tam nghe thấy rõ còn giả bộ chưa nghe rõ :

- Cháu nói sao? Học võ giỏi để đánh chết cọp, hãy đánh những thằng đi xe “cọp”, ăn “cọp”, xem hát?

Đồng thời cụ cho xe ì ạch chạy vô những ổ gà lồi lõm để mọi người xônhau kêu chí chóe. Nhưng kẻ lớn tiếng nhất vẫn là cậu nhỏ Trương.

- Úi chao? Gãy hai rẻ sườn cụt rồi.

- Ối, Đè bẹp bọng đái tôi rồi.

Cỗ xe đầy tiếng chí chóe pha lẫn tiếng cười, tiếng chửi thề chẳng mấy lúc đã đến cổng thôn xã.

Nghĩa binh ăn vận mỗi người một kiểu, giáo mác cái dài cái ngắn, ậm ọequát tháo tưởng như thiên binh vạn mã cũng khó lọt qua khu chiến.

Đám thanh niên, tráng niên, đại hán, võ sinh chen vai thích cánh nhập võ trường để xem mặt các mỹ nhân ở tuyển phu đài. Anh nào cũng hăm hở nhuệ khí ngút trời xanh, phen này mình không đại thắng đả lôi đài, lấy vợđẹp còn ai đánh nổi mình nữa?

Lão Tam ngoài việc chăm lo hai ngựa ăn uống, tháo yên cương, còn ngụytrang cất giấu tiền bạc vào chỗ kín đáo nhất. Cất giấu tiền trong đáybao thóc, bị cỏ thì có trời mà biết. Nhưng lão ta không dám dời xe lấymột bước.

Có nhiều tiền như vậy mà lão vẫn bòn sẻn, chi tiền cho hai cậu nhỏ quàbánh rất ít. Trương Bỉnh Nhi phải kề phai nhắc lại lời của Lý Cẩm tiênsinh ân cần nhờ săn sóc Cung Đình thì lão mới chịu xì tiền ra đủ tiềnđồng để mùa lấy một con gà sống và gạo, làm cơm luộc thịt lấy mà ăn vớinhau.

Hai cậu nhỏ ăn uống xông xuôi, mặc lão Tam nằm ngủ trên xe trong khuchuồng trâu, bò lừa, ngựa để tới chiều chuyên chở các sĩ tử thí võ vềnhà họ ở bên kia đồi Túc Mã.

Một số đông thân nhân các thầy, hình như đã có kinh nghiệm sẵn nên người thì lo giã thuốc dán, thuốc rịt, thuốc cầm máu, thuốc bóp tan đòn,người cắt một số vải để chờ băng bó vết thương. Hai cậu nhỏ len lỏi vàochỗ nào cũng lọt. Mười cô gái của mười ông cự phú thật là xinh, cô nàocũng xiêm áo lụa là gấm góc, trang điểm như tiên giáng trần. Vì vậy,mười lôi đài được lập ra không lúc nào là ngớt khách đăng ký để tỷ thí.

Nhưng hết thảy đều là những đấu thủ hạng bét, chưa cặp nào dám đấu daogăm, chỉ quần thảo quyền cước, nhiều khi ôm nhau vật lộn sái cả luật võđài, dùng cả móng tay cào cấu và răng miệng cắn đớp như... khuyển bốnchân.

Tuy vậy không phải là cuộc đấu kém phần ác liệt. Trái lại họ đánh nhau rất dữ dội, quyết liệt không có chút nhân nhượng.

Có một cặp đấu chưởng dữ dội đến nỗi quần áo bị cào xé rách tan như bươm bướm, khiến hai cao thủ trần truồng như nhộng trên võ đài mà vẫn sayđòn chưa chịu buông nhau ra.

Phụ nữ đi xem mắc cỡ ùa chạy tứ tán. Phải thỉnh mời vị đài chủ thân hành ra gỡ mới lôi được hai cao thủ nhét vô trong bao bố khiêng đi. CungĐình cảm thấy nghề võ của mình đã đi đến ngày phát triển “mạt lộ”, thựclà vô cùng mỉa mai. Nhưng giả sử Cung Đình có leo lên võ đài thì có lẽcòn bị thảm bại nhanh chóng hơn ai hết.

Bởi vì chân tay cậu nhỏ lèo khèo, không còn chút khí lực nội ngoại công phu như xưa.

Còn Trương Bỉnh Nhi, tuy đầu óc ranh mãnh tinh khôn, nhưng đâu có sứcmạnh mà đánh đấm một ai. Tốt hơn hết là hai cậu nhỏ về xe nằm nghỉ nhưLão Tam, còn khỏe khoắn thân xác hơn.

Không phải chờ tới chiều nghĩa là đến lúc lôi đài mãn cuộc giao đấutrong ngày, hầu hết các thanh niên đi nhờ xe đã tề tựu đủ mặt. Cậu nàocũng mặt mĩu thâm tím sưng vều. Có người phải băng đầu, cột ghép taychân vào các mảnh ván nhỏ vì nếu không sai khớp trật gân thì cũng bị nội thương đau đớn.

Họ không thể tự mình đi đứng như buổi sáng sớm, phải nhờ người bế xốc hoặc đỡ vịn thì mới lần bước đặng.

Tình trạng thật là bi đát! Thảm thương thay! Đúng là một nhóm đấu sĩ quá ư là hăng hái, không biết tự lượng sức mình, đã khập khiễng trở về vớimùi chiến bại sâu đậm.

Lão Tam và hai cậu nhỏ động lòng thương hại không mắng nhiếc họ nữa.Trái lại, sẵn sàng giúp đỡ mọi người hoặc ngồi, hoặc nằm trên xe. Cóngười kêu đói mệt, lại phải sẵn hút gạo muối còn lại nấu cho họ ít tôcháo ăn trước khi lên đường.

- Ối giời ôi. Nó “độc” quá, đấm tôi trúng mạng mỡ đau quá.

- Đú họ con bà nó! Nó kéo cẳng mình ngã trật mắt cá.

- Nó đánh lối chặt xương ống chân, có lẽ tao dập xương mất.

- Còn mày có nước non gì không?

- Co ta cứ liếc mắt nhìn theo ban nụ cười nên tao sảy miếng, bị nó vặntay, trật xương quai xanh rồi. Đau nhức quá! Đau nhức quá! Trời ơi,không chịu nổi.

- Mỹ nương ôi! Nàng đẹp quá, nhưng nó đá tao vỡ bàng quang mất, khó sống lắm.

Cung Đình nghe bọn thanh niên rên la, chính cậu nhỏ cũng tự nhiên phải bật cười. Nghĩ bụng không lẽ đến lượt mình than vãn :

- Song Trâm nữ hiệp nàng ôi! Vì nàng mà tôi trẻ lại hơn ba bốn chục năm. Đương là Giang Nam đại kiếm khách, danh tiếng một thời mà bây giờ tróicon gà không chặt.

Lòng thương người đã khiến Lão Tam và hai cậu nhỏ bị vất vả cả buổi ngày hôm đó. Phải đưa xe từng người về tận cổng nhà cho thân nhân tiếp nhậnlo điều trị.

Đại hán về sau cùng lại là anh chàng bị thương nặng nhất, đá trúng bọngđái mang nội thương nhất. Hắn ta là con ông lang chữa bệnh trong vùng.Nhà cửa túng thiếu, mẹ và vợ kêu khóc quá trời :

- Ai bảo đã có vợ lại còn ham, danh tiếng giỏi võ phá lôi đài chẳng thấy đâu. Bây giờ về nằm liệt giường liệt chiếu, sống chết mệnh hệ ra sao?Đồng ruộng trên đồi không có nhân công trai tráng làm việc bị khô cạncả, hơi sức để vào làm lụng thì không lo, suốt ngày hò hét đấm đá tậpluyện cuối cùng mang cái khổ vào thân phiền lụy cho gia đình.

Ông thầy già vội ra chẩn mạch cho con. Ông ta bênh vực cho người con trai :

- Thời buổi này không theo nghề học võ không được. Giặc cướp lộng hành,mất an ninh thì cũng chẳng làm ăn cày bừa gì được. Dạo này trời ít muakhông người “đạp nước” tưới cây thì ruộng vườn trên đồi hỏng hết mấtthôi.

Xem chừng ông thầy thuốc già cũng chẳng giỏi về y học, cứ loay hoay không biết chạy chữa cách nào?

Ngoài sân trời bắt đầu tối mịt, bọn Lão Tam chán quá đã mấy lần toanđứng dậy bỏ đi nhưng bà cụ níu kéo lại ngồi chờ nấu nước pha trà đãikhách.

Ông lang già cởi hết quần áo người bị đả thương, Cung Đình hai tay chắpsau lưng đứng nhìn như cậu Trương Bỉnh Nhi. Bỗng nhiên, hai mắt CungĐình trông thấy rõ các đường gân máu nổi lên khắp người kẻ bị nạn, cáchuyệt đạo trông thấy hết. Máu ứ đọng tại bụng dưới, Cung Đình đặt ngóntay lên chỗ tím bầm, xoa nắn dồn máu tan đi và điểm huyệt kích thíchxung quanh. Tức thời đại hán thấy dễ chịu hết kêu la, đầu ngón tay CungĐình như cục than hồng truyền hơi nóng sang chỗ bị đau.

Huyết mạch chuyển đổi trở lại nhịp bình thường làm ông lang già rất đỗi ngạc nhiên xem như bàn tay cậu nhỏ có phép lạ.

Cung Đình nhìn thấy tủ thuốc, lại gần mở hết mọi ngăn ô kéo. Trí nhớphục hồi, Cung Đình thò tay dúm mỗi ngăn mỗi vị thuốc, không cần phảicân nặng nhẹ hơn một thầy lang lành nghề, đặc biệt là có mấy vị cần tánnhuyễn, Cung Đình chỉ cần khẽ bóp bàn tay là hóa dược thành bột.

Bốc xong thang thuốc, không cần kê đơn hoàn toán gì cả làm ông thầythuốc già bở vía. Xem ra bài thuốc rất phân minh, quân thần tá sứ, vịnào ra vị nấy không sai một phân lạng nhỏ.

- Tiểu đồ bốc thang thuốc này, lão bối có nghi ngại mở sách Nội thương trị liệu của Thái y họ Hiển mà coi, tra cứu lại xem.

Lão Tam nghe nói vậy cũng cẩn thận phụ thêm :

- Tiên sinh xem lại cho kỹ kẻo thằng nhỏ này nó lỡ tay hốt thuốc lầm. Y dược lầm lẫn là chết. Cụ đừng tin nó làm chi.

Nhưng thiệt tình ông thầy thuốc già đã tin phục vào tài nghệ thần diệucủa cậu nhỏ. Ông bỏ luôn thang thuốc vào siêu đất, sai người đem chưng.

Mặt khác, ông sai người nhà mau làm cơm để tạ ơn cứu nguy cho con trai ông. Lão Tam căn dặn :

- Này tôi nói trước, tôi không đảm bảo thang thuốc đó đâu? Theo tôi nêndùng thuốc dòn thoa bóp bên ngoài đỡ nguy hơn. Nói dại, hễ uống thuốc đó có sao thì tôi và thằng cháu tôi không chịu trách nhiệm. Xin nói rõtrước, đừng có bắt đền lôi thôi.

Ông thầy thuốc già cười đáp :

- Các vị đều là kỳ nhân cứ thử lòng lão phu làm gì? Nếu không được lệnhtôn ấn huyệt thì bây giờ thằng nhỏ nhà lão đã là cái thây ma rồi. Mạchđã tán loạn, khí sắp tuyệt mà lại hồi lại, cả đời lão phu chưa hề gặpphép cải tử hoàn sinh kỳ lạ ngay trước mặt như thế này bao giờ cả.

Lão Tam không tin, chỉ cho là ông thầy thuốc quá thương cảm nên quẫntrí. Cơm nước bày ra thịnh soạn. Ông thầy thuốc ngồi tiếp khách.

Ăn xong, mọi người đi nghỉ, Lão Tam vẫn thấy bồn chồn. Chừng tới khithấy đại hán uống thang thuốc do Cung Đình bốc, không có phản ứng nguykịch, ngủ yên mới thở đến phào một cái yên chí ngủ khì.

Cung Đình không ngủ, cậu ta lang thang ra phía đồi, Trương Bỉnh Nhi theo sau, hai cậu đi bên nhau mà không nói nửa câu.

Cõ lẽ vì Cung Đình đang bận tâm ngẫm nghĩ tại sao nội lực và trí nhớ, từ sau lúc bước ra khỏi đạo quan, gặp ánh nắng thái dương cứ hồi phục dần. Càng về đêm, yên tĩnh không ngủ như đêm nay thấy trong người có phầnkhác lạ hơn trước.

Đi tới cạnh bánh xe lớn bằng gỗ, có mắc các gầu tát nước dưới vực chochảy lên máng nước tưới cho vườn ruộng trên cao, Cung Đình đứng dừnglại.

Cây cối ruộng lúa trên đối tươi tốt là thường đúng với hai chữ “Túc Mê”, nhưng phải có đủ nước tưới thì mới được nuôi dưỡng. Giống thảo mộcthiếu nước là suy kém ngay.

Cung Đình chỉ cho cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi xem vực chứa nước ở dưới và nói rằng :

- Nếu biết chặn chỗ lạch này thì mực nước sẽ dâng cao lên đạp nước quay, gầu nào cũng đầy ắp nước. Nhưng đạp bánh xe cho quay mỏi chân lắm. Anhcó muốn học phép phi hành tẩu mã không?

- Phi hành tẩu mã là thế nào?

- Anh nói mà không hiểu nghĩa, tức là phép chạy nhanh như ngựa phi.

- Người làm sao chạy nhanh bằng ngựa thế nào được?

- Anh lên trên kia, hai tay vịn vào xà ngang chân đạp cho bánh xe quay. Hễ đạp nước cả đêm nay, mai chạy nhanh như ngựa phi.

- Thực hả?

- Nói dối anh làm chi? Nhưng đưa bàn chân ra đây cho tôi vận khí điểmhuyệt đã. Ấn cái huyệt Phong Thị này, Tam Túc Lý này, Tam Keo này...

Cứ mỗi lần gọi tên huyệt, Cung Đình lại dí đầu ngón tay vào chân cậu nhỏ họ Trương làm cậu nhảy nhảy cà tưng như con choi choi miệng la :

- Ối buốt quá! Ối nóng quá như điện giật.

Nhưng tức khắc, Trương Bỉnh Nhi cảm thấy buồn chân buồn cẳng đứng mộtchỗ không yên, chỉ muốn chạy nhảy hay đạp nhằm vật chi thì mới đỡ tứctrong cặp giò. Nên khi bảo leo lên đạp nước, đạp cho bánh xe quay cậulàm liền, thấy dễ chịu là thường. Bánh xe quay trước chậm, sau có trớncàng ngày càng nhanh làm nước đổ ào ào xuống máng như nước lũ.

Cung Đình đứng bên này bờ vực, lấy ngón tay trỏ cây cổ thụ làm cây nàynhư bị thớt voi húc đổ, từ từ ngã xuống nằm chặn con lạch. Nước chảy bị ứ đọng lại, mực nước lên cào cho con nước càng xoay và múc nhiều nước.

Cung Đình ngồi xếp bằng tròn tĩnh tọa trên bờ, nghiền ngẫm lý do tại sao thân thế sự nghiệp của mình lại biến đổi từ lưng voi xuống lưng chó như vậy.

Thoạt tiên Cung Đình rất tự hào vì đã thắng được thời gian, xóa bỏ những nếp nhăn của ngày tháng trên bộ mặt xí trai của mình. Không một ai dámbảo mình đã thuộc loại lão niên. Hắn đã biến thành một cậu bé vị thànhniên quá trẻ để nhận tất cả mọi sự khinh thường, đặt ra ngoài vòng đứngđắn của cuộc đời.

Bây giờ người ta nhìn mặt non choẹt của Cung Đình và gọi hắn là đồ trẻ nít.

Võ công tiêu tán, vị Giang Nam kiếm khách không còn đủ năng lực để chechở một ai. Trái lại phải nhờ người che chở mình. Nếu không có nhómngười Thiết Như Hoa đến đạo quan lập kế đuổi con mụ già Câu Hồn giáo chủ thì chắc chắn mụ ma đầu đã thủ tiêu Cung Đình rồi.

Bao năm công phu luyện tập thành một tay kiếm hiệp đại tài để làm gì? Chẳng làm nên trò trống gì cả.

Nghĩ đến mối tình yêu tha thiết sư tỷ Song Trâm tức là vô cùng lãng xẹt. Người ta đã có chồng có con, mình hành động rõ ràng là tuồng trẻ nít.Vừa trái với đạo lý, vừa tốn công vô ích, đuổi theo một giấc mộng khôngbao giờ thành hiện thực. Và dù có được kết duyên với Song Trâm nữ hiệp,kết cục cũng chi là một kẻ đến sau, vồ trăng dưới nước? Tình yêu, tìnhhết, hận thù, tự ái, được một sự khoái ý, ôm một thất vọng sâu cay, vuiđược một lúc, hạn ngàn đời... Tất cả chỉ là bóng mây chiều theo gió cuốn trôi về phía chân trời xa thẳm.

Bánh xe nước quay, tiếng nước chảy vô máng nước ào ào, Trương Bỉnh Nhira sức đạp nước. Xét ra cậu nhỏ đó đương làm một việc hữu ích cho nhữngruộng nương sắp khô héo trên đồi.

Dòng nước chảy trong bóng đêm đã đem lại hy vọng, nguồn nước vui cho gia đình ông lang già, sớm mai thấy nước đầy ruộng lúa vườn cây cũng sungsướng.

Nếu bánh xe quay đều, nhanh liên tiếp trong vài đêm thì tất cả dân trong xóm cũng vui mừng.

Thiên hạ vui mừng, mình làm cho thiên hạ vui mừng. Có nguồn vui đó làchân lý của hạnh phúc. Đem lại nguồn sống cho mọi người đó là mục đíchcủa dân an lạc.

Nhưng con người vốn sinh ra đã có tính ích kỷ. Bao giờ cũng nghĩ chomình trước tiên. Mình sướng, còn kẻ khác khổ mặc ai. Đấy là chưa nói cókẻ khoái chí khi thấy kẻ khác bị hành hạ, đau khổ còn mình thoát được sự hành hạ đau khổ đó.

Cho nên biết bao nhiêu kẻ, cậy có chút võ công, tài nghệ, đánh giếtngười này, chém giết người kia theo sở thích dọc ngang trời đất, đại náo giang hồ của riêng mình, như vậy là tranh đấu, là đáng sống trong cuộcsống hữu lý.

Cung Đình đã thuộc hạng đó.

Đêm nay, lặng lẽ bên lạch nước, thơ thẩn trên đồi khuya, Cung Đình đã ôn nhớ lại trong ký ức. Bất giác, hắn kêu lớn :

- Thật là vô lý, vô lý hết sức. Đời chẳng là cái gì cả. Tất cả chỉ là huyền ảo.

Chả trách, những kẻ đã quá am hiểu cuộc đời trầm bổng, đều muốn xa lánhsự hỗn độn của cuộc sống cuồng nhiệt, náo động, cấu xé tàn nhẫn, đầy lừa dối, cạm bẫy, bỉ ổi và xấu xa.

Hai chân cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi đâu phải là máy, đạp bánh xe chuyển vận những gầu nước nặng nên không lâu bị đọng máu sưng vù lên như hai chânvoi, gân cốt đau ê ẩm...

Trương Bỉnh Nhi định ngừng đạp và leo xuống ngồi nghỉ. Cung Đình đã kêu lớn và chạy vội tới đứng bên :

- Nè, đừng có ngưng, ngưng thì què, hỏng hai cặp giò đó.

Trương Bỉnh Nhi nhăn nhó nói :

- Sao vậy, đau và mệt quá rồi.

- Đạp nữa đi. Cố gắng lên. Muốn giỏi vỏ thì phải nghe lời tớ. Có đau có mỏi để tớ bóp nắn huyệt mạch cho.

Nói rồi, Cung Đình cúi xuống dùng hai tay truyền nội lực vào hai ốngchân bạn nhỏ, hai tay xoa nắn các huyệt đạo. Trương Bỉnh Nhi cảm thấyhai tay Cung Đình như có điện lực, sờ tới đâu, chỗ đó nóng rần rật, baonhiêu đau nhức tức thời tan biến hết.

- Đạp mau lên. Cố gắng lên. Học võ phải tin tưởng, có nhiệt tâm khôngnao núng trước mọi khó khăn, thử thách lúc ban đầu. Sau dần quen đi. Cótớ giúp cho, sẽ tinh tiến nhanh chóng bội phần. Bây giờ còn đau nhức nữa không?

Trương Bỉnh Nhi lau mồ hôi trả lời :

- Chân không thấy nặng nữa rồi, không còn nhức nhối nữa, nhẹ nhõm rồi. Hai bàn tay của đằng ấy sao mà nóng như lửa vậy?

Cung Đình truyền tiếp nội lực đáp :

- Giữ nhịp thở cho đều, chân này đạp xuống, chân kia co lên nhịp nhàng, không hấp tấp. Được rồi, anh thích giỏi võ để làm gì?

- Tại sao bồ lại hỏi vậy?

- Thì bồ cứ thành thật trả lời đi. Học võ để lên tuyển phu đài chi gái đẹp phải không?

- Không, không, mục đích của tớ không phải như vậy.

- Để làm giàu phải không? Để cậy sức mạnh hiếp đáp kẻ yếu phải không?

- Không, không. Muốn làm giàu nhiều tiền thì theo nghề thương mại, buônbán. Thúc phụ ta vẫn bảo “phi thương bất phú” mà. Tớ ghét những thằng ỷthế lực hiếp yếu lắm. Mình học võ giỏi để bênh vực kẻ yếu, đánh những kẻ ngang ngược, làm hại mọi người. Học võ để trở nên một tay kiếm kháchdiệt bạo trừ hung chứ còn để làm gì?

- Bồ nói nghe được lắm. Khi xưa tôi học võ, tôi không có nghĩ đàng hoàng như bồ. Tôi nghĩ học võ là để thủ lợi riêng cho mình. Vì thế cho nênngày nay bị quả báo.

- “Quả báo” là cái gì?

- “Quả báo” tức là chẳng được lợi lộc gì cho thân mình? Trái lại suýtnữa lại không gập hai chú cháu nhà anh cơ duyên đưa ta đến bánh xe đạpnước này, tuy không ngồi quay mặt vô trong tường diện bích. Tự mình xemxét lại thì bao nhiêu công phu tu luyện Âm Dương Đồng Tử Kiếm đi đời nhà ma, mất hết không còn một chút nào nữa. Đi theo nghiệp võ đúng đườnglối thì “sinh uy nghi, tử vi thần”, khí phách hiên ngang không bao giờyếu hèn. Nếu tâm tư sai lệch, sống thêm ương hèn, chết cũng nhuốc nhơ,đáng buồn lắm.

Hai cậu nhỏ thủ thỉ nói chuyện với nhau. Đêm dài qua lúc nào không hay.

Chừng tới khí gà gáy ra trên xóm, phương đông bình mình đỏ ối, ruộng màu được nước, cây cỏ tốt tươi. Hai cậu đưa nhau trở về nhà ông lang già.

Cung Đình cõng Trương Bỉnh Nhi, cậu này ngủ gục trên vai bạn.

Lẽ tất nhiên, công việc hai cậu làm ban đêm có lợi ích thiết thực chogia đình này nên ông lang xiết bao cảm kích, người trong nhà chiều đãiLão Tam và hai cậu nhỏ như bậc khách quý, cơm gà cá giỏi tươm tất.

Ông lang gì bốc thang thuốc đại bổ bồi dưỡng khí lực cho cậu nhỏ TrươngBỉnh Nhi uống, ngoài ra lại còn đấm bóp hai cẳng chân bằng rượu dãnhuyết. Người con trai chủ nhà bệnh tình khuyên giảm lần lần.

Hai cậu nhỏ, ngày nghỉ ngơi ngủ giấc ngon lành, nhưng đến tối đêm, lạira những nơi đặt các bánh xe tát nước làm việc cần mẫn luôn bảy đêmliền, khắp vùng cây cỏ đột nhiên xanh um, kết quả nảy mầm, hoa lợi hứahẹn bội thu trước sự ngạc nhiên cả xóm trên lẫn xóm dưới.

Người nào ra thăm ruộng vườn cũng lấy làm ngạc nhiên, thấy nước tràn trề sung mãn nhất từ trước tới nay chưa từng có vậy. So sánh với những khuvực trồng tỉa của một vài thôn khác, cảnh tượng khác hẳn vì lá đã bịvàng khô, héo úa, sự mất mùa trông thấy rõ ràng.

Họ không hiểu ông lang già và những người trong xóm ông ta đã có bíquyết gì mà lại được ruộng vườn phì nhiêu như vậy. Ở làng họ ban ngày họ cũng ra tát nước, trời nắng gắt, nước múc trong gầu chẳng được là bao,đạp nước độ vài giờ đã mệt ứ hơi. Nước tát lên chỉ đủ thấm mặt đất khôhút hết, chẳng đủ dẫn đi ra tưới cây. Thực là thất vọng buồn rầu hếtsức.

Trong làng có vài trai tráng thì lại tụ tập đi học võ, công phu võ luyện tiến bộ chẳng thấy mang được gì tốt đẹp về cho thôn xóm, chỉ thấy bịtoạc đầu, bể trán, gãy tay, què giò, mang cái thân bệnh hoạn về nằm dàiăn báo cô.

Chính vì sự trái ngược đó, Cung Đình tôn sư thấy trước tiên nên đêm đêmhai người lại lần ra khu đồi tiếp tục dẫn thủy nhập điền giúp dân trongvùng. Trương Bỉnh Nhi nhờ có Cung Đình giúp đỡ chỉ điểm nên sau khi dẫnnước đầy hồ là lại leo tót lên cao, hai chân đạp bánh xe ào ào như giócuốn. Đôi bắp chân cậu nhỏ luyện được sức mạnh phi thường mà chính cậucũng không ngờ tới.

Trương Bỉnh Nhi luyện võ một cách hữu ích như vậy. Hễ đạp mỏi chân, Cung Đình lại đến dạy cho phép xoa nắn các huyệt đạo để máu khỏi ứ đọng gâncốt bền bỉ, dẻo dai.

Cung Đình vừa chuyển tiếp nội lực vừa nói :

- Từ nay, ban ngày nếu có việc gì nguy cấp bồ cõng tớ chạy trốn chắc không ai đuổi kịp hết.

- Chạy một mình thì nhanh chứ cõng bồ thì nặng thấy mồ, chạy sao được.

- Nói rỡn bồ sao? Ở nhà ông lang củi đốt bếp, tớ cột lại thành những bócủi lớn để bồ vác về nhà rồi lại chạy ra đây. Bồ thử làm thế xem có chạy nhanh không?

Trương Bỉnh Nhi không tin, nhưng cũng bằng lòng vác bó củi lớn lên vaichạy tuốt về nhà. Bó củi nặng trĩu làm cậu khom lưng xuống, cậu rảo cẳng chạy thực nhanh chỉ thoáng một cái là đã về tới nhà, đặt củi xuống bếprồi chạy trở lại chỗ Cung Đình đứng chờ.

Trương Bỉnh Nhi thoạt tiên tưởng chỉ có vài bó củi khô nên cố gắng vácvề cho chóng hết. Không biết Cung Đình làm cách nào mà chẻ và cột nhữngôm củi vừa lớn lại vừa nặng kinh khủng. Thì ra hắn ta đã chặt nhỏ câyđại thụ hôm trước đổ ngang trên lạch nước lại thành từng khúc, rồi bổthành những thanh củi nặng, cột lại cho bạn nhỏ đem về tiếp tế gia đìnhông lang già.

Chỉ khổ cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi lại nai sức ra làm thân “trâu ngựa” một đêm ròng.

Qua sáng hôm sau, cả nhà ông lang lại một phen kinh ngạc, chỗ củi đun bếp đó chia cho cả xóm đun nấu nhiều ngày cũng không hết.

Tối sau hai cậu nhỏ lại thủ thỉ với nhau, Cung Đình vừa nắn đầu và bả vai Trương Bỉnh Nhi vừa nói rằng :

- Cặp giò của bồ khá lắm, dùng được việc rồi, nhưng đầu và hai tay còn yếu quá.

- Thôi tối nay đừng bắt tôi làm việc nữa. Tôi vác củi cả đêm qua gần gãy xương rồi. Hôm nay xin dừng lại.

- Tập võ phải chuyên cần. Nếu dừng lại là bao nhiêu công phu hấp thụđược sẽ tiêu tán mất. Bồ có biết tại sao tôi chỉ chuyên luyện cho bồsong cước đặc biệt không?

- Không có biết!

- Bồ không nhớ những thằng chả đi nhờ xe mình hôm nọ? Thằng nào cũng bahoa chích chòe, tự khoe là con nhà võ đi dự tuyển phu đài, nhưng đôi bàn chân thằng nào cũng không “chấm đất”, cật chẳng đến trời. Nói đến đi bộ thì sợ bỏ bà. Võ giỏi hay không là ở bộ pháp, căn bản vững vàng, về sau càng luyện tập càng tăng tiến. Nhớ hồi mấy chục năm trước, lúc mới khởi sự bái sư, tớ mập ú như cối xay, bụng phệ, mặt phị đầy trệ khí, đi bộnửa dặm đường thì thở như bể lò rèn. Bồ có biết ông thầy bắt phải làmviệc gì trước tiên không?

- Không có biết!

Cung Đình liền kể chuyện ông chạy thuốc chữa bệnh một người bị bệnh khóthở cho nghe. Ông thầy biết con bệnh cậy nhà cửa có của lười biếng không chịu năng hoạt động thân thể, làm việc chân tay. Có việc chân tay việcgì cũng sai đầy tớ hầu hạ, nên thở ì ạch như kéo gỗ lúc nào cũng kêunhức đầu, áp huyết, đau tim, nghẹt thở sắp chết đến nơi.

Con bệnh lạy lục thế nào thầy cũng từ chối không chữa, sau van xin khẩnkhoản quá đỗi, thầy mới ra điều kiện là con bệnh phải tự mình đội thúngđựng những củ hành tươi, thiệt bự đến biếu thầy thì mới nhận chữa bệnh.

Nhà xa nhưng muốn khỏi bệnh, người bệnh ráng đội thúng hành từ nhà mìnhđến nhà thầy thuốc. Nhưng lần nào lễ mễ đội hành mang đến, ông thầy cũng kiếm cớ chê bai là hành chọn không đều, củ lớn củ nhỏ, lá úa khôngxanh, đứt rẽ, không nõn, không sạch. Sau nhiều ngày, bệnh nhân năm lầnbảy lượt đi tới đi lui cho tới khi ông thầy nhận mới thôi.

Nhưng lúc ông thầy nhân thúng hành tươi khen là hành tươi, hành tốt, cụbự, lá xanh rễ dài thân nõn thì bệnh nhân đã thở điều hòa, hết nhức đầuchóng mặt, tìm đập đều đặn rồi.

Ông thầy bảo: Khỏi bệnh rồi, trệ khí đã tan đúng với sách dạy “Thiên hành kiện, quân tử tự cường bất tức”.

Trương Bỉnh Nhi nói :

- Em không giỏi Hán tự, chỉ hiểu sơ sơ là mình phải tự cường mới học võđược. Lúc bắt đầu nhập môn sư phụ bồ bắt bồ làm những việc gì?

- Đội thúng dược liệu trên đầu chạy vòng quanh sân, hơi thuốc ngấm từđỉnh đầu theo hơi nước trong người thoát ra, nhập vào châu thân. Tớ chạy liền trong ba tháng trời mới mất cái bụng phệ. Song Trâm sư tỷ cứ chếnhạo tớ là anh chàng đội thúng bánh, đèn cù chạy quanh, làm tớ tức phátkhóc.

- Đội thúng bánh thì hơi hành làm chạy máu khỏi nhức đầu, thông khí, bồđội thúng thuốc thì thuốc nhập trong thân mình bồ bổ sinh lực nội ngoạicông phu. Còn bồ bắt tớ vác củi chạy suốt đêm thì củi khô giúp ích chosự luyện tập võ công của tớ?

- Củi khô chỉ giúp ích cho dân làng có củi đun, bếp nấu cơm thôi chứkhông giúp cho bồ việc chi cả. Việc đội thúng hành chỉ giúp riêng tagiỏi võ. Nhưng việc vác cúi suốt đêm về cho dân xóm giúp mọi người đunnấu hơn là để thân cây nằm ngang lạch nước biến thành củi mục vô ích.

- Bồ nói như ông cụ non!

- Thì tớ đúng là ông cụ non thì tính tuổi có lẽ nhiều tuổi hơn thân phụsinh ra bồ mà lị. Tớ chỉ biết ban đêm thì nội lực mới hồi phục trongngười, ban ngày thì lại thất tán. Vậy nên tớ lo luyện công phu truyềndạy cho bồ một môn võ từ trước đến nay chưa có cao thủ nào sử dụng. Mônvõ này do tớ đột nhiên phát minh ra. Đó là không dùng tay mà chỉ dùnghai chân đánh ngã đối phương. Lâm trận đấu, đối thủ đứng trên hai chân,cứ nhằm hai chân nó mà đánh cho mất thăng bằng sẽ ngã. Bao nhiêu tinhhoa võ học, tớ sẽ dồn xuống hết hai chân của đằng ấy. Thiên hạ kinh sợchưởng phong có thể đánh hộc máu mồm máu miệng. Tớ sẽ luyện cho bồ mộtngọn cước phong có năng lực muốn đá đâu trúng đấy và ở xa, cước phong có thể làm gãy giò đối phương như ta bẻ gãy hai chân gà.

Trương Bỉnh Nhi nghe nói vậy, thích chí cười dòn.

- Nếu vậy thì hễ ở đâu mở cuộc đấu thì tớ sẽ nhập hội để làm túc cầu đại vương hơn là làm võ sĩ đấu quyền. Nhưng trong trường hợp đối thủ giaoước đấu võ cấm dùng chân thì làm thế nào?

- Thì chống hai tay xuống đất, trồng cây chuối ngược, lấy chân thay quyền đạp vào mặt nó, quặp chặt cổ nó.

- Ngộ quá nhỉ? Hai người đấu võ, một người lại cắm đầu xuống đất, chânchổng lên trời đánh đấm bằng chân, hai chân đạp không khí như con choichoi, coi kỳ quá mà. Và ngộ nhỡ phát trung tiện nghe như cóc kêu thì mắc cỡ chết được.

Cung Đình vỗ tay reo lớn :

- Thằng nhỏ thông minh quá ta. Miếng võ phát trung tiện vô mặt đối thủkhiến hắn ngửi mùi thúi, xây xẩm mặt mày thực ra là một chiêu thế có lẽkhông có một bí kíp nào ghi chép cả. Thực là vô cùng độc đáo.

- Nhưng sau khi phát uế phong, ta phải xách quần chạy dài chứ lại làm sao mà tiếp tục cuộc đấu khi đã són ra quần như vậy?

Thế là ngay bắt đầu từ lúc ấy, Cung Đình dạy cho Trương Bỉnh Nhi phépdùng bộ cước. Hắn lấy hai tay đỡ Trương Bỉnh Nhi nhảy uốn khúc, hai tayhai chân chuyển vận thân hình như con sâu đo, đã tả đá hữu rất nhanh vàrất trúng.

Trong tăm tối, hai cậu tập võ rất chăm chỉ, lúc mệt thì lại tìm cây đãkết quả nhảy lên cành cao kiếm quả chín giải khát. Cuốc tập luyện thâuđêm suốt sáng tới khi gà gáy mới về giường ngủ ngáy o o, gọi thế nàocũng không tỉnh giấc.

Lão Tam muốn tới Lâm An bán túi châu ngọc lấy tiền nên không muốn kéodài cuộc ở đậu nhà ông lang già. Dù nhiều lần lão định đánh thức hai cậu nhỏ dậy, không cho ngủ bắt lên đường. Nhưng ông lang già ngăn cản nói :

- Trẻ nhỏ ngủ được là điều rất tốt, cụ không nhận thấy mặt mũi hai cậunhỏ hồng hào, da dẻ tươi nhuận à. Hai cậu giúp đỡ cho gia đình lão nhiều lắm, lão phu không biết lấy gì tạ ơn. Lão đương chờ ngày thằng nhỏ conlão hoàn toàn bình phục đi đứng như thường. Lão sẽ sửa soạn một bữatiệc, mời mọi người trong xóm lại ăn mừng và làm lễ tiễn đưa quí vị lênđường. Nhà lão tuy không giàu, nhưng cũng đủ để ngày ngày mua cơm rượucho cụ. Cụ không có việc chi cấp bách thì xin cụ ở lại thêm vài bữa.

Lão Tam nghĩ bụng, ăn ở không mất tiền, ngày nào cũng thấy món ăn hậuhĩ, rượu ngon, thịt béo đàng hoàng nên cũng không nóng nẩy ra đi làm chi cho uổng.

Thời gian ở nán lại đủ để giúp cho Trương Bỉnh Nhi luyện được bộ cước.Thay vì đá ngọn Uyên Ương cước cậu nhỏ có thể phi thân đã tới tấp lụcthất bát liên tiếp bàn chân và mặt địch thủ, tài nhảy cao chạy nhanh của cậu nhỏ cũng hiếm có.

Tới hẹn, ông lang mở tiệc, dân xóm được mới và biết rõ mục đích, họ vuimừng, kẻ ít người nhiều mang lễ vật tới để chung vui. Họ chăng cờ kếthoa, xúm nhau lại bày bàn làm cỗ.

Nhóm thanh niên cũng kéo nhau đến ăn uống. Họ khen nịnh lão Tam hết lời :

- Trưởng lão đại hồng phúc, có hai vị thần đồng này sẽ sung sướng mộtđời, hai vị có nhiều tài lạ, sau này sẽ ra giúp nước, lo gì trưởng lãochẳng sớm mặc phẩm phục triều đình đóng vai cụ cố, muôn họ được nhờ.

Thanh niên khỏi bệnh cũng chắp tay vái tạ Cung Đình đã cứu mạng. Nhiềungười có tuổi tác nhấn mạnh ở việc “dẫn thủy nhập điền” đã đem lại chodân làng một lượng ngũ cốc đáng kể.

Nhưng hai cậu nhỏ đều khiêm tốn đáp lễ, cuộc vui kéo dài suốt ngày, rượu vào lời ra, bàn nào cũng om sòm ầm ĩ. Theo tục lệ, no say lăn kềnh rangủ, ngủ dậy tỉnh rượu lại cùng nhau chén chú chén anh liên hoan vô tận.

Nhờ có bữa ăn đấy, Cung Đình và Trương Bỉnh Nhi mới biết được làng nàychỉ là một làng nghèo nhất. Hoài vọng của trai làng mong lấy được congái nhà giàu để mang lại thịnh vượng cho thôn xóm đã tan vỡ. Kết quả chỉ mang lại cho con trai ông lang già suýt bỏ mạng, nửa tá bị gãy tay quègiò, có người chịu tật nguyền suốt đời.

- Tuyển phu đài vẫn còn đấu, như ích lợi gì cho thanh niên cả tổng.

Ý kiến khởi thủy nghe rất hay, nhưng thi hành kết quả lại khốc hại.Không làm tăng gia tinh thần ái quốc của đám trai tráng lại đã dẫn dắthọ vào con đường mê sắc hại thân, suy giảm tiềm năng sinh sống của thônxóm. Đấy là chưa kể kẻ xấu bụng sẽ rắp tâm trả thù, thanh niên làng nọhờn oán thanh niên làng kia.

Cung Đình nghĩ thầm, có lẽ ta phải tìm cách triệt hạ những đám võ đàilàm ô nhục nghề võ này. Nhưng bằng cách nào? Giả sử nếu ta cũng có sinhlực dũng mãnh như lúc ban đêm thì còn nói gì?

Bỗng nghe từ ngoài cổng, có người gọi đích danh con trai ông lang già :

- Có ai họ Châu tên Tru không? Xin ra nghênh tiếp Phẩm tiểu thư.

Chàng đại hán bị đá trúng bàng quang suýt toi mạng mấy tuần trước đúnglà Châu Tru con ông thấy thuốc họ Châu, nghe nói đến tên tiểu thư taychân luýnh quýnh, đánh rớt cả đũa, buông bát chạy ra cổng kêu lớn :

- Dạ, có tôi!

Mọi người đương ăn uống, xì xào hỏi nhau :

- Phẩm tiểu thư là ai? À, có phải là con gái ông Phẩm Đại một trong mười vị phú ông ở làng Phú Cường. Con gái ông ta là một trong mười mỹ nhân ở tuyển phu đài. Tại sao cô ta lại tìm đến thôn xóm nghèo nàn, nhỏ bénày?

Dân làng bỏ tiệc kéo nhau ra coi. Đứng trong đám, Lão Tam và hai cậu nhỏ ngấp nghé trước cổng nhìn ra.

Một cỗ kiệu rất sang trọng đỗ trước cổng. Kẻ hầu ngắm nhìn Châu Tru hỏi rằng :

- Cách đây nửa tháng, anh thượng đài đã bị đá trúng bụng dưới phải không?

Châu Tru chắp tay trả lời :

- Vâng chính là kẻ hạ tiện này hôm đó lỡ tay sảy miếng về ốm đau hút chết.

- Tiểu thư là người có ân đức. Biết rằng khi lập lôi đài đã gây nhiều vụ gần như là án mạng. Tưởng là anh bị thương đã gần chết nên đến cho tiền coi như tiền “tử tuất” để cấp dưỡng gia đình. Nhưng nếu quả thực anhcòn sống thì thôi.

Trong rèm có tiếng trong trẻo nói ra :

- Còn sống là may mắn. Vậy cho người ta tiền phí tổn thuốc thang gọi chút đèn bù những ngày đau bệnh.

Kẻ hầu đưa cho Châu Tru một phong bao có tiền ở trong. Châu Tru xiết bao cảm kích hướng về kiệu thưa :

- Kính thưa tiểu thư, cử chỉ tiểu thư hạ cố đến bần gia trang thực là vô cùng quảng đại. Kẻ hèn này cúi đầu tạ tội vì phận “đũa mốc đâu dám chòi mâm son”. Xin cho gia phụ và gia mẫu đến trước kiệu bái kiến.

Ông lang già và vợ ríu ríu kéo nhau đến trước kiệu cảm ơn, Phẩm tiểu thư sai kẻ hầu vén rèm để đáp lễ.

Mọi người được ngắm nhan sắc tiểu thư con nhà giàu. Nàng trang điểm lộng lẫy tăng phần xinh đẹp, các chàng trai đứng vây quanh kiệu đều trầm trồ :

- Trời! Mỹ nhân dung nhan kiều diễm thế kia chả trách anh nào nhát nhấtcũng phải thượng đài. Một đá chứ mười cú đá như Châu Tru phải chịu cũngkhông lỗ.

Thấy đông người tụ tập, Phẩm tiểu thư lấy làm lạ hỏi căn do, Châu lão đáp :

- Hôm nay lão phu ăn mừng thằng con khỏi bệnh, đồng thời dân chúng cũngtụ tập cảm tạ hai vị “tiểu chủ” đã tới giúp dân có nước nuôi cây trongkhi trai tráng dưỡng bệnh.

Phẩm tiểu thư chưa kịp hỏi tiếp thì Cung Đình đã từ đám đông đi ra, thấy gái đẹp là cậu nhỏ cà lăm :

- Mời... mời cô nương uống... uống rượu... vui...

Trương Bỉnh Nhi nhanh miệng đỡ cho bạn :

- Tiểu thư có bụng tốt lắm! Đã đến đây vô uống rượu cho mọi người vuivẻ. Ông chủ nhà này có câu chuyện muốn thưa với tiểu thư, thúc phụ tôicũng vậy.

Phẩm tiểu thư hỏi lại :

- Hai cậu không phải là người vùng này, từ đâu đến? Có chuyện gì nói tại đây cho ta hay, vào nhà không tiện?

- Tiểu thư muốn lấy chồng, thích ai thì lấy người đó. Bầy chi cái tròđấm đá cho khổ người ta. Người giỏi võ thường có bộ mặt “xí trai”, họthắng thì tiểu thư phải lấy một ông râu xồm, mắt ốc nhồi, mũi sư tử, mắt lác thì sao?

Cung Đình lắp bắp :

- Ít người... đẹp... trai... giỏi... võ... lắm...

Ý Cung Đình muốn nói võ lâm cao thủ đều dung nhan “hãm tài” như hắn cả. Ở đâu sồng sộc một hung thần xuất hiện.

- Oắt con nói láo! Mày nói xấu gì bọn tao?

Thì ra là viên đài chủ hộ vệ Phẩm tiểu thư đi tìm cô đã tới. Hắn vểnh râu hùm nhìn đám thanh niên coi bộ khinh rẻ, nạt nộ :

- Lũ côn trùng! Mau xéo đi chỗ khác! Ông nóng tiết lại cho chúng bay vềchầu tổ tiên bây giờ! Tiểu thư mau hồi gia, lão công ở nhà phái người đi kiếm tiểu thư khắp nơi, người không bằng lòng tiểu thư cứ đi thăm thúvà cho tiền những thằng khốn nạn bị hạ đài.

Làn nhãn quang tên râu quai nón đụng nhằm Châu Tru, hắn trợn đôi mắt sáng quắc gặng hỏi :

- Ủa thằng kia! Tao tưởng mày du địa phủ rồi. Không ngờ gặp thầy thuốc nào khéo tay bốc thuốc mà mày còn sống nhăn như vậy?

Châu Tru ngó địch thủ đả thương chí mạng mình hồi nọ, tránh sao khỏi căm tức, lửa giận bừng bừng cởi ngay áo ra để đánh nhau trận nữa. NhưngChâu lão bà và vợ hắn xúm lại can ngăn :

- Ấy chớ! Con vừa khỏi bệnh còn xanh xao vàng vọt đánh nó, nó đánh chết, khổ đa!

Gã râu quai nón vuốt râu thách thức :

- Loài sâu bọ này không biết phải quấy chi hết. Ta đã nương tay chân đểlàm hài lòng Phẩm tiểu thư mà lũ chúng nó không biết. Ta nói cho lũchúng bay biết, chỉ hồi tuần này, mỗi ngày bọn ta đã thẳng tay đánh chết hơn chục thằng, chúng bay nghe rõ chưa? Bây giờ ta muốn làm cỏ xóm nàyđể từ này về sau chúng bay nghe danh bọn chúng ta thì bỏ xứ bỏ làng màlếch đi nơi khác cho sớm.

Lão Tam chắp hai tay cung kính hỏi :

- Đại tôn ông danh hiệu là chi để chúng tôi xưng tụng.

Đài chủ quát to như sấm động :

- Ta biệt danh là Hắc Tinh Tinh đệ tam trại chủ tướng cướp Mỏ Diều trênnúi Bạch Khô Lâu cách đây hai mươi dặm. Lâu la đảng ta đã chẹn đóng khắp vùng này chỉ ngày mai đại ca ta sẽ cử binh tới chiếm đóng. Bao nhiêuthằng cứng đầu cứng cổ vùng này đã bị bọn ta ngầm triệt hết cả rồi. Cáccô gái đẹp ở vùng này đã được bọn ta chấm làm áp trại phu nhân, vật ngon của lạ đâu có để dành cho chúng bay.

Thái độ của Hắc Tinh Tinh thực hung hăng, hai mắt đỏ ngầu, làn hung quang chiếu tỏa làm mọi người thảy đều khiếp sợ.

Lão Tam run cầm cập :

- Vạn tuế Hắc Tinh Tinh trại chủ. Chúng tôi người phàm mắt thịt, đâu códám nghểnh cổ trông lên ánh thái dương rực rỡ. Xin ngài làm phúc xá tộicho lũ chúng tôi, chúng tôi xin mời ngài về, chúng tồi xin rời bỏ nơiđây đi trốn khác ngay lắp tức.

Hắc Tinh Tinh cười hềnh hệch, lắc đầu :

- Lâu la bộ tốt chúng ta đang khám xét các ngả đường, chỉ được nhập màkhông có xuất. Ta phải vặn cổ thằng chết tiệt kia cho nó đầu thai kiếpkhác, ta không thể để nó sống làm kiếp người được nữa.

Nói rồi Hắc Tinh Tinh cử quyền đánh Châu Tru, quyền mạnh như vũ bão,Châu Tru hết vía chạy dài không dám chống cự, nhưng Hắc Tinh Tinh phithân nhảy vụt một cái, chẹn đường rút lui và hét to :

- Chậm rồi con ạ, chỉ có một đường giải thoát là ta đưa con lên... thiên đình.

Bọn thanh niên, đa số say rượu, bủn rủn chân tay, xô nhau ào chạy nhưđàn cừu trước sói dữ. Một anh lớ ngớ chạy về hướng Hắc Tinh Tinh, tênđầu sỏ đảng cướp Mỏ Diều thuận tay tóm lấy anh ta, đám ngã, một chângiẫm lên đùi, dùng cánh tay lực lưỡng xé xác.

Sức khỏe tên cướp thực phi thường, mọi người nghe đến “soạt”, anh lực điền bị phanh thây làm hai mảnh, ruột gan đổ ra cả đống.

Phẩm tiểu thư sợ hãi ngất xỉu, hai ba người đàn bà nữa kêu thất thanh ôm mặt té theo, Hắc Tinh Tinh chảy lại chụp Châu Tru.

Châu lão thương con quơ lấy gậy trúc đập tên cướp, nhưng khác nào đứatrẻ đập bị bông, Cung Đình vội hối Trương Bỉnh Nhi can thiệp cứu mạngcho ông lang già.

Nhớ lời Cung Đình giảng dạy, địch thủ hung mạnh đến đâu cũng phải đứngtrên hai chân mới vững. Vậy nhằm chân mà đánh cho mất thăng bằng địchthủ phải ngã.

Ý nghĩ mới vụt ra, Trương Bỉnh Nhi nhớ tới lúc đạp nước, lao hai chân về phía Hắc Tinh Tinh và nhằm kheo chân của gã Hộ pháp, một chân đạp ra,một chân ngoắc lại. Chiêu thế này là chiêu thế tầm thường nhất trong bài võ Song cước Tung hoành của Cung Đình mới truyền dạy.

Nói thì chậm động tác thì nhanh hơn chớp, Trương Bỉnh Nhi đánh gãy xương ống chân Hắc Tinh Tinh nghe đến bụp, Hắc Tinh Tinh đau quá, kêu thétlên, té lăn ra giãy giụa trên mặt đất :

- Gãy xương ống chân ta rồi. Đù họ thằng nhãi ranh, mày phải chết, mày phải chết.

Hắc Tinh Tinh có gượng dậy nhưng bắp chân lủng lẳng không theo ý nên lại khụy xuống.

Châu Tru trở nên mạnh dạn, nhảy vào trong nhà xách cây đinh ba ra nhằmHắc Tinh Tinh đâm cho một nhát trả thù. Thế là xong đời một tên cướp trứ danh.

Những tên lâu la đi theo Hắc Tinh Tinh thấy đài chủ đã mất mạng thì bở vía, ôm đầu chạy thục mạng cực nhanh.

Nhóm thanh niên lấy lại được tinh thần, hăm hở kẻ gậy người mác định đuổi theo truy sát, nhưng Cung Đình ngăn lại bảo :

- Giặc cùng chớ đuổi, chúng chạy xa rồi có đuổi theo cũng vô ích.

Bố con Châu Tru xúm lại cứu tỉnh Phẩm tiểu thư, Châu Tru bế cô gái đẹp vô nhà, hối người sắc thuốc cạy răng đổ vào miệng.

Lão Tam bứt đầu bứt tai kêu khổ luôn miệng. Ông ta tự trách mình tham ăn nên gặp khó khăn. Đúng là miếng ăn “quá khẩu thành tai”. Nếu đừng thamăn, thúc giục hai cậu nhỏ đi phắt từ hai tuần trước thì có phải khôngmắc chuyện rắc rối cản trở. Rồi đây, bọn cướp khám tìm thấy vàng bạcchâu báu, chúng sẽ lấy hết và không chừng lại mượn luôn cái chỗ đội mũnữa?

Phẩm tiểu thư tỉnh lại, hay câu chuyện cũng lo thay cho những ngườitrong xóm. Rồi đây bọn cướp huy động đồ đảng kéo đến trả thù cho HắcTinh Tinh thì số phận dân lối xóm sẽ ra sao. Nhất định bọn tàn ác sẽtriệt hạ đốt phá xóm làng, tận sát mọi người đã lâm cảnh nguy nan khôngbề cứu giúp.

Phải bỏ làng chạy trốn trước khi bọn chúng tới, nhưng bỏ nhà bỏ cửaruộng nương đi đâu. Sinh sống bằng cách nào và có thoát khỏi chúng haykhông.

Rượu còn trong hũ mà không ai buồn uống. Thịt bày trên mâm mà không aibuồn ăn, cổ như bị tắc khí, ăn không nuốt trôi, nói không ra lời, thẫnthờ như hồn đã bay phách đã lạc.

- Tiểu thư về đi! Ở đây sẽ bị nguy nan cùng với chúng tôi.

Phẩm tiểu thư hai hàng nước mắt ràn rụa, nghĩ thân thế mình sẽ sa taybọn cướp làm áp trại phu nhân thì cũng chẳng sung sướng nỗi gì. Thấyngười đẹp khóc, bọn thanh niên sôi máu anh hùng, mọi người bàn bạc, đằng nào cũng chết, tại sao chúng ta không góp nhặt khí giới, chung lưng đấu cật với nhau mà chiến đấu. Có chết cũng giết được dăm ba đứa. Chết cảđống còn hơn sống một người.

Vả lại cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi lúc nãy đã trổ tài gan dạ phi thường, dám xông vào đạp gãy chân tên cướp. Tại sao, bọn thanh niên chúng mình đãtự khoe khoang là giỏi võ mà lại nhút nhát, sợ sệt quá đỗi. Thực là đáng để cậu nhỏ chê cười.

Trong lúc còn lưỡng lự, Phẩm tiểu thư không chịu lên kiệu, van nài mọingười lẩn trốn đi nơi khác, sau này quân binh tiểu phỉ, bọn cướp rútlui, lại trở về làng, như thế tiết kiệm được mạng sống.

Lão Tam tán thành lời khuyên của tiểu thư.

Trời đã về chiều, mây hồng ửng đỏ một màu thê lương. Chim về tổ cấttiếng kêu ảm đạm như tiên báo một trận chém giết kinh hoàng. Cung Đìnhnhìn vầng ô từ từ khuất sau rặng đồi phía xa. Đôi mắt cậu nhỏ tự nhiênsáng quắc, phát tia lóng lánh, nhỡn lực tăng gia gấp bội giúp cậu nhỏtrông xa qua màn tối đương buông xuống gấp đôi gấp ba người thường. Cậuquay lại thấy mọi người đang ngơ ngác đứng quanh, không biết nên lẩntránh hay ở lại chiến đấu.

Vận mạng toàn dân lối xóm trao vô tay cậu nhỏ vị thành niên, không biếtluồng nhân điện tự người cậu phát ra có mãnh lực gì mà khiến cho mọingười tin cậy ở sự quyết định của tiểu hiệp.

- Các người không việc gì phải lo ngại, tiểu sinh đảm nhiệm bảo vệ chocác người. Từ cuối giờ Dậu đến đầu giờ Hợi, có bao nhiêu đèn đuốc thắplên cho thực sáng. Còn bao nhiêu củi lửa cũng chụm vào đốt. Tới nửa đêmmà không thấy chúng kéo tới thì chúng ta sẽ rong đuốc đi tìm chúng màđánh.

Châu lão sợ hãi mà rằng :

- Tại sao cậu lại đi tìm đánh chúng trong đêm tối? Ban đêm nên tản cư chờ ban ngày báo quan binh thì hơn.

- Thì giờ cấp bách cụ đừng đưa ra ý kiến bất đồng. Thấy ánh lửa sáng,thế nào chúng cũng muốn tìm biết nguyên do, kéo đến tức khắc. Nếu đêmnay, chúng không tìm tới trả thù thì ban ngày hoặc đêm sau, chúng khôngthèm kéo đến xóm nhỏ này làm gì nữa!

- Tại sao vậy? Tại sao cậu lại mong chúng tìm đến trả thù ngay? “Quả bất địch chúng”, làm sao chống lại được giặc.

- Giải thích cho lão tiền bối hiểu hết những câu hỏi thì có lẽ...

Phẩm tiểu thư tiến lại gần Cung Đình dỗ dành :

- Nè cậu nhỏ! Cậu phải nói phân minh thì người ta mới tin theo, làm như lời cậu bảo chứ.

Mùi hương mỹ nhân xông ra ngào ngạt làm cậu nhỏ đương nói năng thao thao trôi chảy thành lắp bắp cà lăm. Đúng là cố tật của vị “lão hiệp” cảihình biến thành thanh niên thơ ngây.

- Nói... nói... mất... thì... thì... giờ!

Trương Bỉnh Nhi phải đỡ cho bạn :

- Việc gì phải chạy trốn. Quân cướp đến thì đánh. Đốt đèn đuốc nom chorõ thằng nào tới đánh cho què giò bắt bỏ rọ thằng ấy. Có thế thôi, hỏilàm gì? Ai nhát, ai sợ thì chui vào gầm giường, cầu tiêu mà trốn. Aimạnh bạo thì đánh trống, gõ phèng la, thổi tù và để trợ oai, khiến giặcmất tinh thần.

Châu Tru nhìn cậu nhỏ đã trổ tài đánh ngã Hắc Tinh Tinh, cảm phục hô lớn :

- Mọi người theo tôi thắp đuốc đốt đèn, đốt lửa, cầm đồ binh đánh giặc. Ở đời trước sau ai cũng một lần chết. Nếu số tôi chết thì tôi đã nghẻohai lần rồi. Uống chút rượu để cho hăng máu. Nhâu thêm mấy miếng để làmquỷ no còn hơn làm ma đói. Chết cũng đánh! Đánh...

Một thanh niên khoa tay múa chân khen phải. Người thứ hai nhảy reo tánthành. Thế là cả bọn đều đánh bài liều, hăng hái làm theo lười Cung Đình sai bảo. Ánh sáng đuổi bóng tối âm u. Người chạy ra, kẻ chạy vô lăngxăng, tiếng gậy gộc giáo mác đụng chạm loảng xoảng cũng gây được đôichút phấn khởi bọn người dân quê hầu như đã quá tuyệt vọng.

Chợt nhớ tới mấy anh phu kiệu, không tìm thấy bọn này đâu cả? Thì ra từlúc khởi trận đánh giết Hắc Tinh Tinh, chúng quá sợ hãi đã bỏ chạy vềcho chủ nhân hay.

Dọc đường về nhà có anh bị quân cướp chặn xét, giữ lại chỉ còn một tênmay mắn lẩn thoát về được làng Phú Cường báo tin cho phú ông biết. Mộtphú ông biết tin, tức thời cả mười phú ông đều hay hung tin.

- Kính thưa chủ nhân, tiểu thư bị nguy rồi!

- Trời! Tai nạn ra sao!

- Tiểu thư vốn có lòng nhân từ, mang tiền đi từng nhà cứu giúp kẻ bị hạ võ đài, không ngờ tới xóm nhỏ sau đồi thì bị bắt cóc.

- Ai dám bắt cóc tiểu thư? Đài chủ đâu mà không hộ vệ con ta.

- Bọn nó giết mất Đài chủ rồi. Bẩm thưa chủ nhân, đài chủ trước khi xéxác một dân làng lại tự xưng tên là Hắc Tinh Tinh đại vương, một trongnhững chủ soái của bọn cướp Mỏ Diều...

- Mày nói chẳng ra đầu ra đuôi, ai là dân? Ai là cướp. Đài chủ ta mướnlà cướp đã bắt cóc con ta phải không? Còn mấy tên phu kiệu kia đâu?

- Dạ! Các anh ấy chạy về báo tin cho chủ nhân với con nhưng bị cướp bắt giữ ở dọc đường rồi!

- Cướp! Cướp! Ai là quân cướp? Dân làng, đài chủ hay... chính các anh là cướp? Nhưng mà ai cả gan dám bắt giữ tiểu thư?

Tên phu kiệu ấp úng, nói năng lúng túng, quanh co nên chẳng ai hiểu được đầu đuôi câu chuyện ra sao cả? Nhưng các phú ông đã cấp tốc một mặt ralệnh cho dân đinh nai nịt giáo mác bảo vệ thôn xóm, một mặt phi báo quân binh cứu ứng, đối phó bọn cướp Mỏ Diều nổi tiếng là hung ác.

Trông về phía sau đồi xa, thấy ánh lửa đỏ chân trời, những hào trưởngđoán quyết là có biến trong rừng... Trống ngũ liên nổi lên báo động suốt giải đồi Túc Mễ. Làng này truyền tin qua làng khác, cả Tổng đều biếttin Phẩm tiểu thư bị bắt cóc và quân cướp đêm này kéo tới đánh phá cáclàng.

Ông nhà giàu Phẩm Đại nóng lòng cứu con gái nên tụ tập hết trang đinhtrong phủ, chọn người can đảm, quyết định dấn thân theo tên phu kiệu dẫn đường tới xóm nhỏ sau đồi để giải thoát cho con gái mình.

Lúc này tin tức Hắc Tinh Tinh bị giết cũng đã được đưa về trại trên núiBạch Khô Lâu. Lá cờ có dấu hiệu Mỏ chim Diều hâu ngậm sọ người trắnghếu, hai hố mắt sâu hoắm được kéo lên phấp phới trên đỉnh núi. Đảng cướp đông vài trăm tên, quan quân mắc công tiễu trừ. Nhưng đụng độ với bọnác tặc trận nào bị thua trận đó. Chúng khôn ngoan ẩn hiện bất thường, bí mật lúc tụ lúc tán, mưu mô quỷ tuyệt lạ thường.

Đã nhắm phá một địa điểm nào, khu vực đó một ngọn cỏ không còn mọc. Toàn vùng máu rơi, xương trắng, chúng có thói quen tận sát trẻ nít khôngtha. So với bọn Hắc Y, có lẽ đảng cướp này còn cuồng sát khát máu hơnnhiều.

Tên đầu đảng hình thù rất quái gở, trên đầu mọc hai bướu như hai sừngcủa quỷ sứ, mắt lồi, hai nanh nhọn lòi ra ngoài miệng y như đôi nanh của ma cà rồng cắn vào cổ người hút máu.

Vốn gốc rợ Liêu, hắn mang tên là Ngõa Nặc Ô Đồ thích ăn tiết canh không những của thú vật mà còn của người nữa.

Tên thứ hai thì đầu nhọn nhô cao như loại “đầu bùa” hai mắt lươn màuvàng, cằm nhọn mũi khoằm, hai bên má mọc ra hai chùm râu trong cổ quái.Hắn mang danh hiệu là Thanh Diện Quỷ Độc Vô Sĩ, ưa thích hãm hiếp phụnữ, mổ bụng ăn thịt như loài ác ma.

Kinh hãi hơn là trong đêm khuya, tên đầu sỏ ra lệnh cho đồ đảng mặc toàn đồ đen từ đầu đến chân, lấy sơn trắng vẽ lên thân mình hình bộ xươngngười.

Trông thấy hình những bộ xương người biết cử động, nhấp nhô chạy nhảy, ai mà không sợ chết khiếp.

Trước giờ hành sự, từ đầu đảng cho tới lâu la chạy cờ đều nhai nuốt mộtloại lá “ma túy”, nuốt vào thần trí say mê, trở nên hung bạo, không biết sợ chết, phát nên những tiếng cười the thé như quỷ hú, thực là vô cùngquái đản.

Mỗi ác ma, hai tay cầm hai con dao tựa như đôi dao phay mà chém, sát hại nhân mạng không tiếc tay.

Riêng hai tên chúa đảng Ngõa Nặc Ô Đồ và Độc Vô Sĩ thì mỗi tên cầm mộtbộ xương người như lệnh bài chỉ huy, mỗi lần rung lắc, các lóng xươngđụng chạm nhau phát sinh tiếng “lắc cắc” khô khan nghe rất rùng rợn.

Võ nghệ cao cường, một tên sử dụng cây lang nha bổng, một tên cử khaisơn đại phủ. Nghe tin Hắc Tinh Tinh bị bại, Ngõa Nặc Ô Đồ và Độc Vô Sĩnổi giận đùng đùng, hạ lệnh xuất quân hỏa tốc. Đoàn ma binh nhảy lênchiến mã, tập hợp mau chóng và nhắm phía đồi Túc Mễ phóng nước đại.

Mục đích chính là tập kích làng Phú Cường, cướp lấy gái đẹp về làm áptrại phu nhân. Chúng đã bàn mưu lập kế hoạch trà trộn vào làm chủ đài,lấy tiếng là bảo vệ con gái phú ông tuyển phu, giúp các phú ông lựa chọn người tài giỏi võ công trong vùng cho các cô gái mỹ miều. Nhưng thựcra, Hắc Tinh Tinh dụng tâm làm gián điệp nội tuyến bên trong để khi Ngõa Nặc Ô Đồ tấn công thì trong ứng ngoài hợp.

Điểm đáng chú ý nhất là Hắc Tinh Tinh lọt vào làm chủ đài đã “tỉa” trước những tay giỏi võ trong vùng.

Sau khi đã đánh ngã gần hết số thanh niên khỏe mạnh nhất, mục tiêu trởnên chính mùi sắp rụng chỉ còn việc giơ tay đón lấy không ngờ Hắc TinhTinh lại bị hại bởi đôi chân của cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi.

Khi gần tới chân đồi, bọn cướp Mỏ Diều trông thấy ánh lửa trong xóm nhỏ sáng rực khu vực.

Ngõa Nặc Ô Đồ ngạc nhiên hỏi bộ hạ :

- Bây giờ đã gần nửa đêm, tại sao ở thôn xóm kia lại còn đốt lửa sáng choang là nghĩa làm sao? Có phải là nơi lập võ đài không?

Đầu mục thưa đáp :

- Tâu Đại vương, đó là nơi Tam đại vương bị mấy thằng dân làng dùng đinh ba đâm chết đấy ạ.

Ngõa Nặc Ô Đồ tức giận vọt lên trước hét lớn :

- Làm cỏ vùng này đã, san phẳng làng Phú Cường sau. Đứa nào nạp ta được nhiều đầu lâu, thủ cấp đem về núi tao sẽ trọng thưởng.

Bọn cướp dạ ran, khí thế dữ dội. Tên nào cũng bỏ mồm nắm Mê túy thảo nhai nuốt chửng.

Cả đoàn người tựa như con gió lốc cuốn trong bóng tối. Xa xa ở chỗ ngã ba đường có một chiếc đèn lồng treo trên cành cây le lói.

Ngõa Nặc Ô Đồ kìm cương cho ngựa đứng lại. Hắn định thần, xạ đôi mắt cúvọ xuyên thủng màn đêm, dưới ánh sáng chập chờn, giữa ngã ba thanh vắng, một chiếc cọc cắm một thủ cấp tóc xõa rũ rượi, bê bết máu chặn lối đi.

Một tên đầu mục xuống ngựa lại gần coi thì ra là đầu lâu Hắc Tinh Tinh bị đem ra bêu giữa lộ.

Có mảnh giấy đề, nét bút rắn rỏi: “Đây là thủ cấp tên ác tặc Hắc TinhTinh đệ tam thủ lĩnh đảng Mỏ Diều. Nơi đây là mồ chôn của bọn cẩu tặcBạch Khô Lâu sơn”. Dưới có dòng bút ký: “Giang Nam Hiệp Khách”.

- Giang Nam Hiệp Khách là ai? Tên cướp nọ hỏi tên cướp kia từ trước tớinay không nghe thấy nói đến tên lạ hoắc này. Nhất định tên này đã bàytrò dọa nạt, đánh đòn tinh thần để giảm nhuệ khí chúng ta. Giang NamHiệp Khách là thằng nào dù nó ba đầu sáu tay, chúng ta cũng phải xungphong giết được để trả thù cho Hắc tam đệ.

Tuy nhiên Ngõa Nặc Ô Đồ và Độc Vô Sĩ cũng chột dạ đôi chút bời vì chúngbiết Hắc Tinh Tinh là một võ sĩ nội lực rất thâm hậu, can đảm phi thường nên mới dám làm nội tuyến. Trận đánh nào không có Hắc Tinh Tinh thamdự, đảng Mỏ Diều như thiếu mất một lực lượng quan trọng.

Thanh Diện Quỷ liền bàn :

- Cho đầu mục Quản Xì Thẩu dẫn toán thám sát tiền phong vô trước dọ xét xem sao? Chúng ta sẽ chia ba mặt giáp công tất thắng.

Tên đầu mục Quản Xì Thẩu đầu chít khăn chéo cao lênh khênh dẫn mấy tên em út, vâng dạ phi ngựa vô thôn xóm nhỏ.

Ra đi đã dập bã trầu mà chẳng thấy tăm hơi bóng vía một tên nào trongtoán thám binh trở về báo cáo. Bốn bệ lặng im phăng phắc. Ngọn đèn lồngtreo trên cành cây bị gió đưa đi đưa lại, khi tỏ khi mờ, chiếu xuống đầu lâu, thê lương vô tả. Có tiếng cú rúc ở đằng xa vọng lại.

Bọn lâu la bị ngấm thuốc mà chưa được xung trận nên đều bực tức, chửi thề luôn miệng :

- Đú họ thằng Quản Xì Thẩu, nó cao cẳng như thế, có chuyện gì thì cũngphải gắng mà chạy về hoặc cho một tên bộ hạ trở lui cấp báo cho chủtướng hay chứ? Tại sao cứ nín thinh để bọn ta phải chờ hoài? Chờ lâu,ngáp buồn ngủ bỏ mẹ! Pháo hiệu của nó đem theo sao không thấy đốt lên?Tù và đeo ở cổ ngựa sao không thấy rúc lên mấy tiếng! Kỳ thiệt!

Thanh Diện Quỷ liền rung động bộ xương ra lệnh cho một toán kỵ binh rẽsang phía tả, một toán khác rẽ sang mé hữu, còn hắn và Ngõa Nặc Ô Đồ đitoán trung quân, cùng kéo vào chân đồi mọc cây cối um tùm.

Nhưng đoàn ngựa vừa mới tiến lên một quãng, phía tả nổi lên tiếng la ó,có người hô thúc ngựa xung phong. Tiếng vó ngựa chạy rầm rập chứng tỏcánh tả đã đụng độ với địch. Nhưng lắng tai nghe hô hoán thì chỉ thấytoàn là tiếng những tên lâu la đảng Mỏ Diều, Ngõa Nặc Ô Đồ định giơ taykhua bộ xương người để ra lệnh cho toán giữa cũng xung phong thì tại nơi cánh tả tiếng hò reo im bặt như không còn một người nào nhúc nhích cửđộng nữa. Xưa nay đã quen “dạ chiến” trăm trận, tên đảng chúa chưa từngthấy có sự thay đổi kỳ dị như vậy, toán quân đương xung sát bỗng nhiênnhư rơi tõm vào khoảng không. Hắn cho lệnh các toán quân khác ngưng lạivà thân hành kéo bộ hạ về phía đó xem sao?

Vó ngựa đi trên cỏ khô xào xạc. Trong bóng tối người ta chỉ trông thấylờ mờ những nét vẽ trắng trên nền đen, rõ là các bộ “xương ma” đương lũlượt đưa nhau về chốn âm ty...

Bỗng hắn giật nảy người lên ghìm cương ngựa lại, tóc gáy dựng ngược vìrõ ràng sau bụi cây, một bộ xương ngồi trên mình ngựa đương rình rập bọn hắn.

Lẽ nào ma lại sợ ma? Mình chuyên môn giả dạng là bộ xương ma đi dọa nạtthiên hạ, bây giờ thấy bộ xương cưỡi ngựa núp trong bụi rậm thì mình lại sợ thì chẳng hóa ra là mâu thuẫn lắm sao?

- Ai nấp đó?

Một tiếng quát xé bầu không khí tĩnh mịch, không có tiếng đáp lại.

Thôi thì mặc dầu là ta hay là địch cũng choảng cho một bổng nát thây,Ngõa Nặc Ô Đồ tế ngựa vung lang nha bổng đập đánh “chát” một cái. Bộxương người và con ngựa té lăn đùng trên mặt đất.

Lần đầu tiên đảng Mỏ Diều bắt buộc phải hô khẩu lệnh từ trước đến nay chưa dùng đến :

- Đốt đuốc lên xem nó là ai, là thù hay là bạn mưu toan rình rập bọn ta?

Lũ xương ma đốt đuốc lên thì đâu gọi là xương ma? Thanh Diện Quỷ ngồitrên mình ngựa tức tối vô cùng. Bó đuốc bùng cháy, trông hai mắt lâu lanào cũng lờ đờ say thuốc, mất hết vẻ tinh ảnh, các bộ mặt bôi trắng ngơngác nhìn nhau.

Bỗng có tên hốt hoảng la lớn :

- Tắt đuốc đi, chúng nó kìa! Chúng mình bị vây đánh rồi. Đánh đi! Chém đi!

Một tên khác múa hai dao phay thúc ngựa xông bừa vào bụi rậm chém túibụi vào một thân hình người khác cưỡi ngựa thấp thoáng sau gốc cây cáchđó vài trượng. Thế là chưa soi rõ mặt tên bị bổng đập chết là ai, toánquân Ngõa Nặc Ô Đồ đã náo loạn, mất cả kỷ luật.

Tốp khác nữa nghe tiếng la cũng hò hét múa dao phóng ngựa chạy toán loạn chém vào những bụi cây gần đó, tình nghi là có kẻ địch núp ở phíatrong...

Kế đó phía hữu cũng thấy có tiếng người ngựa reo hò xung sát. Lại có tiếng hô :

- Kìa Quản Xì Thẩu đã trở về báo tin.

Ngõa Nặc Ô Đồ bối rối không biết nên tiến hay nên lùi. Hắn nổi sùng vácbổng đập chết những tên quân đã gây náo loạn trong hàng ngũ trung quân.

- Không được la lối nữa, thằng nào la lối ông đập chết bỏ. Đứng đâu đứng đấy. Đốt đuốc cho ta coi cái mặt thằng đầu tiên bị ta đánh chết làthằng nào. Chúng mày vô kỷ luật thế này còn đánh đấm được ai nữa.

Thanh Diện Quỷ quay phía tả bảo chúng im lặng cái mồm, thằng nào là lối cứ việc choảng cho một búa, chết bỏ.

Xưa nay, sau khi đã nhai nuốt mê túy thảo bọn lục lâm này đã có lệnhtiến là chúng như nước vỡ bờ, ùa tràn khắp nơi, thả sức chém giết nhưmột đám đông điên cuồng trong trại dưỡng trí đổ ra.

Chúng đốt nhà, sát hại tất cả những vật gì động đậy, miễn sao cho hả cơn thuốc thì thôi. Hai mắt đầy tia máu đỏ, chúng nhìn chỗ nào cũng thấymàu đỏ sẫm.

Y như một loại bò điên, chỗ nào có màu đỏ là xông tới liền, bây giờ lệnh ra bất thống nhất, lúc lùi, lúc tiến đã ra lệnh đốt đuốc lên, lại tắtđuốc đi, chưa giết được giặc, chủ tướng đã sát hại một số quân nhà. Làmthế nào kìm giữ nổi đương lúc hò hét lại phải ngậm miệng im thít, khôngđược hé miệng thở mạnh....

Đoàn “bộ xương ma” ngồi trên mình ngựa lúng túng đi thành vòng tròn.

Thanh Diện Quỷ Độc Vô Sĩ vâng lệnh chủ tướng, dẫn tả hữu qua mé tả tiếpứng, bụng đinh ninh là toán đó đụng độ với địch. Nhưng vừa quay đầu ngựa thì các tiếng hô hoán lại im phắc, không còn nghe động tĩnh chút chi?

Vì vậy chính hắn cũng ớn xương sống, không dám tế ngựa đi đâu. Trênđường lộ chỉ có tiếng vó ngựa đập xuống mặt đất, nhờ ánh đèn lồng nênđúng trong bóng tối Thanh Diện Quỷ vẫn trong thấy Quản Xì Thẩu ngồi trên mình ngựa trở lui.

Có điều lạ là tên đầu mục cao cẳng này, thân hình dài hơn trước, nhất là cái cổ lộ hầu “cò hương” lại ngỏng vươn lên cả tấc. Hắn ngồi trên yên,không nhúc nhích mặc con ngựa ô thủng thỉnh bước như vừa rong chơi ở đâu về?

Con ngựa nhìn thấy ánh sáng ngọn đèn lung linh thì lại gần rồi đứng sững lại. Một tên bạn của Quản Xì Thẩu lại gần, bất giác kêu lên :

- Quản Xì Thẩu bị ám toán chết rồi. Thằng nào chặt cụt đầu Quản Xì Thẩucắm cọc rồi lại bêu thủ cấp bằng cách chắp đầu cọc vô thân xác làm cáicổ nào dài thêm ra.

- Địch thủ đùa nghịch một cách vô cùng độc ác. Ai vậy?

- Lại còn ai nữa? Cái thằng Giang Nam Hiệp Khách chó mã đã phá tụi ta đêm nay chứ còn ai nữa.

Thanh Diện Quỷ Độc Vô Sĩ vừa nói dứt lời thì nghe đến “vút” một cái bên mang tai. Hắn né mình kêu hoảng :

- Cẩn thận có kẻ núp phóng ám khí!

Nhưng thực ra chẳng có ám khí nào hết. Hai tên đầu mục cưỡi ngựa hai bên tả hữu Thanh Diện Quỷ đã biến thành hai bô xương ma cụt đầu bởi vì thủcấp hai tên đó đã bị Giang Nam Hiệp Khách cắt rớt xuống mặt đất rồi.

Không biết đối phương chém đầu người bằng vật sắc bén gì mà êm nhẹ thế?Có thể là một loại kiếm khí vô hình chăng? Hai tên đầu mục cụt đầu hìnhnhư không biết mình đã chết, hai cái xác ngồi trơ trơ trên lưng ngựa. Rõ ràng là hai kỵ sĩ cụt đầu.

Bọn lâu la bở vía. Tên nào cũng đưa tay lên sờ cổ mình xem đầu mình cònhay mất rồi? Rồi chẳng chờ lệnh của chủ soái mà phóng ngựa chạy dài.Hành động vô kỷ luật đó đã khiến tên lâu la bị nếm một đại phủ, bửa sọlàm hai chết tốt.

Nhưng ngựa của tên Độc Vô Sĩ bỗng nhiên khụy xuống, hai chân trước hấthắn té nhào xuống đất đánh huých một cái như trời giáng. Hai vó trướcngựa bị cắt đứt rời máu me đầm đìa. Thấy chỉ huy ngã, bọn lâu la như rắn mất đầu, nhốn nháo chạy tứ tán.

Ngọn đèn vụt tắt, thành ra toán quân bị rối loạn đâm ra bối rối thêm.Nhìn về phía thôn xóm, lửa cháy rực trời. Trong bóng sáng, thấy thấpthoáng bóng hình nhiều người cưỡi ngựa dàn ra thành một hàng dài rõ ràng là quân binh đã đến tiếp cứu, khí thế rất hăng hái.

Thanh Diện Quỷ lóp ngóp bò dậy tìm nhặt chiếc búa khai phủ, hối bộ hạdắt con ngựa khác tới cho hắn cưỡi. Rồi sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũcòn vài chục tên thân tín. Độc Vô Sĩ hiệp binh với Ngõa Nặc Ô Đồ tiếnlên phía trước để tìm địch giao chiến.

Ngõa Nặc Ô Đồ nhìn sang hàng địch nghênh chiến nghiến răng vẻ mặt đầy sát khí :

- Tên Giang Nam Hiệp Khách khốn kiếp kia. Phen này mặt đối mặt, mi phải đền mạng cho quân ta.

Nhưng định thần nhìn rõ, những tên cưỡi ngựa tưởng đâu là quan quân tạisao cũng mặc đồ đen vẽ bộ xương ma như bọn mình. Tại sao lâu la đảng MỏDiều đã từng cắt máu ăn thề với nhau đồng sinh đồng tử lại quay đầu lạiđánh chúng ta? Những tên phản bội cứ ngồi yên bất động trên lưng ngựanhư thế kia? Còn sống hay đã chết như Quản Xì Thẩu. Người chết thì đãđành, ngựa cũng chết hay sao mà đứng yên như ngựa gỗ?

Tại sao lại có tên cụt đầu cưỡi ngựa cụt đầu mà vẫn đứng yên mới lạ chứ? Chúng mình giả dạng là ma tiến lại gần các cụm lửa sáng thấy toán quânma cụt đầu chính cống trông ghê sợ hơn nhiều?

Thực là quái dị! Thực là kỳ dị hơn những chuyện mà đảng Mỏ Diều bày đặtra, đang phân vân không biết phải xử trí ra sao thì nghe thấy...

(Thiếu 2 trang)

Nghĩ vậy Ngõa Nặc Ô Đồ cũng thách thức :

- Ta là danh tướng, không bao giờ đánh nhau với một tên vô danh nhãi con chưa ráo máu đầu như mi. Mi có tài cán gì thì đánh nhau một chọi mộtvới đấu thủ trong bên ta không?

- Ta là chủ, bọn mi là khách, muốn thế nào ta cũng chiêu đãi tức khắc, thằng cha nào muốn chết thì nhào ra đây.

Cung Đình xắn tay áo thủ thế đứng chờ, bộ tịch rất tức cười. Ngõa Nặc Ô Đồ đưa mắt nhìn Thanh Diện Quỷ :

- Hiền đệ xuống vặn cổ và tát cho rụng quai hàm, lần sau không được hỗn láo với bọn ta nữa.

Thanh Diện Quỷ cài búa vào lưng, xuống ngựa lại gần cậu nhỏ :

- Nè chuột nhắt. Mày kêu bố mày là chó. Lại đây ông vặn cổ bẻ hàm chohết xấc láo. Nếu biết tội chắp tay lạy ông, ông tha. Nếu không, ông uống máu con hết sạch.

Cung Đình cười hềnh hệch :

- Nước tiểu ta có sẵn, uống máu ta đâu có được?

Độc Vô Sĩ dụng thế “sư tử vồ dê” giơ hai bàn tay hộ pháp chụp lấy haicậu nhỏ. Nhưng Cung Đình chỉ khẽ búng hai ngón tay một cái, một sức mạnh vô hình đánh vào vai tên phó đảng tung người ngã ngửa ra phía sau hơntrượng.

- Cha, thằng nhỏ dữ thật, mày dám chống cự lại tổ nội mày hả!

Thanh Diện Quỷ rút khai sơn đại phủ múa tít như muôn điểm hoa ào ạt nhắm Cung Đình bủa xuống. Cung Đình giơ cánh tay ra đỡ lưỡi búa sấm sét. Bọn lâu la hoa mắt, chắc chắn tay cậu nhỏ bị tiện làm hai khúc, nhưng thựcsự lại ngược lại, lưỡi búa chạm vào cánh tay Cung Đình bị cong vẹt mộtmiếng lớn. Độc Vô Sĩ bị toạc hộ khẩu, máu chảy dầm dề, cầm chiếc búa lớn không vững nữa.

Cung Đình búng một phát nữa, Thanh Diện Quỷ ôm người bay đi, máu họngbắn ra xa tận gốc cây. Thấy đồng bọn bị thương, Ngõa Nặc Ô Đồ thúc ngựagiày xéo cậu nhỏ và vung lang nha bổng, xử thế Càn Khôn Địa Hải đánh tới tấp.

Nhưng hắn có cảm giác là bốn vó ngựa hắn cưỡi không dính đất, bị chơivơi trong khoảng không. Càng luýnh quýnh toàn thân ngựa càng nâng caolên khỏi mặt đất như ngựa biết bay. Thế rồi cả người lẫn ngựa như bị một bàn tay khổng lồ nhấc lên và quật mạnh vào thân cây mà tên Thanh DiệnQuỷ đương ngồi tựa lưng thở dốc...

Y như cả tảng đá lớn rơi trúng người. Thanh Diện Quỷ không né tránh kịp, bị đè bẹp dí dưới sức nặng người lẫn ngựa Ngõa Nặc Ô Đồ đè lên.

Ngõa Nặc Ô Đồ hết vía kêu lớn :

- Ôi chao! Nguy ta mất rồi!

Hắn bị gãy giò mắc kẹt cứng ở gốc cây bật rễ, tay còn vòng ôm cổ conthiên lý mã vì sức mạnh quật vào thân cây. Hắn mở to đôi mắt kinh hoàngnhìn thấy từ tay cậu bé phát ra một đạo kiếm quang bay đến đâu, đầu bọnlâu la rụng như hoa chuối. Chỉ trong chốc lát cả toán quân hơn trăm lâula thiết kỵ đều biến thành quỷ vô đầu, cưỡi ngựa cũng không đầu.

Hắn run sợ, hai hàm răng đạp vào nhau cầm cập :

- Thôi hết thuốc rồi, đi nhằm ngày xui gặp phải Giang Nam Hiệp Khách thứ dữ! Thôi, thế là vĩnh viễn từ nay không còn đảng Mỏ Diều nữa.

Hắn định giơ lang nha bổng lên đập vỡ thiên linh cái tự sát. Nhưng câybổng bị một sức mạnh đỡ lại, không cho hắn thực hiện ý định tự hủy mạng.

Hai cậu nhỏ chắp tay sau đít hiện ra đứng trước mặt. Cậu nhỏ mặt mũi xinh trai hỏi :

- Ê. Chủ đảng Mỏ Diều! Bấy lâu nay ăn cướp được nhiêu tiền, cất giấu chỗ nào chỉ cho ta biết, ta sẽ làm ơn nói với bạn của ta tha mạng sốngngươi. Nếu không nói, bạn ta sẽ rút từng sợ gân trong người ngươi ra đem phơi khô làm dây chão cột heo đấy.

Nghĩ mình suốt đời đóng vai chúa đảng, hống hách nạt người thiên hạ, bây giờ thất thế, thằng nhỏ cũng dọa dẫm được mình, tức tắt hơi được.

Cậu nhỏ kia cũng trừng mắt hỏi :

- Không nói hả! Ông bẻ gãy cánh tay mi thành năm chục đốt xương nhỏ khác nhau bây giờ.

Ngõa Nặc Ô Đồ vội kêu lớn :

- Ấy chớ. Nói mà, kho tàng ghi trong bản đồ để trong túi tôi đây này.

Tiếng nói cô gái nhỏ từ đâu bất thình lình phát ra :

- Thằng khốn kiếp! Ta tìm mi để hỏi vật đó? Bây giờ mới gặp đây. Ngõa Nặc Ô Đồ mày làm bà nội mày đêm nay mỏi chân muốn chết.

Trương Bỉnh Nhi và Cung Đình quay lại thấy một cô gái trạc mười ba tuổitừ bụi rậm bước lại gần. Cô gái ăn mặc lôi thôi lếch thếch, quần áo dàirộng thùng thình, vẻ mặt không lấy gì làm dễ coi cho lắm vì sống mũi nhô cao quá đỗi.

Cô bé xăm xăm tới thò cánh tay định tìm tấm bản đồ trong áo nơi ngực chúa đảng Mỏ Diều. Cung Đình hất tay cô bé ra mắng rằng :

- Cô lõi con ở đâu lại định phỗng tay trên bọn ta sao?

Cái hất tay đó chứa đựng sức mạnh vô cùng tuy nhiên cánh tay cô bé nhưsắt đúc không hề chuyển động. Hơi mạnh hai kình lực chạm nhau làm lồngngực Ngõa Nặc Ô Đồ bị ép dập nát, xương sườn quai xanh mỏ ác trật lòi cả ra ngoài, máu phun tung tóe. Thế là hết một đời tên ác tặc. Tuy chếtvẫn không biết nguyên nhân tại sao chết?

Thanh Diện Quỷ Độc Vô Sĩ bị đè bẹp nằm dưới đường hấp hối thân hình bịđộng mạnh cố mở mắt nhìn xem kẻ đã đánh bại chúa đảng Mỏ Diều là ai? Hắn lắng tai nghe :

- Đưa tao tấm bản đồ!

- Không được, tao tìm trước là của tao, mày là ai? Cái mũi cao của màylớn lên nó sẽ khoằm khoằm thành mũi mỏ quạ nhằm mõm giống của con mụ Câu Hồn giáo chủ lắm.

- Tao chính là Câu Hồn giáo chủ đây. Xem những phi kiếm chặt đầu bọn lâu la thì mày chừng là thằng Cung Đình tôn sư Châu Hòa trấn cũng nên?

- Đích thị! Vậy đừng chiếm tấm bản đồ kho tàng của tôi chứ?

Thanh Diện Quỷ nghe lũ nhỏ tuyên ngôn danh hiệu, giật mình đến thót, nấc lên một tiếng :

- Trời! Cung Đình tôn sư! Ông thầy dạy võ chúng ta, bị ông đánh đònnghiêm khắc dữ quá nên trốn đi làm lục lâm đại đạo. Chạm phải ông cònoan uổng nỗi chi? Lại Câu Hồn giáo chủ nữa. Toàn bậc tôn sư cả! Mình...tới... số... rồi!

Hắn thở phào một cái rồi đi luôn.

Đồng thời cũng nghe đánh “soạt” một tiếng, hai người tranh nhau tấm giấy bị rách làm đôi. Mỗi người giữ một nửa.

- Đưa tao nửa kia để tao khám phá kho tàng.

- Không có được, của ta, ta phải đưa ai. Muốn toàn mạng thì nên đưa cho ta nửa của mày, không thời ta sẽ xé mi tan như xác pháo.

Hai người cãi nhau chí chóe, lúc này, Châu Tru đã dẫn đám thanh niên rakhỏi cổng làng. Bọn thanh niên thấy giặc chết nằm ngổn ngang, tên nàocũng đầu một nơi, thân một nẻo. Hai tên thủ lãnh cũng nằm chết chồngchất lên nhau tại gốc cây. Chúng líu lưỡi hú hồn...

Lại thấy có một cô bé, một cậu nhỏ đương cãi lẫy đòi nhau nửa mảnh bản đồ, đương thách thức nhau dụng võ lực.

Đám thanh niên xúm lại can ngăn đôi bên, nhưng Cung Đình hét lớn cảnh báo :

- Chạy núp đi mau! Con nhỏ này dữ lắm, nguy tai đa.

Châu Tru vừa mới há miệng nói :

- Thôi mà, đánh nhau làm chi bươu đầu sứt trán... Cô bé nghe mỗ...

Chỉ thấy cô bé xòe bàn tay một cái, Cung Đình phóng chưởng ngăn lại.Trời ầm ầm như động đất đến nơi, những tiếng ù ù như sấm động, cây cốicong rạp xuống, đám thanh niên lăn quay trên đất, người nào cũng xây xát mặt mũi. Trương Bỉnh Nhi nhanh chân co giò cõng lão Tam chạy trước,Châu Tru cũng cõng Châu lão chạy theo, đám thanh niên cũng ôm đầu lẩntrốn nhanh như thỏ, mặc cho hai đứa nhỏ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay,giao đấu dữ dội.

Núp trong khe cửa nhòm ra, mọi người thấy ở trước cổng làng bụi cát tung bay mù mịt, chốc chốc thân cây lớn lại đổ đến rầm. Nhà cửa rung chuyển.

Hàng rào sập gãy kêu răng rắc. Những xác chết bộ xương ma, xác ngựa hồinãy dựng cho đứng lên làm nghi binh bây giờ đỏ ngả nghiêng lăn cù, còngqueo khắp chốn.

Hai cô bé, câu bế tử chiến một trận thực là dữ dội, hằng trăm lâu laxung phong thì êm ái và quét sách như không có một tiếng động nhỏ. Thếmà đây chỉ là một cô bé, một cậu nhỏ vờn nhau mà đã làm mọi người tưởngbị chết đến nơi.

Hai đối thủ xách cả thây ngựa chết ném nhau. Xác chết, xác chiến mã tung cao nằm vắt ngang ngọn cây, nom thực lạ lùng.

Bên tám lạng, bên nửa cân, không bên nào chịu sút kém.

Cung Đình tức giận, bẻ lưỡi dao phay làm phi kiếm ném lia lịa về phíaCâu Hồn giáo chủ. Nhưng cô bé nhanh tay bắt được, bóp vụn ra như bẻ bánh tráng phồng. Rồi sẵn nắm vụn nhằm Cung Đình nhảy vọt lên cao cả trượngtránh thoát.

Mảnh vụn kim khí xẹt vô tận trong xóm, xuyên qua vách tường, làm ChâuTru giương mắt ghé nhòm bị mất một mảng tóc lớn. Anh chàng hết vía tưởng bị phi kiếm chém trúng kêu lên thất thanh.

Nếu cứ đà này kéo dài mãi thì nhà cửa trong xóm cũng đổ đến nơi, thế nào cũng có người mất mạng. Trương Bỉnh Nhi chợt nhớ lúc nhóm người Văn TúTài lấy hai thanh sắt đạp vào nhau, hoặc cọ sát mạnh, mụ Câu Hồn giáochủ phải lủi trốn. Vậy bây giờ thử ám trợ Cung Đình bằng cách đó xem côbé có bị thua phải ngưng tay không?

Trương Bỉnh Nhi cầm lấy đôi dao phay đập gõ và cọ xát vào nhau phát ra tiếng leng keng rèn rẹt.

Quả nhiên cô bé đương kịch đấu bỗng nhiên rùng mình một cái, chân taymềm nhũn, lạnh buốt óc, không phóng chưởng giao đấu được nữa. Cô kêu :

- Cung Đình, mày dụng tà thuật hại ta phải không?

Trương Bỉnh Nhi thấy mẹo nhỏ thành công, cứ luôn tay dao leng keng chạyra. Cô nhỏ nghe tiếng kim khí cọ sát càng ớn buốt xương sống kêu rên,hai tay bịt tai lại.

Nhưng đúng lúc đó, tiếng gà gáy sáng đã bắt đầu, Cung Đình giơ chân định đá cho Câu Hồn giáo chủ một đá, tưởng đối thủ trúng phát cước này sẽbay xa trăm trượng, không ngờ khí lực của Cung Đình cũng như của cô béđã theo ánh sáng bình minh tiêu tan mất rồi.

Chân đi hài lớn đá vào mông kêu đánh bịch một cái, Cung Đình ngồi bệt xuống đất, ôm bàn chân la lối :

- Ối, đau chân quá. Bong gân mất rồi.

Câu Hồn giáo chủ cũng hai tay ôm mông nhăn nhó :

- Úi trời đất ơi! Đá làm đau chết cha người ta thế này?

Trái lại Trương Bỉnh Nhi hai tay cầm hai dao phay kề vào tai cô bé gõ ầm ĩ. Cô bé thản nhiên không thấy tiếng kêu leng keng làm khó chịu, CungĐình trố mắt hỏi :

- Bồ mần trò gì mà gõ dao nhăng nhít vậy?

Trương Bỉnh Nhi cảm thấy mình lố bịch. Cuộc đấu võ giữa hai cao thủthượng thặng chấm dứt. Người giỏi võ nhất đám lúc này lại là cậu nhỏ họTrương. Thực là mâu thuẫn, lúc Trương Bỉnh Nhi đỡ cô bé đứng dậy, cô bécũng kêu :

- Anh buông tôi ra, đừng nắm chặt vậy. Làm đau tay tôi.

Còn Cung Đình thì tập tễnh, nhảy lò cò nói :

- Anh đánh vào đầu nó mấy cái cho tôi và bắt nó trả lại cho tôi nửa mảnh bản đồ kho báu.

Cô bé sợ vội đưa mảnh giấy cho Trương Bỉnh Nhi, Trương Bỉnh Nhi cũng thu luôn nửa mảnh giấy của Cung Đình và đỡ hai người vào nhà. Cung Đình vịn vai nói :

- Con nhỏ hồi đêm đó dữ hơn beo vậy ban ngày anh phạt nó quỳ suốt buổi và không cho ăn để trừng phạt mới được.

Cô bé nghe dọa bắt quỳ, hai mắt nhắm tịt lại, khóc òa lên :

- Em bị người ta hành hạ đánh đập khổ sở lắm. Tha tội cho em, thương em với. Đừng bắt em quỳ và nhịn ăn, tội nghiệp.

- Không làm vậy, đến tối mày nổi hung, chúng tao khổ à.

- Không, em xin chừa, không dám đâu.

Mặt trời đã ló dạng tại đằng đông, Phẩm Đại lão công đã phối hợp vớiquan quân, xuất toàn lực kéo về tới nơi xóm nhỏ để diệt trừ bọn hung dữ.

Toán quân tiến rất cẩn thận từng bước, cứ mỗi lần gặp một xác chết bọncướp, mọi người tưởng là giả chết, rụt rè mon men hàng giờ mới dám đụngtới.

Họ không hiểu thần thánh ở đâu đã tận sát lũ cướp bạo tàn. Nhận dạng tên nào cũng thuộc hàng anh chị có tiền án giết người cướp của.

Phẩm Đại lão công nói :

- Những quân trời đánh thánh vật này chết đáng kiếp lắm. Không biết sốphận con gái lão ra sao? Đêm qua vùng này lửa sáng rực trời, sát khi che lấp rừng cây, tiếng hò hét xung sát đánh nhau lớn lắm. Vì thế bọn tráng định của lão thưởng vàng rất hậu mà tên nào cũng co vòi chùn cẳng. Phải chờ ông Tổng quản phái binh tăng viện mới dám đến đây hôm nay. Ai đãgiết nhiều giặc vậy?

- Chỉ có ông Tổng quản triều đình chú còn ai nữa? Ông ta hành binh giỏilắm, một mặt ứng viện chúng ta để dụ địch. Mặt khác ông ta phục kíchgiết giặc tại đây đêm qua chăng?

Quân lính reo hò :

- Hoan hô Tổng quản! Tiêu diệt đảng cướp Mỏ Diều. Phen này chúng ta mỗingười thăng chức ba trật. Lấy bao bố thu nhặt thủ cấp dâng công mau.

- Những xác chết ở trên cao làm thế nào mà Tổng quản đánh nhau trên đó được. Ngựa quan “mọc cánh” hồi nào?

- Ừ nhỉ! Đánh nhau dưới mặt đất thì còn có lý. Trên đời này có ai phingựa lên ngọn cây đánh nhau bao giờ? Thực là một nghi vấn. Chẳng lẽ,giặc sợ ngài quá phóng ngựa chạy trốn tuốt lên ngọn cây?

- Hôm nay chúng ta được ăn thịt ngựa đã đời...

- Thôi bất cần phải tìm biết ai đã giết giặc. Lo tìm tiểu thư lấy thưởng đã.

- Phẩm tiểu thư đâu rồi. Có Phẩm Đại lão công lại giải cứu đây. Ủa, bađứa nhỏ kia còn sống. Hỏi chúng xem có biết có biết chuyện giặc đánhthôn xóm hồi đêm qua ra sao không?

Mấy tên bộ tốt hăng hái chạy lại chỗ ba người. Thấy ở phái trước cótiếng lao xao, người trong làng tưởng giặc kéo thêm binh tới, trốn nhủivô các xó xỉnh như hồi đêm.

Phẩm Đại lão công truyền dẫn ba nhỏ lại hỏi han. Viên Đại đô đầu chống ngọn giáo phưỡn bụng nói :

- Nè, ba em là dân ở đây phải không? Đêm qua em thấy gì nói lại ta nghe.

Cô nhỏ hai mắt ráo hoảnh, nhanh nhảu đáp :

- Đêm qua thằng nhỏ này nó đánh em. Bây giờ nó cậy hai đứa hiếp một,định bắt em quỳ và nhịn ăn suốt buổi. Quan thương em bắt hai đứa bỏ tù.

Trương Bỉnh Nhi cũng cắt ngang :

- Con bé này nó dữ lắm. Quan đừng tin lời nó. Quan thả nó ra đêm nay quan chết.

Viên Đô đầu tức giận cốc cho mỗi người một cái vào đầu :

- Ăn nói hỗn hào. Ta chỉ hỏi tin tức về bọn giặc đánh làng. Ai hỏi chi việc chúng mày đánh nhau?

- Thế thì em không biết. Thằng này nó giết hết bọn giặc. Hỏi nó thì rõ.

Nói rồi cô bé lấy tay chỉ Cung Đình.

Cung Đình chưa kịp nói.

Viên Đô đầu trợn tròn đôi mắt, bàn tay chuối nắm nắm lấy ngực áo Cung Đình hỏi dồn dập :

- Thằng ôn con này giết hết bọn cướp đảng Mỏ Diều hả?

Lúc ông buông tay thì Cung Đình ngã ngồi phịch xuống đất rên ỏm tỏi :

- Đau chết chân tôi rồi ông ơi, tôi đã bảo bị trật khớp bong gân mà không tin?

Viên Đô đầu quay lại hỏi cô nhỏ :

- Tại sao nó đau chân?

- Tại nó đá đít em!

Viên võ quan giơ hai tay lên trời kêu lớn :

- Vỡ đầu tôi mất trời ơi! Nó đá đít mày mà lại bị bong gân, trật xương chân, làm sao nó có thể đánh giết nổi giặc Bạch Khô Lâu.

Cô bé dẩu mỏ xác định :

- Đúng vậy mà, cả hai việc đều đúng sự thật. Ông không hiểu gì hết. Giết giặc là một chuyện còn đá đít tôi là chuyện khác, việc sau còn khó hơnviệc trước nhiều.

Cô bé xoa đôi mông rồi khuỳnh hai tay mạn sườn nhìn thẳng bọn lính làmcả bọn cười ồ, có anh lính ôm bụng cười đến ngã lăn quay, hãy còn cườirũ rượi.

Cô bé ngạc nhiên không hiểu sao mọi người có thể cười một cách quá ư dễ dãi như vậy, cô quay lại hỏi Trương Bỉnh Nhi :

- Tại sao họ cười?

Cậu nhỏ đáp :

- Họ cười cái sống mũi gồ lên của cô, biết chưa?

Cô bé thuận tay tát cho Trương Bỉnh Nhi một cái đánh đốp. Trương BỉnhNhi tức giận định xông vào đánh cô bé. Mọi người can mãi mới thôi.

Trương Bỉnh Nhi hăm dọa :

- Ông không bắt mày quỳ gối suốt ngày nay và ăn cơm khô uống nước lã, ông không phải là...

- Không phải là gì?

- ... Không phải là Trương Bỉnh Nhi!

Nghe tụi nhỏ cãi vã quẩn quanh, viên Đô đầu cho là mất thời gian, sailính đuổi cả ba đi nơi khác và tiếp tục chỉ huy cuộc hành quân lục soát.

Được thả, Trương Bỉnh Nhi và Cung Đình vội dẫn cô bé Câu Hồn về phía cóbánh xe nước và rừng cây. Mục đích đem đi xa như vậy để thi hành lệnhtrừng phạt cô bé, nghĩa là bắt quỳ khoanh tay cẩn thận trong khi hai cậu nhỏ ngắt trái cây ăn ngon lành. Lẽ tất nhiên, lần này cô bé Câu Hồnkhóc chảy nước mắt như hai dòng suối.

Cung Đình cầm trái ổi ngoạm một miếng lớn nhai nói :

- Ta phải cật vấn mày mới được, sau khi cướp đặng viên thuốc của ta màyđịnh đi đâu, làm gì? Nói thật tao mới cho ăn không thì chịu đói.

Trái ổi chín thơm, ngọt lừ.

- Ôi xá xị ngon ghê, nói thật đi, ta cho trái lớn, ăn ngon chết thôi.

- Ta kể thì thôi bắt quỳ và cho ăn nhé.

Trương Bỉnh Nhi gật đầu ưng thuận, Câu Hồn liền kể chuyện :

- Uống được viên thuốc hoàn đồng, ta khấp khởi mừng rỡ định thẳng đườngvào Kinh ám sát Đông Cung thái tử và tìm Ngũ Độc Thiên Nhân hỏi tội. Aidè đi tới vùng đất này thấy trong người bứt rứt, buồn ngủ nên vô rừngnằm ngủ. Sáng dậy, gặp người đi kiếm củi tưởng ta là cô gái bị lạc lốitrong rừng nên đem về nhà.

Cung Đình hỏi :

- Bao nhiêu rắn rết, bò cạp côn trùng và độc dược của mụ đâu?

- Ta tỉnh dậy thấy tứ chi mềm xèo, đi còn không muốn vững nói gì đến túi bát bảo. Trong người mất hết sức lực, rắn rết chết rồi. Ta đành theongười kiếm củi về nhà. Vợ hắn mở quán bán nước, con mụ độc ác quá chừng, bắt ta làm việc chẻ củi, nấu nước, quét nhà. Ta bướng cãi lại nó, nólật sấp ta nằm xuống giường lấy roi mây đánh cho một trận bò lê bò càng. Chịu phép ta phải làm theo lời nó. Tối mệt ngủ như chết, sáng dậy lạiphải tiếp tục công việc ra giếng gánh nước, thổi nấu, hầu hạ khách tớiquán khổ cực trăm bề.

- Làm thế nào ngươi thoát thân được?

- Người chồng tử tế, nhưng con vợ quái ác đem ta bán cho nhà giàu làmđầy tớ. Ta không nghe cũng không được. Vào làm thị nữ tại nhà một phúông ở làng Phú Cường, ta tiếp tục làm công việc phục vụ trong trang.Công việc đỡ khó nhọc nên có một đêm gần đây ta thức giấc. Quần áo banngày đem giặt phơi khô, ban đêm đi ngủ mặc bộ quần áo cũ rộng thùngthình này. Ta trở dậy ban đêm, con chó thấy động cứ cắn ăng ẳng. Tứcmình, ta nhặt hòn gạch ném nó, bất ngờ nội lực xuất phát, con chó chếtnát và đổ một mảng tường. Ta sợ hãi nhà chủ bắt đền và biết khí lực xung hoàn về ban đêm nên trốn ra khỏi trang viện. Ta định tìm đến Bạch KhôLâu, gặp Ngõa Nặc Ô Đồ lệnh cho nó tạm dung dưỡng ta để ta phục hồinguyên lực. Nhưng mà tìm tới nơi thì nó đã xuất quân công phá xóm nhỏchân đồi. Mất công tìm nó suốt đêm thì gặp mày đã giết sạch bọn chúng.Ta nghĩ cần tiền để mua sắm vài thứ cần dùng đến định giật lấy bản đồkho tàng, ai ngờ mày lại đánh thẳng tay keo nữa. Mày đá tao bầm môngđít, có ngày tao sẽ trả thù...

- Được rồi. Mày nghĩ tới chuyện trả thù thì cứ quỳ đến tối. Ngày mai thì ráng quỳ trên tảng đá ong có kiến lửa nha.

- Úi chao, như vậy không dám trả thù nữa, cho ăn đi, đói quá.

Trương Bỉnh Nhi nheo mắt nói :

- Muốn trả thù cũng chẳng được đâu. Tôi có cách khiến ban đêm cô ngủkhò. Ban ngày thì hễ không ngoan ngoãn nghe lời, tôi sẽ bắt quỳ và nhịnđói hoài. Trái lại nếu vâng lời, bảo sao nghe vậy thì tôi sẽ chữa... Mũi gồ cho thành cô gái xinh, tha hồ mà làm đỏm.

Cô gái đưa tay sờ sống mũi, vui thích nói :

- Chỗ này không nhô lên thì đẹp lắm hả. Có thực là thế không? Để tôi lấy dao cắt cho nó hết gồ.

- Nhưng còn để lại vết sẹo giữa mặt thì lại càng xấu xí hơn.

- Ừ nhỉ. Biết làm thế nào bây giờ?

- Nói với anh Cung Đình. Anh biết nấu thuốc làm trẻ người lại thì ắt hẳn cũng biết chế luyện thuốc cao dán hết sẹo.

Lúc này, Phẩm Đại lão công đã tìm thấy con gái. Mọi người thấy tiểu thưđã sống, khoa chân múa tay vui mừng khôn xiết. Sau khi biết rõ câuchuyện hai cậu nhỏ đánh chết Hắc Tinh Tinh và bày mưu thiết lập trận“Quỷ không đầu” dẫn dụ bọn giặc vào tròng, giết hết cả bọn, viên Đô đầumặt ngẩn tò te. Hắn không tin là Giang Nam Hiệp Khách là cậu nhỏ lèokhèo không chịu nổi nửa quả đấm của hắn.

Tuy nhiên Lão Tam trở nên cái đích của đám đông. Họ kính trọng lão đánhxe muôn vàn. Phẩm Đại lão công mời Lão Tam và Châu lão về trang việnchơi. Mọi người sực nhớ đến hai cậu nhỏ, hối hả phái người đi tìm để mời đến làng Phú Cường luôn thể.

Đông Cung thái tử vừa mới thân chinh tiễu phỉ, tuy mới dẹp xong vài bọnthảo khấu nhỏ nhặt. Nay được tin trừ được đám giặc lớn này chắc vui lắm. Thế nào chẳng trọng thưởng cho đám quan quân hạt này.

Tin tức, báo cáo chạy đi chạy về như mắc cửi. Quan quân mang kiệu đếnđón các tiểu anh hùng. Ba cô cậu nhỏ đương nhồm nhoàm ăn trái cây, ngồitrên bờ cỏ thì bị lôi tuột lên kiệu. Muốn kháng cự cũng chẳng có sức,các cỗ kiệu chạy như bay. Chẳng mấy chốc đã tới làng Phú Cường. Dân hàng tổng kéo ra đứng chật ních hai bên vệ đường cung nghinh kẻ đã giết cướp cứu dân.

Họ kháo nhau ầm ĩ, khen đấy và chê bai ngay đấy :

- Nhỏ như trẻ nít mà giỏi võ kinh hồn. Tôi cứ tưởng uy phong lẫm liệt như ông đại tướng.

- Bộ những mã đấy, tôi thổi phù cũng ngã. Không biết sự thực thế nào chứ có lẽ đâu như vậy?

Mười vị phú ông trịnh trọng cùng các cô gái quý đã bận xiêm áo lộng lẫyra đón tiếp. Khi kiệu đỗ xuống, Câu Hồn giáo chủ ríu ríu theo Cung Đìnhvà Trương Bỉnh Nhi đặt chân xuống đất thì trong đám người đón tiếp, cómụ quản gia nhà Lưu Kết lão công la lối :

- Con ôn con thị tì kia, tại sao lại leo lên kiệu của người ta ăn mặc lố lăng coi rõ như hề ra trò kia.

Câu Hồn giáo chủ nghe mụ quản gia xỉa xói vào mặt mình như vậy tức quá,muốn đánh nhưng không dám vì mụ quản gia to béo lực lưỡng hơn. Mụ thụtcho quả đấm nào thì oằn lưng gãy xương rẻ quạt vì quả đấm đó.

Trương Bỉnh Nhi phải can thiệp :

- Chủ nhân của mụ còn phải kính cẩn đón tiếp chúng ta. Cô nhỏ này là bạn ta tức là thượng khách của chủ mi. Tại sao mụ hỗn láo, ta trở mặt đámột cái chết lăn quay bây giờ.

“Anh hùng” Châu Tru cũng được mọi người trọng vọng đứng đấy vội quátmắng mụ quản gia và xin lỗi Trương công tử. Lưu Kết đại phú ông thì vẫntỏ ý hoài nghi. Cung Đình liền kéo Trương Bỉnh Nhi rằng :

- Tụi nhà giàu bao giờ cũng thế. Cái gì nó cũng nghi ngờ. Bộ mã bề ngoài chúng ta không được hấp dẫn cho lắm. Trông chúng ta như lũ phườngtuồng, họ nghi là phải. Hèn chi bọn chúng chẳng lộ vẻ khinh bạc. Tiếcthay, ban ngày ta bị thất tán công lực, Trương Bỉnh Nhi phải ráng bảo vệ ta cẩn thận không thì mất mặt lắm đấy.

Cô nhỏ cũng đi nép bên cạnh Trương Bỉnh Nhi như để nhờ che chở.

Chỉ có Phẩm Đại tiểu thư thực tình kính trọng nhóm tiểu anh hùng, nàngthân hành tiếp đón niềm nở. Bộ ba mạnh dạn tiến vào trang trại. Lúc mờiLão Tam, ông ta lúng túng một tay ôm bao thóc, tay kia không rời bị cỏ.Bảo cụ để lại ngoài xe, cụ nhất định không nghe. Chính Châu lão và đámthanh niên đi theo cũng phải lạ lùng vì tính nết gàn dở của cụ. Họ biếtđâu rằng Lão Tam không muốn ai đụng đến tiền bạc châu báu cất giấu trong đó.

Chẳng biết làm thế nào, mọi người đánh chiều ý Lão Tam vậy. Một ngườimuốn mang đỡ hộ Lão Tam, Lão Tam cũng không nghe, cứ ì ạch tay xách nách mang đi sau rốt.

Trang viên rộng lớn, hết lên thềm rồi lại xuống bậc, qua hành lang nọđến hành lang kia mới tới nhà tiếp khách. Lão Tam mệt quá trượt chân, bị ngã ngửa, thóc trong bao đổ ra vung vãi, nhưng viên ngọc bích, trânchâu lăn trên thềm đá. Bị cỏ cũng rớt làm tiền bạc kêu loảng xoảng.

Mấy vị tài chủ bất giác kêu lên. Tuy nổi tiếng là giàu có nhất vùng,nhưng chưa hề bỏ tiền mua sắm những hòn ngọc lớn như vậy. Hào quang ngọc quý chiếu ra chói mắt, kẻ kéo xe nghèo nàn có của giàu hơn bậc phú ôngtrong làng Phú Cường. Với số tiền vương vãi ra đó, đủ để mua biết baonhà cửa ruộng vườn?

Trương Bỉnh Nhi và Cung Đình chạy tới nâng đỡ Lão Tam dậy và nhặt nhạnh tiền bạc châu báu cho Lão Tam.

Từ lúc đó, mấy vị hào phú đâm ra nhìn lão đánh xe với bộ mặt “e dè”, không còn hợm hĩnh như lúc ban đầu.

Nhất là những kẻ thân tín trong trang viện còn khiếp hơn từ lúc chúngđược mục kích tận mắt thấy cả trăm thủ cấp giặc mà mấy thằng trẻ nít đãchém được do bọn lính thu thập đem về nạp quan đầu tỉnh. Những đầu lâuđó bỏ trong bao bố, chất đống để đầu ngỏ ngoài cổng làng.