Khúc Cầu Hồn

Chương 32



Hunt đứng ngay ở lò sưởi, mắt vẫn để ý Katherine Merrimon. Bà ta ngồi trên ghế sofa trong phòng khách nhà ông Steve, run cầm cập và mặt đỏ bừng. Cứ mỗi phút bà lại đứng dậy và dõi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Yoakum đang trong nhà bếp. Cross cũng vậy. Steve bồn chồn ruột gan và ném cái nhìn sợ hãi về hướng Hunt. Ông ta cố gắng nói chuyện với bà Katherine, nhưng bà tát vào mặt ông ta. “Đây là do lỗi ở ông,” bà nói.

“Cái thằng trời đánh.”

Bà lại tát ông ta.

“Tôi đi ra ngoài đây,” Steve nói. “Tôi cần hút điếu thuốc lá.”

“Đừng có trở lại.” Bà không thèm nhìn ông.

“Katherine...”

Bà nhìn vào khoảng tối và Hunt bước tới trước. “Ra ngoài hút thuốc đi ông Steve. Cho chúng tôi ít phút.”

Ông ta mở cửa. “Được. Sao cũng được.”

Hunt chờ cho đến khi cánh cửa khép lại, sau đó cầm cánh tay bà Katherine và dắt bà vào sofa.

“Chúng tôi sẽ tìm thấy cậu ta.”

“Ông đâu biết điều ấy.”

“Tôi sẽ làm bất cứ điều gì có thể để mang con trai bà trở về nhà. Đó là lời hứa.” Cả hai đều nhận ra tính trống rỗng của lời hứa. Bà Katherine nhét tay vào trong đùi. “Không thứ gì có ý nghĩa hơn đối với tôi, ngay bây giờ. Bà có tin tôi không?”

“Tôi không biết.”

“Tôi hứa, Katherine. Tôi thề.”

Bà gật đầu, hai vai thõng xuống, hai bàn tay vẫn gấp gọn thành một gói nhỏ, hoàn hảo. “Ông có nghĩ ai đó bắt cóc nó không?”

Hunt vất vả lắm mới nghe được tiếng bà. “Không,” ông nói. “Tuyệt đối không.”

“Có thể ai đó quyết định một lời đe dọa suông là chưa đủ.”

Hunt xoay người về phía ghế sofa. “Không có dấu hiệu cạy cửa vào nhà, không có dấu hiệu chống cự. Chiếc xe bán tải của ông Steve bị lấy đi. Johnny biết lái xe. Cậu ta có chìa khóa trong tay.”

“Tôi cần nó trở về. Ông có hiểu không?”

“Hiểu.”

“Tôi cần con trai tôi trở về nhà.”

Hunt nhìn xuyên qua cửa kính. Yoakum xuất hiện ở cửa nhà bếp.

“Clyde,” ông nói, và dùng một ngón tay ra hiệu.

Hunt bước vào nhà bếp. “Chuyện gì đó?”

Yoakum dẫn Hunt vào trong nhà bếp và dừng lại trước một cái bàn nhỏ. “Ông có thấy bất cứ cái gì ở đây làm phiền ông không?” Hunt nhìn vào bàn. Vài cuốn tạp chí, vài lá thư, tờ nhật báo ngày hôm qua và một cuốn niên giám điện thoại đang mở. Ông đang định lắc đầu thì Yoakum nói: “Cuốn niêm giám điện thoại.”

Chỉ mất một giây để thấy. Levi Freemantle, 713 đường Huron.

“Ồ, chết rồi.”

“Tại sao thằng bé lại quan tâm tới gã Levi Freemantle?”

“Nó nghĩ Freemantle biết Alyssa đang ở đâu.”

“Tại sao nó lại có cái ý nghĩ như vậy?”

“Nó nghĩ rằng ông David Wilson có thể nói với gã chuyện đó trước khi chết.” Hunt đóng cuốn sách. “Đây là lỗi ở tôi.”

“Không ai có thể tiên đoán cậu ta sẽ làm những chuyện như thế này.”

“Tôi có thể.” Hunt xoa hai tay lên mặt. “Anh nhóc đó có khả năng làm bất cứ chuyện gì. Tôi thật quá đỗi ngu ngơ khi nghĩ rằng cậu ta sẽ bỏ qua chuyện này.”

“Thế thì phải mau chân lẹ tay lên.”

Họ trở lại phòng khách, nhưng ông Steve sầm sập chạy vào. Ông ta chỉ một tay về hướng bà Katherine, sau đó đóng bàn tay thành một nắm đấm. Hai môi co lại, mặt đỏ bừng. Ông ta khoa chân múa tay, như thể đang cố gắng tự kiểm soát nỗi bực dọc trong người.

“Chuyện gì vậy?” Hunt hỏi.

Steve ném cái nhìn về phía Hunt. Lời lẽ của ông ta bị cắt ngọn, và ông ta lụi mạnh một ngón tay hướng ra ngoài đường. “Cái thằng nhãi ranh lấy cắp luôn cây súng của tôi.”

Mười phút sau, Hunt đã kiểm tra hết các phòng trong căn nhà của gã Freemantle. Ông gọi điện cho Yoakum từ phía phòng khách. “Tôi hụt chân thằng bé rồi.”

“Có dấu hiệu nào cho thấy nó có mặt ở đấy không?”

Hunt bước vào hàng hiên trước nhà và dùng tay sờ cuộn băng nhựa vàng, rách. Phía xa trên con đường vọng lại tiếng chó tru. “Băng nhựa bị kéo rách xuống. Cửa mở.”

“Ta có cần gửi lệnh báo động mọi nơi về chiếc xe bán tải không?”

Hunt cân nhắc. “Nếu Johnny đúng thì sao? Nếu mà gã đàn ông thứ sáu thực sự là cớm?”

“Tôi không nghĩ làm sao chuyện ấy có thể xảy ra được.”

“Nhưng nếu xảy ra thì sao? Chuyện gì xảy ra nếu chúng ta phát lệnh báo động mọi nơi và gã cớm ấy chặn bắt được cậu ta?”

“Ông nghĩ chúng ta nên giữ yên lặng chuyện này?”

“Tôi không biết. Suy nghĩ cái kiểu này thì có hai chục điều sai trái.”

“Tôi cũng nghĩ như ông. Chờ một chút nhé. Cái gì?” Im lặng. Hunt nghe điện, sau đó Yoakum nói tiếp. “À, tổ cha nó.”

“Chuyện gì?”

“Cross nói rằng ông ta đã gọi báo về đồn.”

“Không ai cho phép chuyện đó.”

“Ông ta nói một anh nhóc bỏ nhà đi hoang trong một chiếc xe tải ăn cắp thủ theo cây súng thì không cần suy nghĩ nhiều. Nói thật, tôi cũng không bất đồng ý kiến với ông ta, đặc biệt kể từ khi...”

Yoakum dừng lại và Hunt mường tượng ông ta đi tránh xa khỏi bà Katherine. “Từ khi chuyện gì?”

Tiếng cửa đóng. Ông Yoakum nói giọng thì thào. “Từ khi cậu ta lao ra ngoài kia tìm kiếm kẻ giết người lạnh lùng.”

***

Johnny phải đi hết hai con đường để tìm lối vào nông trại thuốc lá bỏ hoang. Cửa không khóa, đường mòn đầy cỏ dại cao ngất ngưởng và những bụi cỏ gai dại thấp. Jack đóng cánh cửa phía sau họ. Hắn chưa bao giờ đến nhà kho cũ kỹ này. “Tụi mình đi đâu vậy?”

“Cậu sẽ thấy.” Đèn pha xe tải cắt vào trong màn đêm đen thẫm. Những chiếc lá thông chuyển màu từ đen qua xanh lục. Nhựa thông từ những mắt gốc sần sùi phản chiếu sáng bóng, rồi biến mất dạng khi họ đi qua.

Họ đi qua những mương rãnh và suối sâu thành hình sau những trận mưa mùa xuân. Khi họ ra khỏi cánh rừng và đi đến cánh đồng bỏ hoang, bầu trời đêm mở ra trên đầu: cao vút, những vì sao cô độc và vương vấn chút hình bóng trăng khuya đằng sau những tầng mây mỏng. “Hồi trước nơi đây một thời là đồn điền,” Johnny nói. “Sau đó nó chỉ còn là những nông trại.” Con đường rẽ hướng phải, thẳng ra, rồi chia đôi. Johnny đi về hướng trái. “Cậu vẫn có thể thấy cái nơi mà căn nhà lớn cháy rụi.” Cậu lắc mạnh đầu. “Bên kia kìa. Những hòn đá tảng cột ống khói giờ chỉ còn một đống. Miệng ra vào của hầm mỏ cũ.”

“Vậy sao?”

“Bây giờ thì cỏ dại mọc điên khùng. Tớ tìm thấy nó sáu tháng trước đây.”

Cái nhà kho xuất hiện lù lù trước mặt, một bức tường gỗ trên nền nhà đá granite. Cỏ sữa vươn cao, màu xanh và hồng, và dây thường xuân giăng chằng chịt một đoạn dài góc phía đằng sau. Màu đen ngòm xuất hiện nơi những vết nứt tan vỡ thành vôi bụi. Johnny lái xe qua phía bên kia và dừng hẳn. Đường dẫn vào cửa chính nứt nẻ. Gỗ cháy nám và tro than đánh dấu lò sưởi. Johnny gài số để đỗ chiếc xe tải. “Đưa cái ba lô cho tớ.” Jack nhún vai ném ba lô. “Đừng tắt máy xe cho đến khi nào tớ yêu cầu.” Johnny thả cái túi xuống dưới đất và lôi ra chiếc đèn pin. Cậu biến mất vào trong nhà kho, tìm được một cái ba lô mốc meo màu xanh và ba gốc nến. “Được rồi,” cậu nói.

Jack tắt máy động cơ xe tải và ánh đèn pha của xe cũng tắt ngúm. Màn đêm đổ ụp xuống, chỉ còn những tia sáng lấp lóa trên lớp da trắng, những con mắt mở to và áo quần dơ bẩn.

“Nhà gã Ken ở hướng đó.” Johnny trỏ tay với cây đèn pin. “Xuyên qua đám cây. Không xa lắm.”

“Làm sao cậu khám phá ra những thứ này?”

Johnny ngồi bệt xuống và lục lọi tìm hộp diêm trong túi. “Trốn thoát khỏi nhà khi mọi chuyện trở nên tồi tệ. Đi tìm bắt rắn.”

“Về chuyện rắn...”

“Cầm cái này đi.” Johnny đưa cây đèn pin cho Jack, sau đó đặt đèn cầy trên phiến đá granite và thắp sáng lên. Jack nhìn và không nói gì, nhưng Johnny cảm thấy hắn có mặt ở đấy. “Tớ ngủ ngoài này vài lần. Không tệ lắm. Bên trong thì toàn nhện. Muỗi ngoài này khủng khiếp nhất.”

“Tớ chọn đám muỗi.”

“Tớ cũng vậy.”

Jack bỏ cây đèn pin trở lại vào cái túi xanh. “Cái gì đó?”

“Hãy đốt lửa lên.” Johnny đứng dậy và bắt đầu gom củi khô. Mãi về sau, Jack phụ một tay. Cả hai gom những que củi và cành cây rơi. Đám lửa phập phù khi Jack nhặt được một cuốn Thánh kinh cháy dở. Nó được bọc da nhám, màu đen; một phần gáy dài năm phân bị cháy xém. Một số chữ vàng vẫn còn có thể đọc được. Jack cầm nó tần ngần cả phút, và Johnny có thể nói cậu biết nó là cái gì. Cậu nhìn những ngón tay nhỏ bé của Jack lần mò từng con chữ, sau đó cậu đứng dậy, giật phăng nó khỏi tay Jack và vứt vào trong đống lửa. Đứng khom người trở lại, Johnny nhìn thằng bạn mình. Jack không phải là kẻ mà phần lớn mọi người cho là đứa trẻ ngoan, nhưng Johnny biết sự thật rõ ràng hắn tin tưởng vào ma quỷ.

“Tớ sẽ không bị thiêu cháy trong hỏa ngục, nếu đó là điều cậu đang suy nghĩ."

Cánh tay nhỏ của Jack chuyển động. Hắn chỉ vào đống lửa. “Cậu đang làm trò gì vậy Johnny?” Đầu hắn ta ngẩng lên và hai mắt đỏ hoe. “Tớ là đứa trẻ ngoan và tớ vẫn giữ yên lặng. Về tất cả những gì liên quan.” Hắn di chuyển những ngón tay qua mặt một lần nữa. “Những gì họ nói trong tờ nhật báo. Những chuyện cậu giữ bí mật không cho tớ biết. Rắn và may mắn và ba cái lăng nhăng bùa chú.” Hắn lắc đầu. “Nhưng chuyện này thì không đúng chút nào. Cho dù nó là cái gì đi chăng nữa, cậu cũng đâu thể đốt Thánh kinh được. Ngay cả tớ cũng biết điều này.”

“Nó chỉ là một cuốn sách thôi mà.”

“Cậu sẽ hối hận khi nói câu ấy.”

Johnny lên cao giọng. “Nó chỉ là một cuốn sách và nó không giúp ích chuyện gì. Nó không thể làm xoay chuyển tình thế được.” Jack há hốc mồm, nhưng Johnny dộng tiếp những lời nói xuống cổ hắn. “Gã giáo sĩ nói là nó sẽ, nhưng gã ta sự thật cũng chỉ là hạng người tào lao.”

“Chắc tớ phát nôn mất.”

“Thì, đi qua bên kia nếu cậu sẽ làm trò đó.” Johnny đâm một ngón tay vào màn đêm đen thẳm. “Tớ sẽ ăn qua loa buổi tối và tớ không cần thiết phải ngửi mùi ói mửa của cậu.”

Jack nhắm mắt, nhưng khi hắn mở mắt, trông hắn có vẻ đỡ xanh xao hơn. Khi hắn lên tiếng, Johnny biết hắn đã quyết định quên đi mọi thứ. “Cái gì vậy?” Jack hỏi và trỏ tay vào cái túi.

Một làn khói cuộn quấn xung quanh khuôn mặt của Johnny và cậu nheo mắt. “Cậu thực sự muốn biết?”

“Tớ có hỏi mà, đúng không?”

Johnny cởi dây buộc và đổ tung những thứ bên trong túi ra nền đất. Cậu phân chia thành những bó cây cành hoa lá. Trong đó có bốn bó, mỗi bó được cột bằng một sợi dây. Cậu dàn chúng ra hàng ngang, bắt gặp mắt nhìn của Jack. “Tuyết tùng,” cậu nói. “Thông. Vân sam. Nguyệt quế.”

“Rồi sao?”

“Đó là những gì linh thiêng.” Cậu sờ vào chúng, từng bó một. “Khôn ngoan. Quyền năng. Can đảm. Kiên trì. Cậu phải đốt chúng đi.”

“Có phải những thứ của người Da đỏ không?”

“Da đỏ. Và những thứ gì khác.” Johnny gom hết những bó cây và vứt chúng vào màn đêm, xa khỏi đám lửa. Chúng rớt xuống kêu tiếch oạch, và Johnny vỗ xuống mặt đất. “Cậu đói không?” Johnny hỏi. “Tớ đói rồi.”

Cả hai ngồi ăn bánh mì kẹp bơ đậu phộng và uống nước nho lon. Jack liếc nhìn thằng bạn mình và nhìn đi chỗ khác khi Johnny bắt gặp ánh mắt nhìn của hắn. Johnny làm ngơ. Cậu không muốn nói về những chuyện cậu đã làm và chắc chắn không để Jack phán đoán con người của mình. Cậu chùi ngón tay dính bơ đậu phộng vào quần jeans và lượm cây súng lên. Nó nặng và trơn nhẵn. Cậu bật bung trái khế và thấy trong súng nạp đầy đạn.

“Nó không có chốt an toàn,” Jack nói. “Cẩn thận những nơi nào cậu chĩa nòng súng đến.”

Johnny phập mạnh đóng trái khế. “Cậu biết về súng?”

Jack nhún vai. “Bố tớ là ông cò.”

“Cậu biết bắn súng không?”

“Đủ thẳng, tớ nghĩ vậy.”

Johnny tra súng vào bao súng. Cả hai yên lặng và những âm thanh đêm khuya bao bọc xung quanh. Những con thiêu thân bay lượn xung quanh ánh nến đèn cầy và bóng của chúng xà dưới đất. Jack vứt lon nước vào đống lửa để xem liệu nó có cháy bùng lên; bỏng rát đau đớn và nổ tung hay không. “Nè Johnny?”

“Gì đó.”

Jack giữ đôi mắt nhìn vào đống lửa. “Cậu có nghĩ hèn nhát là tội lỗi không?”

“Cậu sợ hay sao hả?”

“Cậu có nghĩ nó là tội lỗi không?” Khăng khăng. Quai hàm mỏng cắn chặt.

Johnny vứt cái lon của cậu vào trong đống lửa. Nhiều giây phút trôi qua và cậu không hề chớp mắt cho đến khi cả hai mắt khô rang. “Gã đàn ông ở con sông, David Wilson. Gã ta biết em gái tớ ở đâu. Gã biết, và tớ bỏ chạy thục mạng trước khi gã có thể nói cho tớ biết.” Johnny nhìn thằng bạn của cậu. “Cho nên, đúng vậy. Tớ nghĩ hèn nhát là hành động tội lỗi.”

“Chúa hoặc không có Chúa.” Hai mắt của Jack mở to và

bất động.

“Điều đó đúng.”

Jack nhìn vào màn đêm và quấn hai tay ôm lấy đầu gối. “Tụi mình làm trò gì ngoài này vậy Johnny?”

Johnny dùng cái cây khều đống lửa. “Nếu tớ nói với cậu, tớ không muốn cậu lạnh cẳng rút lui. Bây giờ cậu cần cho tớ biết là cậu chơi hay không chơi?”

“Nó quá khó để chơi nếu tớ không biết chúng ta đang nói chuyện gì đây.”

Johnny vươn cao vai. “Tớ sẽ chở cậu về nhà ngay bây giờ, nhưng sẽ không làm thế một khi cậu biết tớ đang toan tính làm gì.”

“Chúa ơi, Johnny. Tớ sẽ không nói với ai hết.”

“Chơi hay không chơi?”

Ngang đống lửa, qua màn khói và không khí đốt cháy, Jack chùi cánh tay của hắn ngang mũi. Màu vàng cam ánh lên trên đôi mắt cho đến khi hắn quay đầu, sau đó màu sắc biến mất và hắn chỉ là một đứa trẻ dơ bẩn với màu da nâu bạc phếch và mái tóc dựng đứng chĩa khắp mọi nơi. “Thực sự cậu là tất cả những gì có giá trị với tớ, Johnny. Tớ không nghĩ có một sự hối hận nào đâu.” Hắn xoay trở lại và đôi mắt thật giản đơn. Màu nâu của mắt làm cho Johnny liên tưởng đến đôi mắt con chó. “Nói tớ biết đi.”

“Lại đây.” Johnny lục lọi trong ba lô mang theo từ nhà. Cậu lôi ra cuốn sách về Quận hạt Raven nhưng không mở sách ra. Jack đi xuyên ngang qua đống lửa, ngồi dưới đất, và Johnny giải thích mọi chuyện từ đầu: David Wilson bị hất văng xuống dưới cầu và những gì ông ấy nói; Levi Freemantle, làm sao gã ta nhấc bổng Johnny ở sát mé sông; những vết máu Johnny tìm thấy ở nhà Freemantle.

Jack gật gù. “Trời ơi, Johnny. Những thứ đó cũng đã đăng trên nhật báo. Cùng ngày cậu bị nạn. Không phải tên của gã ta, tớ nhớ là như vậy, nhưng người ta tìm thấy nhiều thi thể trong căn nhà đó. Hai xác người đầu của họ bị đập nát.”

“Tớ cũng đoán ai đó bị giết khi tớ thấy máu me khắp nơi.”

Khuôn mặt của Jack co rúm. “Bộ nhiều máu lắm hả?”

“Chỗ nào cũng máu me, ý tớ là nó như sơn trên tường.”

Cả hai anh nhóc yên lặng trong khoảng một phút.

Như là sơn.

Sau đó Jack lắc đầu. “Tớ không hiểu ba cái chuyện này ăn nhập gì đến bọn mình.”

Johnnny bật công tắc đèn pin và dở ra trang nói về Isaac Freemantle. Cậu chỉ vào tấm bản đồ. “Đây là thị xã.” Cậu di chuyển ngón tay về hướng bắc, khoanh một vòng tròn. “Nơi đây phần lớn là đầm lầy.” Cậu di chuyển ngón tay nhẹ nhàng. “Đây là nơi những khối đá granite trổ dựng lên và có một cánh rừng bạt ngàn nơi những hầm mỏ cũ được khai thác. Cậu nhớ không?”

“Nhớ. Hồi đi thăm mỏ khi còn học lớp bốn, họ bắt tất cả bọn mình nắm tay nhau để không ai đi lạc và rơi xuống hố.” Hắn lúng túng ngượng nghịu, Johnny biết, qua những hồi ức. Không ai chịu nắm cánh tay bị tật nguyền của Jack. Có những lúc chen lấn và xô đẩy, mấy đứa con gái nói thật là kinh hãi!

Johnny kéo tay về hướng nam, đến con đường mòn bên cạnh con sông. “Đây là nơi tớ đụng đầu gã ta, ngay nơi này nè. Còn bên đây là cây cầu.”

“Hiểu chứ.”

Johnny tiếp tục lần theo con đường mòn chạy dọc dòng sông. Ngón tay của cậu dừng ngay gần bờ rìa của đầm lầy. Ở đấy có ba chữ: Rừng Vĩnh Hằng. “Đây là nơi gã ta sẽ đi đến. Đây là nơi chúng ta sẽ tìm được gã.”

“Cậu nói xa vời quá tớ hết hiểu nổi rồi.”

Johnny gấp cuốn sách. “Chuyện này nó đi ngược lại. Ngược lại thời nô lệ.”

“Cái gì?”

“Thời kỳ nô lệ. Tập trung nghe đi. Cậu thấy không, những người nô lệ đến xứ sở này mang theo tôn giáo tín ngưỡng của họ. Những chuyện Phi Châu. Chuyện bộ lạc. Thánh thần súc vật, linh hồn trong nước, mê tín, bùa lú. Họ gọi nó là bùa rễ. Hình nhân. Nhưng những chuyện đó tốt cho người da trắng, bởi vì chẳng ai ở đây muốn họ học hỏi về Giê-su, Chúa và những thứ đó. Họ không muốn một bầy nô lệ nghĩ rằng họ bình đẳng trước con mắt của Chúa. Cậu thấy không? Nếu bạn bình đẳng, thì đâu ai có quyền làm chủ nhân đời bạn. Đó là suy nghĩ nguy hiểm nếu cậu làm chủ một bầy người nô lệ.”

“Cho nên, người da trắng không muốn người nô lệ học chữ.”

“Nhưng họ đã học. Nô lệ Phi châu, nô lệ Da đỏ. Họ học đọc và học Thánh kinh; nhưng họ phải học trong lén lút, bởi vì chính họ cũng hiểu sự nguy hiểm của việc làm này. Họ thông minh hơn những ông chủ nô lệ tưởng. Họ biết họ sẽ bị trừng phạt vì tín ngưỡng của họ. Bị bán đi. Có thể bị giết. Cho nên họ cầu nguyện trong rừng rậm, trong đầm lầy. Những nơi bí mật. Giấu kín. Cậu hiểu không?”

“Không.”

“Cứ nghĩ những nơi đó là nơi ẩn náu an toàn của nhà thờ. Họ gọi những nơi đó là “Rừng Vĩnh hằng,” và họ đến tụ tập ở những nơi đó để cầu nguyện trong bí mật, để che giấu tín ngưỡng của họ từ những người da trắng mà không muốn chia sẻ tín ngưỡng của họ.”

“Rừng Vĩnh hằng? Như cái nơi trên bản đồ.”

Johnny gật đầu. “Họ quá thông minh để xây dựng một nhà thờ bởi vì họ biết ai đó sẽ tìm ra nó. Nhưng trong rừng thì chỉ có gỗ, đầm lầy thì chỉ có bùn đất, nước và rắn rết và những thứ tào lao khác. Cho nên đó là những nơi họ đến quy tụ. Họ ca hát những bài ca ngợi Chúa, nhảy múa trên nền đất, và biểu lộ tín ngưỡng mới của họ.”

“Những chuyện đó có trong cuốn sách?”

Johnny nhìn đi nơi khác, ngần ngại. “Một số trong đó. Nhưng không phải tất cả.”

“Không phải tất cả những gì?”

“Có một người nô lệ tên là Isaac, một người kiểu như ông mục sư. Ông ta dạy dỗ những ai không biết đọc. Ông ta khai phóng chữ nghĩa, mặc dù ông hiểu sự nguy hiểm của nó.” Johnny đập một con muỗi vo ve trên cổ cậu và bóp văng máu bằng ngón cái và ngón trỏ. “Rồi cuối cùng họ cũng bị phát hiện, và ba người nô lệ bị xử giảo ngay tại Rừng Vĩnh hằng, treo cổ lên những cái cây mà họ dùng để làm nhà thờ. Họ cũng sẽ treo cổ Isaac, nhưng ông chủ của ông ta can thiệp. Ông ta cầm chân đám đông với súng trên một tay và cuốn Thánh kinh trên tay kia. Họ nói là ông ta đã gọi Chúa xuống từ trời và doạ nạt sẽ bắn bỏ gã đàn ông nào nhúc nhích một bước. Không ai đủ can đảm thay đổi chuyện đó. Và ông ta đã cứu mạng người nô lệ.”

Jack mê mệt nghe câu chuyện. “Chuyện diễn tiến như thế nào?”

“Ông ta mang ông Isaac về nhà và giấu biến ông trong ba tuần lễ, chờ cho đám đông điên loạn ngoài kia nguôi ngoai, chờ cho một sự ân hận nào đó thấm sâu vào, tớ nghĩ thế. Sau đó ông trả tự do cho người nô lệ đó, và cho ông ta mảnh đất nơi mà những người cùng tín ngưỡng với ông ta vẫn cầu nguyện.”

“Và bị xử giảo.”

“Cả chuyện đó.”

“Và cậu muốn tìm gã này ở đó?”

“Isaac Freemantle sống ở nơi đó suốt cuộc đời ông ta. Có thể Freemantle vẫn vậy. Con đường mòn đi thẳng đến đó. Có lẽ nó là con đường mà họ đi ra thị xã và trở ngược lại.”

Jack cau mày. “Làm sao mà cậu biết được những điều này? Cậu nói nó không có trong sách mà.”

“Ông kỵ của tớ tên là John Pendleton Merrimon. Cùng tên với tớ.”

“Rồi sao?”

“Ông chính là người một tay cầm súng, tay kia cầm cuốn Thánh kinh.” Johnny vứt một khúc cây vào đống lửa. “Chính ông là người đã giải phóng cho Isaac.”

“Thôi đi.”

“Sự thật.”

“Và cậu muốn đi vào khu đầm lầy, để tìm người cháu chắt hay gì đó của ông ta, một gã giết người, để cậu hỏi thăm gã ta về Alyssa?” Johnny gật đầu một cách quả quyết, và Jack lắc đầu. “Cậu nghĩ gã ta mang nợ nần gì cậu sao?”

“Tớ không nghĩ gã ta biết tớ là ai.”

“Cậu là thằng ngốc. Ý tớ là, cậu thì khùng điên hết nước rồi.”

“Điên hết thuốc chữa.” Giọng của Johnny cay đắng. “Thật là khôi hài!”

“Không phải chuyện đùa cợt đâu. Cái này ngu xuẩn lắm Johnny. Thần kinh!”

“Không làm tớ thay đổi ý định. Đó là những gì cậu đã nói.”

Jack luống cuống đứng lên, tiếng nổ của củi than trong đống lửa kêu tí tách. “Chúa ơi, Johnny. Gã này mới giết hai mạng người. Gã sẽ giết luôn cả chúng ta. Chắc chắn không chạy vào đâu.”

Johnny cũng đứng dậy. “Đó là lý do tại sao tớ mới vồ cái này.” Cậu lôi ra cây súng của ông chú Steve từ bao súng, và những quỷ sống đầu trâu mặt ngựa của lửa nhảy múa trên kim loại.

“Cậu điên mất rồi.”

“Và cậu sẽ chơi chúng với tớ chứ?”

Jack nhìn quanh quẩn như thể tìm kiếm hỗ trợ; nhưng xung quanh không có ai. Bóng tối bao trùm và bầu trời phủ chụp xuống. Jack dang rộng đôi tay và cặp mắt năn nỉ cậu. “Chuyện đã một năm rồi Johnny.”

“Đừng có nói như vậy!”

Jack nuốt nước bọt, nhìn một cách tuyệt vọng về phía đằng xa ngoài đống lửa; và buông lời nói. “Con em gái của cậu chết toi mất rồi.”

Johnny vung mạnh hết sức bình sinh. Cú đấm trúng vào một bên mặt của Jack và hắn lăn đùng ra đất. Johnny đứng ngay trên người của Jack, hơi thở của cậu như là có kính vỡ trong thanh quản, cây súng là một vật mang sức nặng trên tay cậu. Trong giây phút đó, thằng bạn lớn tuổi nhất không phải là bạn, mà là kẻ thù của cậu; Johnny kinh ngạc tại sao cậu lại nghĩ Jack có thể hơn như vậy. Sau đó cậu nhìn thấy sự kinh hãi trên khuôn mặt của thằng bạn.

Sự nóng giận vụt thoát ra khỏi cơ thể của Johnny, và cậu bỗng nhiên nhận thấy bầu trời bất thình lình đen thẫm và to lớn. Cậu thấy chính cái bản lai diện mục của cậu qua cặp mắt của Jack, và biết, biết rất rõ, cậu là một thằng điên khùng. Nhưng điều ấy cũng không thay đổi được chuyện gì.

“Tớ phải đi đây.”

Nắm tay đấm của Johnny buông thõng. Jack đẩy người đứng lên từ dưới đất.

“Làm ơn, đừng bắt tớ phải đi một mình.”