Khúc Cầu Hồn

Chương 27



Steve lèo lượn chiếc xe tải đi ngang qua thị xã. Ông đi qua nhiều cửa hiệu và những dinh thự cột trụ, quảng trường thị trấn với vòm mái là những cây sồi uốn lượn và bức tượng dựng lên hơn một trăm năm trước để vinh danh những người chiến sĩ vong trận thời nội chiến. Johnny thấy một bụi tầm gửi trên một cái cây, và nghĩ đến người con gái một lần cậu dám hôn nàng, cho đến giờ cậu không tài nào hình dung lại được khuôn mặt cô nữa.

Một cuộc đời khác.

Khi đã đi qua quảng trường và khuôn viên viện đại học địa phương ngập tràn ánh nắng, Steve rẽ xe vào con đường bốn làn xe dẫn đến thương xá. Nó là khu thương xá của ông Ken. Ông ta làm chủ. “Chú đi đâu vậy?” Johnny hỏi.

“Tôi phải ghé ngay chỗ làm. Sẽ không mất thời gian đâu.”

Johnny trồi xuống cái ghế ngồi. Steve hiểu ý. “Gã Holloway sẽ không có mặt ở đây đâu,” ông ta nói. “Chẳng bao giờ.”

“Tôi đâu có sợ gì gã Ken.”

“Tôi có thể chở cháu đến nhà tôi trước.”

“Tôi đã nói tôi không sợ.”

Cười nửa miệng. “Sao cũng được.”

Johnny gượng người ngồi dậy. “Tại sao ông ta quan tâm quá nhiều đến mẹ tôi?”

“Gã Holloway đó hả?”

“Gã đối xử với mẹ tôi như đồ bỏ.”

“Bà ấy là người phụ nữ đẹp nhất ở tiểu bang này, hay là cháu không để ý đến điều này?”

“Còn nhiều hơn thế ấy chứ.”

Steve nhún vai. “Gã Holloway không thích bị mất.”

“Mất gì?”

“Bất cứ thứ gì.” Sự bối rối của Johnny thể hiện rõ, và Steve thấy điều đó. Ông ta chau mày và rít một hơi thuốc. “Cháu không biết, có đúng vậy không?” Ông ta lắc đầu. “Chúa ơi, thánh cả của muôn loài.”

“Gì vậy?”

“Ngày trước mẹ cháu hay hẹn hò cặp kè với gã Ken Holloway.”

“Tôi không tin.”

“À, cháu nên tin.” Steve tần ngần, kéo dài thêm thời gian. “Lúc đó bà ta mười tám tuổi, có thể mười chín. Chỉ là một cô gái, thật vậy.” Ông ta lắc đầu, mím chặt hai môi. “Mẹ cháu bốc lửa hơn cả cây súng ba đô-la. Lẽ ra bà ấy có thể đến Hollywood, có thể. New York, chắc chắn. Bà ấy không hề đi, dĩ nhiên, nhưng có thể.”

“Tôi vẫn không tin.”

“Gã ta lớn tuổi hơn, nhưng ở thời điểm ấy gã đã là người đàn ông giàu nhất vùng. Không giàu như bây giờ, cháu không màng chứ, nhưng đủ giàu có. Một cô gái trẻ đẹp khó mà cự tuyệt sự chú ý đầy áp lực một khi gã đã quyết định tấn công, và mẹ cháu không khác gì so với phần lớn các cô gái. Hoa. Quà. Những bữa ăn tối thịnh soạn. Bất cứ cái gì gã ta có thể nghĩ ra được để làm bà ấy cảm thấy mình quan trọng.”

“Mẹ tôi không phải hạng người như vậy.” Johnny giận dữ.

“Bây giờ thì không. Nhưng người trẻ thích có cái cảm giác huênh hoang hơn nơi chốn họ xuất thân. Nó kéo dài khoảng vài tháng, tôi đoán vậy. Nhưng sau đó bố cháu trở về thị trấn.”

“Trở về từ đâu?”

“Quân đội. Bốn năm. Ông ấy lớn hơn mẹ cháu sáu tuổi. Bảy tuổi thì phải? Thì, bà ta chỉ là một cô con gái bé nhỏ khi ông ấy nhập ngũ, nhưng mọi chuyện đã thay đổi.” Steve cười và huýt sáo nhẹ nhàng. “Cậu bé, mọi chuyện thay đổi làm sao!” Johnny dõi mắt nhìn ra cửa sổ, Steve tiếp tục. “Bố cháu rơi xuống chân bà ấy như khối sắt nặng ngàn cân.”

“Mẹ tôi cũng vậy chứ? Ý tôi là mẹ tôi cũng thế với bố tôi?”

“Mẹ cháu như một con bướm, Johnny ạ. Xinh đẹp, nhẹ nhàng và mong manh. Bố cháu yêu cái vẻ đó của bà và trân trọng nó. Ông ấy nhẹ nhàng và kiên nhẫn, cháu cũng cần phải có đức tính này để con bướm đậu xuống bàn tay cháu.”

“Còn gã Holloway?”

Steve dụi tắt điếu thuốc lá, nhổ nước bọt ra cửa sổ. “Gã Holloway chỉ muốn nhốt bà ta vào cái lọ.”

“Và bà ấy khám phá ra dụng ý của gã?”

“Cháu phải nhìn khuôn mặt của gã khi mẹ cháu tuyên bố sẽ bỏ gã để theo bố cháu.”

“Thịnh nộ?”

“Thịnh nộ. Ghen tức. Gã theo đuổi bà rất dữ, cố gắng thay đổi ý định trong đầu bà, nhưng ba tháng sau bố mẹ cháu làm đám cưới. Cháu ra đời một năm sau đó. Nó là cú đá hồi mã thương ác liệt nhất mà tôi từng chứng kiến, và tôi cũng không biết gã Holloway có bao giờ nguôi được vết thương lòng không.”

“Nhưng bố tôi làm việc cho gã Holloway. Tất cả những căn nhà bố tôi xây, lúc nào cũng thấy mặt gã Holloway ở đó.”

“Bố cháu chỉ thấy cái tốt trong bụng dạ con người. Nó là đức tính tạo nên con người đôn hậu của ông. Nhưng gã Holloway chỉ chờ có cơ hội là ra tay chôn sống ông.”

“Bố tôi không biết sao?”

“Chú có nói nhiều với ông ấy, nhưng bố cháu luôn nghĩ ông ấy có thể cầm trịch gã ta. Ông ta hãnh diện như vậy.”

“Tự tin,” Johnny nói.

“Kiêu ngạo.”

Chiếc xe bon bon trên mặt đường đen thui. Sợi dây curoa bất thình lình rít lên. “Chú làm việc cho gã Holloway.”

“Đâu phải tất cả chúng ta đều có sự chọn lựa, Johnny. Đó là một bài học về đời sống cho cháu. Không tốn tiền.”

Steve dừng chiếc xe tải trước bảng đèn giao thông. Từ phía đằng xa, thương xá của gã Holloway vươn lên sừng sững như chiếc pháo hạm. Johnny nhìn mặt Steve, và cậu nói, một điều liên quan đến mẹ cậu. “Có phải chú muốn hẹn hò với mẹ tôi?”

Đôi mắt Steve dứt khoát như mắt rắn. “Quỷ thần, con trai ơi.” Đèn giao thông bật xanh. “Ai cũng muốn như vậy.”

Bãi đậu xe kín bưng nhắc Johnny hôm nay là thứ Bảy. Steve đậu xe gần chỗ ra vào của nhân viên ở phía đằng sau. Khi ông ta mở cửa xe, kính chiếu hậu phía bên ông ta hắt ánh nắng mặt trời vào mắt Johnny. “Đi thôi!” ông ta nói.

“Tôi có thể chờ trong xe được không?”

“Phía đằng sau này quá nguy hiểm. Vô gia cư. Nghiện ngập. Chúa mới biết còn thứ gì nữa.” Johnny nhìn khi Steve sờ những thứ gắn trên thắt lưng: Hơi cay, điện đàm, còng. “Nhanh lên. Tôi sẽ chỉ cho cháu những thứ hấp dẫn.”

Bên trong, thẻ vào cửa cho phép đi vào một cánh cửa hẹp, cầu thang kim loại, và hành lang lầu ba dẫn đến văn phòng ghi chữ AN NINH. Steve quẹt thẻ và dựa vai vào cánh cửa văn phòng. “Con nít không bao giờ có cơ hội xem những thứ này.”

Văn phòng an ninh là căn phòng to lớn và phức tạp, với hàng loạt đầu truyền hình lắp kín các bức tường. Hai người nhân viên an ninh ngồi ở ghế đen có bánh xe xoay, tay đặt trên bàn phím và cần điều khiển, thay đổi hình ảnh trên màn hình, phóng to, thu nhỏ, quan sát. Cả hai đều quay lại khi Johnny bước vào, đoạn tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi sau lại quay đầu lại nhìn kỹ một lần nữa.

Một người trạc hai mươi mấy, to béo, với mái tóc húi cua ngắn và khuôn mặt cạo trơ nhẵn nhụi. Nụ cười của y vừa thán phục vừa bất cần. “Đây là anh nhóc đó hả?”

Steve đặt một tay lên lưng Johnny, đẩy cậu vào sâu hơn trong văn phòng. “Cháu tôi. Đại loại vậy.”

Người nhân viên an ninh to béo đưa bàn tay chắc nịch, và Johnny quan sát bàn tay thật kỹ trước khi bắt nó.

“Làm tốt lắm, nhóc. Ước gì tôi cũng có mặt ở đó.”

Johnny nhìn ông chú, ông ta thốt ra hai chữ. “Tiffany Shore.”

Người nhân viên an ninh đưa bàn tay như thể bóp cò súng. “Pằng.”

“Tôi không muốn nói về chuyện đó,” Johnny nói.

Nhưng người đó sốt sắng. “Cậu xem cái này chưa?” Y lôi ra tờ báo từ quầy. “Trang nhất. Đọc cho biết.”

Bức ảnh chụp Johnny, chụp qua cửa kính khi cậu ngồi cầm lái chiếc ô tô của mẹ cậu. Hai tay ôm chặt vô-lăng. Miệng há hốc, khuôn mặt kinh ngạc và trống rỗng. Máu thấm ra mọi thứ, những nơi máu khô đã sậm màu, còn tươi nơi nó thấm ướt vết thương trước ngực. Những lông chim và đuôi rắn chuông ánh sắc đen trên da, cái đầu lâu màu mỡ gà như hòn đá nhúng vào trong mật ong. Tiffany nằm dài người trên băng ghế ngay phía đằng sau, ánh nắng gay gắt chiếu trên khuôn mặt làm vỡ tan cặp mắt của cô. Những người đàn ông đóng bộ sạch sẽ với những cánh tay dài với xuyên qua cửa sổ kéo cô ra ngoài, nhưng cô đang chống cự, mồm cắn chặt, những ngón tay tuyệt vọng bám chặt vào cánh tay của Johnny.

Dòng chữ ghi dưới tấm ảnh: “Trẻ mất tích được tìm thấy, kẻ ấu dâm bị giết.”

Giọng Johnny nghẹn ngào thì thào. “Họ lấy tấm ảnh này từ đâu vậy?”

“Gã bảo vệ ở bệnh viện chụp nó bằng di động của ông ta. Họ cũng dùng bức ảnh này trên hệ thống CNN.” Gã nhân viên an ninh béo lắc đầu. “Có thể phải chi cho gã ta một số tiền lớn.”

Steve bước tới trước Johnny và đẩy tờ nhật báo đi chỗ khác. “Cậu ta không cần thiết nhìn thứ đó.”

Anh nhân viên an ninh xoay người khi y quan sát khuôn mặt của Johnny, thấy bóng tối xâm chiếm nhiều hơn ở những chỗ lõm. “Tôi không hề có ý gì.”

“Ông chủ có trong phòng không?” Steve ngắt lời.

Anh nhân viên an ninh gõ một ngón cái vào cánh cửa văn phòng nhưng mắt vẫn dán vào Johnny. Johnny dõi theo cái nhìn chằm chằm của Steve và trông thấy một cánh cửa sổ với rèm trắng phủ đầy bụi bặm. Một con mắt nhìn ra bên ngoài và cái rèm đóng ngay. “Chết rồi,” Steve lẩm nhẩm. “Không biết có phải gã đang đi kiếm mình?”

“Có phải thế không?”

Steve nhún vai, nhưng trông bồn chồn. “Có gì hấp dẫn không?”

“Một tên khách hàng ăn cắp. Hai D-và-D.”

Steve giải thích. “Say rượu và gây rối.” Ông ta đập nhẹ lên vai Johnny và bước ngang qua phòng. “Lại đây,” ông nói, và Johnny theo sau lưng ông ta đi qua những dãy đầu truyền hình đến một bức tường kính cao ba mét và dài gấp đôi. Từ đây nhìn được xuống khu vực bán hàng ăn uống. Steve gõ nhẹ vào tấm kính. “Sự phản chiếu”, ông ta nói.

Johnny nhìn xuyên thấu qua cửa sổ và có thể thấy tất cả mọi thứ dàn bày ra ở phía dưới: các cửa hiệu và hàng ăn, thang máy, người đi mua sắm. Anh nhân viên an ninh to béo nhẹ nhàng bước tới, bụm hai bàn tay lại và thở ra nặng nề. “Đây phải là điều mà Chúa cần thấy.” Johnny muốn cười vang ở lời nói ngớ ngẩn và sự ti tiện trong nó. Nhưng ngay lúc đó cậu thấy Jack.

Mặt đỏ bừng, xấu hổ, dạng điệu khác thường.

Hắn đứng ở ngoài rìa đám đông, một cậu trai nhỏ người, da ngăm với một cánh tay teo lại và không có ý nghĩa gì so với toàn cơ thể. Hắn đứng, chịu đựng, bởi vì có chống chọi cũng không giúp hắn đi đến đâu, và vì nếu bỏ đi chỉ nói lên một điều hắn thực sự quan tâm về chuyện sự sỉ nhục đang được phủ chụp lên hắn. Những kẻ hành hạ hắn già đầu hơn hắn, những đứa trẻ thì cười tự tin.

Johnny cúi hụp người xuống khi cậu thấy nước dãi nhổ xuống phía đằng sau áo sơ mi của Jack; nhưng sự giận dữ của cậu lên tới đỉnh điểm khi cậu thấy anh của Jack, đứng cách xa khoảng ba mét và không làm gì để can thiệp. Hắn ta đang được các cô gái nịnh bợ bu quanh, ít nhất là bốn cô.

Johnny chỉ. “Chú thấy chuyện đó không?”

Steve chồm người về phía trước. “Geral Cross? Thấy, tôi thấy. Những đứa con gái vẫn vậy kể từ khi y ký giao kèo chơi cho Clemson. Y sẽ chơi chuyên nghiệp trong vòng một năm. Giao kèo của y sẽ trị giá ít nhất chục triệu đô.”

“Không phải y.”

“Chứ chuyện gì?”

“Tôi xuống dưới đó được không?”

Steve nhún vai. “Đi. Ở. Tôi không phải bố của cậu.”

***

Johnny lao nhanh xuống cầu thang, qua cửa an ninh và lao vào đám đông. Cậu ngửi thấy mùi bánh pizza và thịt bò nướng cháy, mùi mồ hôi trên những cơ thể quá nóng và, đâu đó, mùi tã trẻ con chưa thay. Cậu phóng ngang đến chỗ Jack và nghe thấy tiếng thì thào gọi tên cậu. Nhiều ngón tay chỉ trỏ.

Nó đấy.

Mất cả phút để Johnny hiểu ra, cậu đã hiểu.

Nơi đâu cũng lào xào câu chuyện.

Khi Johnny vượt ngang qua khu vực ăn uống, hàng chục người dõi theo bước chân cậu, nhưng cậu không thèm quan tâm. Một gã lớp trên đấm vào cánh tay tật nguyền của Jack, chạm vào khu vực dưới bả vai nhiều thịt, ngay chỗ xương rỗng không có chức năng bảo vệ. Jack cố gắng giấu sự đau đớn, nhưng Johnny thấy bạn của mình sắp sửa khóc.

Johnny lồng lộn lao vào nhóm người và đấm gã lớp trên một cú bằng hết sức bình sinh. Tay cậu chạm vào mồm gã, cảm nhận được râu ria, răng, và cặp môi dày bầy hầy. Gã chúi về bên trái, lấy thăng bằng, hai tay vung lên, giơ nắm đấm. Y co tay định tung quả đấm, thì nhận ra Johnny. “Ui trời,” y nói. Johnny nhìn đôi mắt nâu kinh ngạc của y, hàm răng ngả màu, và mái tóc dài thậm thượt xịt keo đâm nhọn. Gã trai nhổ ra đống máu rồi bỏ đi. “Tổ cha cái đồ lập dị.”

Johnny tức giận run người, với tất cả những gì tiêu biểu cho con người mình khi bước vào bệnh viện ướt đẫm máu và cả năm trời yên lặng. Gã trai hiểu nhầm cái run người là do sợ hãi và bắt đầu mỉm cười, rồi nhìn qua đầu Johnny hướng về đám đông đang đứng nhìn. Gã hạ tay xuống, cố gắng gượng cười. “Thường thôi, Pocahontas.”

Không một ai cười. Johnny là người nổi tiếng dị thường, một đứa trẻ quái gở, hoang dã với cặp mắt đen hoang dại. Cậu từng chứng kiến những chuyện mà lẽ ra không cậu bé nào đồng trang lứa được biết. Cậu mất người em song sinh, tìm được Tiffany Shore, và có thể đã giết một gã đàn ông.

Cậu là sơn và lửa của chiến tranh.

Cuồng trí.

Johnny giơ một ngón tay lên, sau đó nhìn vào đôi mắt sáng rực, long lanh của bạn cậu.

“Hãy đi ra khỏi đây.”

Cậu bắt đầu đi, thì thấy Gerald, đứng phía sau ba hàng, cao lớn to con, mái tóc vàng nâu và da dẻ có màu như gạch ngói nung. Johnny kéo Jack đi theo cậu, và đám đông giải tán. Cậu dừng trước Gerald và thấy đám đông các cô gái lùi bước thế nào, trông Gerald trơ trụi làm sao khi không đứng cùng bọn họ.

Johnny lôi Jack ra khỏi cái bóng của cậu và bá tay vào cổ bạn. Cậu không thấy người bạn của cậu hạ mắt xuống và buông thõng người, cũng không thấy sự tủi hổ, sợ hãi và sự co quắp, bồn chồn ở bạn. Gerald như toà lâu đài phủ bóng lên Johnny, cao hơn cậu hai mươi lăm phân, nặng hơn bốn lăm cân. Hắn là sức sống ngày hè và cỏ xanh, một thần tượng đầy triển vọng đang lên, nhưng những người đang nhìn không ai không hiểu người nào đang làm chủ tình hình. Johnny giơ ngón tay, đâm nó vào phần ngực đầy thịt của Gerald. “Hắn là em trai của anh, đồ mắc dịch. Anh mắc cái chứng gì vậy?”

Hai cậu bé dõi mắt quan sát đám đông yên lặng. Johnny nhìn thẳng phía đằng trước và cố gắng tránh chạm mắt, nhưng cậu nhận ra một người, một kẻ lớp trên khác, cao lớn với mái tóc hung vàng và hai mắt mở rộng. Y là Allen - con trai của Thám tử Hunt. Ở dòng sông. Đứng riêng lẻ một mình, đi ủng mũi thép và mặc áo khoác jeans, y đứng dựa lưng vào một cái cột tít phía đằng sau đám đông. Cây tăm xỉa răng lăn tròn giữa hai hàm răng, cặp mắt chăm chú trông chừng. Khi Johnny nhìn thẳng vào y, y không buồn chớp mắt hoặc chuyển dịch. Chỉ có cây tăm. Từ bên này mồm qua bên kia mồm.

Cánh cửa an ninh nhận thẻ chìa khoá mà Steve đưa cho cậu. Cửa tách mở và Johnny đi vào, bên trong là khoảng không gian mát lạnh, mùi xi măng và mùi ẩm ướt. Cầu thang nằm bên tay phải và dưới gầm là khoảng không gian thấp, xám xịt. Jack ném người xuống sàn nhà, lưng tựa vào tường, hai chân kéo lên. Johnny ngồi cạnh bên hắn. Bã kẹo gum nhả ra lấm tấm mảng đen dưới thảm trải sàn. Một chiếc giầy của Jack bị bung dây. Quần jeans của cậu, nơi đầu gối, vấy bẩn đầy vệt cỏ.

“Ừm,” Johnny nói. “Tệ quá.”

Jack giấu mặt vào đầu gối còn Johnny nhìn lên trên. Ngón tay của cậu lần mò ra một chiếc đinh tán, rồi cả một hàng đinh trên tường. Khi Jack ngẩng đầu lên, Johnny thấy những điểm ướt làm cho những chỗ bị vấy bẩn vệt cỏ biến thành màu đen.

“Cậu tìm ra chỗ này thế nào đấy?”

“Chú Steve.”

Jack rít nhanh hai hơi thở, quẹt nước mũi dọc theo phía đằng sau cánh tay tật nguyền.

“Bọn chó chết!” Johnny nói.

Jack hít. “Đồ cá tra.”

“Phải rồi. Đồ chùi háng.”

Jack cười, một sự giải toả trong lo sợ, và Johnny dễ chịu phần nào. “Chuyện gì xảy ra ngoài đó vậy?”

“Hắn muốn tớ nói điều gì đó,” Jack giải thích. “Tớ không làm.” Johnny nhìn nghi vấn và Jack nhún vai. “Kẻ mạnh làm cha. Thằng tật nguyền rớt dãi thèm.”

“Tổ cha thằng Gerald. Tay cậu sao rồi?”

Jack xoay vòng cánh tay, rồi ép mạnh nó trên ngực mình. Hắn chỉ vào ngực Johnny. Băng hiện rõ qua những nút áo. “Cậu chảy máu kìa.”

“Tớ làm rách vài mũi khâu.”

Jack trố mắt nhìn những chỗ băng bó. “Có phải cậu bị tối hôm nọ không?”

Những miếng băng đen dần. Johnny kéo áo sơ mi gần lại.

“Lẽ ra tớ phải đi theo cậu, Johnny. Khi cậu yêu cầu trợ giúp, lẽ ra tớ phải đi với cậu.”

“Chẳng thay đổi được gì đâu,” Johnny nói.

Jack đấm vào chân mình. “Tớ là thằng bạn tồi.” Cú đấm tạo âm thanh nghe như búa đấm trên da thịt. “Tớ là - hắn ngưng, rồi đấm tiếp - “thằng bạn tồi.”

“Ngưng chuyện này dùm cái.”

“Tớ chẳng làm được gì cho Alyssa.”

“Cậu cũng không thể.”

“Tớ thấy chuyện đó xảy ra mà.”

“Cậu cũng đâu thể làm gì khác hơn được, Jack.”

Nhưng Jack làm ngơ. “Tớ đã không giúp được cậu điều gì.” Hắn lại đấm mạnh.

“Thôi đi Jack.”

Jack ngừng tay. “Chuyện đó có thật không?” Hắn nhìn Johnny. “Những thứ người ta nói về cậu? Cậu biết mà?” Hắn làm điệu bộ, những ngón tay lúc lắc. Johnny hiểu ý hắn. “Tớ nghĩ một vài thứ đúng.”

“Chuyện gì vậy Johnny?”

Johnny nhìn cậu bạn, và biết, không chút nghi ngờ gì, rằng Jack sẽ không bao giờ hiểu được cần phải tin tưởng mạnh mẽ vào sự liều lĩnh của Johnny hơn chính đôi tay của cậu ta. Jack không bao giờ cảm nhận được sự mất mát hoặc nỗi sợ hãi. Hắn chưa bao giờ sống trong cơn ác mộng đã trở thành một phần trong đời sống của Johnny, nhưng hắn cũng không phải hạng người quá ngu đần. Johnny cũng phải nói với hắn một vài điều.

“Cậu có nhớ cuốn sách tụi mình đọc trong giờ Văn học không? Chúa ruồi? Về những cậu nhóc trên một hoang đảo và bọn nhóc ấy sống cuộc đời rừng rú thế nào khi không có người lớn đứng ra hướng dẫn. Bọn nhóc sáng chế gươm giáo và thuốc màu máu. Bọn nhóc sống hoang dã trong rừng, săn bắn heo, đánh trống. Cậu nhớ không?”

“Nhớ. Rồi sao?”

“Họ sống yên ổn, rồi một ngày những quy luật không còn ý nghĩa gì nữa. Họ tự tạo quy luật riêng của họ, niềm tin riêng của họ.” Cậu ngừng. “Đôi khi tớ có cảm giác mình giống những anh nhóc đó.”

“Những anh nhóc đó cố gắng tiêu diệt lẫn nhau. Bọn họ trở nên điên loạn.”

“Điên?”

“Ừ.”

Johnny nhún vai. “Tớ thích cuốn sách ấy.”

“Cậu là thằng ngốc.”

“Có thể.”

Jack nhặt sợi chỉ trên chiếc quần jeans, nhìn thềm xi măng và cầu thang ở xung quanh. “Tớ nghĩ cậu thù ghét chú Steve của cậu.”

Johnny giải thích về Sở Xã hội, Thám tử Hunt. “Đó là lý do tại sao.”

“Tớ sẽ không làm bất cứ điều gì cho gã cớm ấy,” Jack nói.

“Ý cậu là sao?”

Hắn vẫy một tay. “Những chuyện tớ nghe từ bố tớ. Chuyện cớm.”

“Như là?”

“Như chuyện ông ấy ngọt ngào với mẹ cậu. Rằng họ từng... cậu biết mà.”

“Tào lao.”

“Đó là những gì bố tớ nói.”

“Thì, bố cậu là đồ tào lao.”

“Có lẽ vậy.”

Một thoáng yên lặng. Lần đầu tiên hai đứa trái nghịch nhau. “Cậu muốn ngủ ở đây qua đêm không?” Johnny hỏi. “Nó chỉ là nhà ông Steve, nhưng, cậu biết...”

“Bố tớ không muốn tớ giao du với cậu.”

“Tại sao không?”

“Là vì Chúa ruồi. Ông ta nghĩ cậu nguy hiểm.” Jack ngả đầu về hướng bức tường. Johnny cũng làm tương tự. “Nguy hiểm,” Jack nói. “Nguy hiểm mới hay.”

“Nhưng chẳng hay ho nếu chúng ta không chơi chung với nhau.”

Cả hai rơi vào im lặng một lúc lâu. “Tớ thực sự thích bố cậu,” Jack nói. “Ông ấy làm tớ cảm nhận cánh tay tật nguyền không phải là vấn đề.”

“Chẳng là gì cả.”

“Tớ chán ghét gia đình tớ.”

“Không đâu, sao vậy được!”

Jack quàng hai cánh tay vòng quanh đầu gối và những ngón tay trở nên trắng bệch khi hắn bóp chặt. “Cậu nhớ hồi năm ngoái không? Khi tớ bị gãy tay ấy?”

Cánh tay đã yếu, nó bị gãy một cách dễ dàng. Johnny nhớ ít nhất ba lần Jack phải bó bột. Nhưng lần gãy tay hồi năm ngoái là lần nặng nhất, nó gãy đến bốn chỗ. Để chữa lành cần phải giải phẫu thêm: thêm vào nhiều ốc vít, chốt và những mảnh kim loại khác. “Tớ nhớ.”

“Gerald là tác giả chuyện này.” Bàn tay nhỏ bé nhảy múa ở điểm cuối của xương cổ tay hẹp. Giọng của Jack cũng trầm xuống. “Đó là lý do tại sao ông bố tớ mua cho tớ chiếc xe đạp mới toanh.”

“Jack...”

“Đó cũng là lý do tại sao tớ chưa bao giờ dùng nó.”

“Tào lao quá đi.”

“Tớ chán ghét gia đình tớ.”