Hẳn Là Yêu

Chương 3



Gabrielle gọi điện cho luật sư kinh doanh của cô, người này lại cho cô tên của một luật sư biện hộ cho tội phạm. Cô tưởng tượng ra Jerry Spence. Một người mặc áo khoác da hoẵng thay mặt cô đá mông kẻ khác. Cô có Ronald Lowman, một anh chàng trẻ măng tự phụ với mái tóc cắt bằng dao cạo và một bộ vét Brooks Brothers. Anh ta gặp cô trong phòng tạm giam trong mười phút, rồi bỏ cô lại một mình. Khi quay lại, anh ta không còn quá tự tin về bản thân nữa.

"Tôi vừa nói chuyện với công tố viên," anh ta bắt đầu. "Họ sẽ tiến hành khởi tố cô với tội hành hung. Họ nghĩ cô biết gì đó về bức Monet bị ăn cắp của nhà Hillard, và họ sẽ không để cô đơn giản bước ra khỏi đây đâu."

"Tôi chẳng biết tí gì về cái bức tranh ngu ngốc đó hết. Tôi vô tội," cô nói, cau mày với anh chàng mà cô đã thuê để bảo vệ lợi ích cho cô.

"Nghe này, cô Breedlove, tôi tin rằng cô vô tội. Nhưng chúng ta có công tố viên Blackburn, Cục trưởng cục cảnh sát Walker, Đại úy Luchetti, và ít nhất một thám tử không tin." Anh ta trút ra một hơi thở sâu và khoanh tay trước ngực. "Họ sẽ không nhẹ nhàng với cô đâu. Không phải khi giờ đây cô đã biết cô và đối tác của mình là nghi phạm. Nếu chúng ta từ chối trợ giúp họ trong vụ điều tra này, họ sẽ tiến hành khởi tố tội hành hung. Nhưng họ thực sự không muốn làm thế. Họ muốn ông Carter, sổ sách mật và danh sách liên lạc của ông ta. Họ muốn món đồ nghệ thuật của ông Hillard quay lại, nếu có thể. Họ muốn sự hợp tác của cô."

Cô biết họ muốn gì, và cô không cần một tên luật sư vừa ra trường nói cho cô biết. Để cứu lấy chính mình, cô phải tham dự vào một cuộc điều tra ngầm của cảnh sát. Cô phải thuyết phục Kevin rằng cô vừa thuê anh bạn trai của cô làm việc như một tay thợ sửa chữa trong cửa hàng của họ. Cô phải ngậm chặt miệng và ngoảnh đi chỗ khác trong khi Thám tử Hủy Diệt thu thập bằng chứng để kết án người bạn tốt và đối tác kinh doanh của cô là một tên buôn lậu.

Lần đầu tiên trong đời, những niềm tin và mong muốn của cô chẳng đáng kể gì. Chẳng ai có vẻ quan tâm xem những gì họ đang đề nghị cô làm có mâu thuẫn với đạo đức của cô hay không, những mảnh nhỏ về đạo đức mà cô đã tập hợp từ nhiều tín ngưỡng và nền văn hóa khác nhau trong suốt cuộc đời cô. Họ đang đòi cô phá vỡ những nguyên tắc đòi hỏi sự trung thực, đòi cô phản bội một người bạn.

"Tôi không tin Kevin có đánh cắp gì hết."

"Tôi không ở đây để đại diện cho đối tác của cô. Tôi ở đây để giúp cô, nhưng nếu anh ta có tội, anh ta sẽ lôi cô vào một vụ án nghiêm trọng. Cô có thể mất đi cửa hàng của mình, hay ít nhất là danh tiếng một nữ doanh nhân trung thực. Và nếu Kevin vô tội, cô chẳng mất gì và tuyệt đối chẳng có gì phải sợ. Hãy xem như đang giúp rửa sạch tên tuổi anh ta. Hay chúng ta có thể ra tòa. Nếu chúng ta yêu cầu một phiên tòa pháp lý, cô chắc sẽ không tốn mấy thời gian. Nhưng cô sẽ có một bản án buôn lậu trong hồ sơ."

Cô ngước lên nhìn anh ta. Ý nghĩ về một bản án buôn lậu làm cô chán nản hơn cô từng nhận ra. Tất nhiên, trước đây cô chưa bao giờ nghĩ mình như một tên buôn lậu. "Thế nếu tôi nói đồng ý và họ ùa vào cửa hàng của tôi, làm tung tóe mọi thứ, rồi bỏ đi thì sao?"

Anh ta đứng dậy và liếc nhìn cổ tay đeo đồng hồ. "Để tôi nói chuyện với công tố viên và xem xem chúng ta có nhận được một nhượng bộ nào nữa không. Họ muốn sự hợp tác của cô đến phát điên lên được ấy chứ, nên tôi nghĩ họ sẽ hợp tác với chúng ta thôi."

"Vậy anh nghĩ tôi nên ký vào bản hiệp ước hả?"

"Điều đó phụ thuộc vào cô, nhưng đó sẽ là lựa chọn tốt nhất của cô. Cô để họ làm việc ngầm vài ngày, rồi họ sẽ đi. Tôi sẽ bảo đảm họ để lại cửa hàng của cô đúng nguyên tình trạng hiện giờ, hoặc tốt hơn. Cô phải giữ lại quyền bầu cử, và thậm chí cũng phải giữ lại quyền sở hữu súng của cô. Mặc dù tôi sẽ gợi ý cô lấy một giấy phép mang súng."

Điều đó có vẻ vô cùng đơn giản, vậy mà thật khủng khiếp. Nhưng đến cuối cùng, cô đã ký vào bản hiệp ước biến cô thành một tay chỉ điểm ngầm. Cô ký nó cùng với mẫu đơn đồng ý cho lục soát và tự hỏi họ có cho cô một bí danh như một Bond Girl hay không.

Sau khi được thả, cô đi về nhà và cố đắm mình trong niềm vui mà cô vẫn thường thấy khi trộn dầu tự nhiên. Cô cần làm xong dầu xoa bóp húng quế và hoa cam trước lễ hội Coeur, nhưng khi cô đổ đầy mấy cái bình nhỏ màu xanh, cô làm loạn hết cả và phải dừng lại. Cô cũng không thành công hơn trong việc dán nhãn.

Đầu óc và tâm hồn đã bị chia tách, và cô phải cố gắng thư giãn, để đưa chúng hợp nhất. Cô ngồi khoanh chân trong phòng ngủ và cố tìm kiếm chốn yên tĩnh trước khi đầu cô bùng nổ. Nhưng khuôn mặt dữ dằn của Joe Shanahan cứ nhảy vào não cô, quấy nhiễu việc ngồi thiền của cô.

Thám tử Shanahan tương phản hoàn toàn với bất kỳ người đàn ông nào mà cô sẽ cân nhắc hẹn hò. Anh ta có mái tóc sẫm màu không tỉa tót, da ngăm ngăm, và đôi mắt nâu mãnh liệt. Cái miệng đầy đặn nghiêm nghị. Bờ vai rộng và đôi bàn tay to hơn hẳn người thường. Anh thực sự giống người nguyên thủy... nhưng đã có những ngày, trước khi cô quyết định rằng anh là một tên bám đuôi, cô thấy vẻ ngăm ngăm, dữ dội của anh quyến rũ mãnh liệt. Khi anh nhìn cô từ dưới hàng lông mi đen ấy, cô đã hơi tan chảy ngay tại quầy thực phẩm đông lạnh. Tầm vóc và sự hiện diện của anh ẩn chứa sức mạnh và sự tự tin, và bất kể trong đời cô có cố lẩn tránh những anh chàng to lớn, đồ sộ bao nhiêu, thì cô cũng không phải luôn thành công.

Chính là chiều cao của cô. Chiều cao của cô luôn khiến cho mắt cô lang thang tới chỗ anh chàng to lớn nhất xung quanh. Cô cao một mét tám mươi, mặc dù cô sẽ không bao giờ thú nhận cao hơn một mét bảy tám một phân nào hết. Như cô có thể nhớ, cô có nhiều rắc rối liên quan đến chiều cao. Suốt thời học sinh cô luôn là cô gái cao nhất lớp. Cô luôn vụng về, to xương, và lớn lên mỗi ngày.

Cô đã cầu nguyện mọi thần thánh mà cô có thể nghĩ đến can thiệp vào. Cô muốn thức dậy nhỏ nhắn với bộ ngực và bàn chân nhỏ. Tất nhiên, điều đó chẳng bao giờ xảy ra, nhưng đến thời trung học, các cậu trai bắt kịp với cô, và vài người đã cao hơn cô đủ để mời cô đi chơi. Bạn trai đầu tiên của cô là đội trưởng đội bóng rổ. Nhưng sau ba tháng, anh ta đã đá cô vì đội trưởng đội cổ vũ. Một mét năm bảy Mindy Crenshaw.

Cô phải nhắc nhở mình đừng có còng lưng khi đứng cạnh phụ nữ thấp.

Gabrielle từ bỏ việc tìm kiếm sự cân bằng và thay vào đó tìm đến một bồn tắm nóng. Cô thêm vào nước một hỗn hợp dầu đặc biệt gồm oải hương, hoàng lan, và hoa hồng nguyên chất. Hỗn hợp chiết xuất từ thiên nhiên này có tiếng là giúp thư giãn. Gabrielle không biết nó có tác dụng hay không, nhưng nó quả thực có mùi rất tuyệt. Cô trượt vào làn nước thơm ngát và tựa đầu vào thành bồn. Hơi ấm bao bọc lấy cô, và cô nhắm mắt lại. Những sự kiện trong ngày lướt qua đầu cô, và chỉ ký ức về Joe Shanahan, nằm trên mặt đất dưới chân cô, hơi thở hổn hển thoát khỏi phổi và lông mi dính chặt vào mí mắt, mới đưa một nụ cười đến môi cô. Ký ức ấy thành công trong việc làm cô thư giãn ở nơi mà một tiếng ngồi thiền đã thất bại.

Cô bám chặt vào ký ức đó và một hy vọng rằng có thể một ngày nào đó, nếu cô thật sự sống tốt và nghiệp chướng lựa chọn cô là người để trao phần thưởng, cô có thể có được cơ hội hạ gục anh với một chai sáp tạo kiểu tóc khác.

Joe bước vào cửa sau nhà cha mẹ anh mà không thèm gõ cửa và đặt cái lồng chim lên mặt bếp. Anh nghe thấy tiếng tivi từ hướng phòng gia đình phía bên phải. Một cánh cửa tủ đựng bát đĩa chặn vào mặt lò nướng, và một cái máy khoan nằm kế bên bồn rửa. Thêm một kế hoạch bị lãng quên trước khi được hoàn thành. Cha của Joe, Dewey, đã mang một cuộc sống thoải mái đến cho vợ và năm đứa con với khoản thu nhập làm thợ xây nhà, nhưng ông dường như không bao giờ hoàn thiện một thứ gì trong ngôi nhà của chính ông. Từ hàng năm trời kinh nghiệm Joe biết rằng phải dùng đến lời đe dọa sẽ thuê một người khác của mẹ anh thì công việc mới đột nhiên được làm xong.

"Có ai ở nhà không?" Joe gọi lớn, dù cho anh đã thấy xe của cha mẹ anh đều ở trong gara.

"Là con à, Joey?" Giọng của Joyce Shanahan hầu như không thể nghe thấy qua âm thanh xe tăng và súng đạn. Anh vừa xen ngang một trong những khoảng thời gian giải trí ưa thích nhất của cha anh. Phim của John Wayne.

"À vâng, con đây." Anh thò tay vào lồng, và Sam leo lên cánh tay anh.

Joyce đi vào bếp, mái tóc muối tiêu của bà được vuốt ra khỏi mặt bằng một cái băng đô màu đỏ co giãn. Bà nhìn con vẹt châu Phi màu xám dài ba mươi centimet đậu trên vai Joe một cái và khựng ngay lại. Môi bà biến mất trong miệng, và vẽ không hài lòng kéo trĩu lông mày bà xuống.

"Con không thể bỏ thằng bé ở nhà," Joe bắt đầu trước khi bà có thể phát biểu sự đau buồn của mình. "Mẹ biết nó trở nên thế nào khi không có đủ sự chú ý đấy. Con đã bắt nó hứa sẽ cư xử ngoan ngoãn lần này." Anh nhún vai và nhìn con chim. "Nói với bà đi, Sam."

Con vẹt chớp đôi mắt màu vàng đen và chuyển từ chân này sang chân kia. "Tiếp tục đi, ghi dấu ngày của tôi nào," Sam kêu lên bằng một giọng chói tai.

Joe chuyển ánh mắt sang chỗ mẹ anh và mỉm cười như một người cách tự hào. "Thấy chưa, con đã thay Jerry Springer bằng Clint Eastwood."

Joyce khoanh tay trước ngực áo phông Betty Boop. Bà chỉ cao có một mét năm, nhưng bà luôn là nữ hoàng, vua, và bạo chúa trong gia đình Shanahan. "Nếu nó lại bắt đầu cái miệng tục tĩu, nó sẽ phải biến đi đấy."

"Mấy đứa cháu đã dạy nó những từ chửi thề ấy khi chúng ở đây ăn mừng lễ Phục sinh mà," anh nói, ám chỉ tất cả mười đứa cháu trai và gái.

"Con dám đổ thói cư xử hư hỏng của nó lên các cháu mẹ đấy à." Joyce thở dài và buông tay xuống. "Con đã ăn chưa?"

"À vâng, con đã ăn vội mấy thứ trên đường từ chỗ làm về nhà."

"Đừng nói với mẹ, thịt gà ăn nhanh đầy mỡ và cái thứ khoai tây chiên khủng khiếp." Bà lắc đầu. "Mẹ còn lasagna thừa và một đĩa salad xanh ngon lành. Con mang một ít về nhà đi."

Giống như rất nhiều gia đình khác, phụ nữ nhà Shanahan thể hiện tình yêu và sự quan tâm của họ qua thức ăn. Thường thì Joe không thấy phiền - chỉ trừ khi tất cả họ đều quyết định thể hiện cho anh thấy cùng một lúc. Hay khi họ bàn luận thói quen ăn uống của anh như thể anh mới có mười tuổi và sống nhờ bim bim khoai tây. "Thế sẽ rất tuyệt ạ." Anh quay sang Sam. "Bà làm lasagna cho con kìa."

"Hừ. Vì nó rất có thể là thứ gần một đứa cháu nội nhất mà mẹ có được từ con, mẹ đoán nó cũng được chào đón. Nhưng con cũng nên bảo đảm nó sẽ rửa sạch cách ăn nói đi."

Nói về cháu chắt là dấu hiệu rút lui của Joe. Anh biết nếu anh mà không trốn ngay bây giờ thì cuộc nói chuyện tất yếu sẽ chuyển sang chuyện đàn bà dường như cứ ra ra vào vào đời anh. "Sam đã thay đổi rồi," anh nói khi lách qua mẹ anh và đi vào phòng gia đình, được trang trí bằng những món đồ cũ mua lại gần đây nhất của mẹ anh - một cặp giá nến gắn tường bằng sắt và áo giáp đồng bộ. Anh thấy bố anh đang nghỉ ngơi trong chiếc ghế La-Z-Boy màu nâu của ông, chiếc điều khiển một tay, cốc trà đá tay kia. Một gói thuốc và bật lửa nằm trên cái bàn nhỏ chia cách ghế với bộ sofa đồng màu. Dewey ở cuối tuổi sáu mươi, và Joe gần đây đã chú ý thấy một chuyện kỳ lạ đang xảy ra với tóc bố anh. Nó vẫn dày và trắng phau, nhưng năm vừa rồi nó đã bắt đầu dựng thẳng về phía trước như thể ông đang ngồi với một cơn gió mạnh sau lưng.

"Họ không làm phim như thế này nữa," Dewey nói mà không dứt mắt khỏi tivi. Ông vặn nhỏ tiếng trước khi nói thêm, "Tất cả những hiệu ứng đặc biệt mà ngày nay họ dùng không thể được như cái thật. John Wayne biết cách đánh nhau và khiến cho cảnh quay trông đẹp mắt."

Ngay khi Joe ngồi xuống, Sam bay khỏi vai anh và quắp vào thành ghế sô pha với đôi bàn chân đen có vảy. "Đừng đi xa quá đấy," Joe bảo con chim của anh, rồi với lấy một điếu thuốc. Anh trượt điếu Marlboro giữa các ngón tay, nhưng không châm lửa. Anh muốn Sam hít thở ít khói thải ra hết mức có thể.

"Con lại bắt đầu hút thuốc đấy à?" Dewey hỏi, cuối cùng cũng dứt mắt khỏi Duke. "Cha tưởng con bỏ rồi. Điều gì đã xảy ra thế?"

"Norris Hillard," là tất cả những gì Joe nói. Anh không cần tỉ mỉ thêm. Tất cả mọi người đang tự do đến giờ đều biết hết về bức Monet bị ăn trộm. Anh muốn tất cả mọi người đều biết. Anh muốn những kẻ liên quan phải lo lắng. Những kẻ lo lắng hay phạm sai lầm. Khi chúng sai lầm, anh sẽ ở ngay đó, sẵn sàng đốn chúng xuống. Nhưng anh sẽ không đốn gục Gabrielle Breedlove. Chẳng quan trọng nếu cô có dính líu sâu tới tận cặp mông ngọt ngào xinh xắn của cô. Chẳng quan trọng nếu chính cô cắt bức tranh ra khỏi khung. Cô đã được miễn trách hoàn toàn - không chỉ với án hành hung và bất kỳ cáo trạng nào sau đó nảy sinh từ vụ Hillard mà cô cũng sẽ không bị tố tụng bất kỳ một án trộm đồ cổ nào hết. Tên luật sư của cô có thể trẻ, nhưng là một con chồn con ranh mãnh.

"Có đầu mối nào chưa?"

"Một ít ạ." Bố anh không hỏi câu hỏi nào rõ ràng, và Joe cũng không đề nghị được giải thích gì thêm. "Con cần mượn máy khoan và vài dụng cụ của bố." Thậm chí nếu có thể, Joe cũng không muốn nói gì về người chỉ điểm mật của anh. Không chỉ vì anh không hề tin người chỉ điểm mà còn vì người chỉ điểm mới nhất của anh vô trách nhiệm y như một hộp bim bim khoai tây, lại còn cái trò biểu diễn với súng kia gần như cho anh thêm một lần giáng chức nữa. Và lần này, người ta sẽ không nhon nhón xung quanh và gọi đó là điều chuyển nữa đâu. Sau cơn ác mộng diễn ra ở công viên sáng hôm đó, anh phải đưa đầu Carter lên khay. Anh phải bù lỗi cho chính mình. Nếu không, anh sợ họ sẽ đẩy anh xuống bộ phận tuần tra sâu đến nỗi anh chẳng bao giờ còn nhìn thấy ánh nắng ban ngày nữa mất. Anh chẳng có gì chống đối những cảnh sát mặc đồng phục. Họ là những anh chàng tuyến đầu, và anh không thể làm việc của mình mà không có họ, nhưng anh đã lao động quá lâu, và đã phải chịu đựng quá nhiều thứ tào lao, để cho phép một nàng tóc đỏ vác súng làm loạn sự nghiệp của anh lên.

"Joe, cuối tuần trước mẹ đã nhặt được vài thứ cho con đấy," mẹ anh thông báo cho anh khi lướt qua phòng trên đường bà ra sau nhà.

Cái "vài thứ" cuối cùng mà mẹ anh đã "nhặt được" cho anh là một cặp chim bằng nhôm đáng ra phải được treo trên tường. Vào giờ phút này chúng đang ở dưới giường anh cạnh một con cú tết bằng sợi to tướng. "À, thế ạ," anh rên lên, và ném điếu thuốc chưa châm lửa lên cái bàn nhỏ. "Con ước gì mẹ đừng có làm thế. Con ghét cái đống đồ cũ bán lại thối hoắc đó."

"Đừng chống lại nó, con trai, nó là một căn bệnh rồi," bố anh nói và quay sự chú ý lại với cái tivi. "Một căn bệnh như chứng nghiện rượu vậy. Bà ấy vô phương phản kháng chứng nghiện ngập của mình."

Khi Joyce Shanahan quay lại, bà mang theo một cái yên ngựa đã bị cắt làm đôi, theo chiều dọc. "Mẹ đã có cái này với năm đôla," bà khoe và đặt nó lên sàn cạnh chân Joe. "Họ muốn mười đô cơ, như mẹ đã mặc cả xuống."

"Con ghét cái đống đồ cũ bán lại thối hoắc đó," Sam nhai lại, rồi thêm vào một tiếng rít "Aaaaaaaa" cho thêm phần hiệu quả.

Ánh mắt Joyce di chuyển từ chỗ con trai sang con chim ở trên thành ghế. "Nó tốt nhất không nên làm loạn trên ghế của mẹ."

Joe không thể hứa gì. Anh chỉ về cái yên ngựa. "Con nên làm gì với nó đây? Tìm con ngựa nửa người à?"

"Con hãy treo nó trên tường ấy." Điện thoại reo lên, và bà thêm vào qua vai khi hướng đến bếp, "Nó có mấy cái móc nhỏ ở một bên đấy."

"Tốt nhất là đóng nó vào đinh tường ấy, con trai," bố anh khuyên. "Nếu không cái thứ đó rất có thể sẽ lôi cả vữa nhà con xuống."

Joe nhìn chằm chằm cái yên ngựa với một bàn đạp. Khoảng trống dưới giường anh sắp đông đúc lắm đây. Tràng cười của mẹ anh rú lên từ phòng bên kia, dọa Sam giật mình. Nó đập cánh, để lộ phần lông đỏ bên dưới đuôi, rồi bay tới chỗ tivi và đậu lên nóc một cái lồng chim bằng gỗ có một cái tổ giả và trứng nhựa gắn ở đáy. Nó nghiêng cái đầu xám sang một bên, chu mỏ, và giả tiếng điện thoại kêu.

"Sam, đừng có làm thế," Joe cảnh cáo đúng một phần nghìn giây trước khi con chim nhái lại điệu cười của bà Joyce một cách hoàn hảo đến lạnh sống lưng.

"Con chim của con sẽ kết thúc trong một gói Lắc rồi Nướng đấy," bố anh tiên đoán.

"Con không biết chắc." Anh chỉ hy vọng Sam không nảy ra cái ý nghĩ xé toạc căn nhà gỗ nhỏ nhoi đó bằng mỏ của nó.

Cánh cửa trước mở ra với một tiếng bang lớn, và đứa cháu trai Todd bảy tuổi của Joe chạy vào nhà, theo sau là Christy mười ba tuổi và Sara mười tuổi, hai cháu gái của Joe.

"Chào chú Joe," hai cô cháu gái của anh hòa âm cùng một lúc.

"Xin chào các cô bé."

"Chú có mang Sam không ạ?" Christy muốn biết.

Joe gật đầu về tivi. "Nó đang hơi hoảng sợ. Đừng la hét xung quanh nó hay di chuyển đột ngột. Và đừng dạy nó thêm một từ xấu nào nữa."

"Chúng cháu sẽ không đâu ạ, thưa chú Joe," Sara hứa, mắt cô bé hơi quá to, hơi quá ngây thơ.

"Cái gì thế kia?" Todd hỏi, chỉ về cái yên ngựa.

"Đó là nửa cái yên ngựa."

"Để làm gì ạ?"

Chính xác. "Cháu có muốn nó không?"

"Tuyệt!"

Chị gái Tanya của Joe bước vào nhà kế tiếp và đóng cửa lại sau lưng. "Chào cha," cô nói, rồi chuyển sự chú ý sang em trai. "Chào Joey. Chị thấy mẹ vừa cho em cái yên ngựa. Em có thể tin là mẹ có nó chỉ với năm đô không?"

Rõ ràng là Tanya cũng bị lây bệnh đồ cũ bán lại rồi.

"Ai đánh rắm thế? Aaaaaaaa"

"Này các cháu," Joe trách mắng hai cô bé, vốn đang rạp xuống sàn nhà trong một tràng cười dữ dội.

"Có gì vui đến thế?" mẹ anh hỏi khi bà đi vào phòng, nhưng trước khi có người kịp trả lời, điện thoại lại reo lên. "Trời ơi." Bà lắc đầu và đi vào bếp lần nữa, chỉ để quay lại vài phút sau vẫn lắc đầu. "Họ gác máy trước khi mẹ kịp trả lời."

Joe liếc mắt nghi ngờ con chim của anh, và sự hoài nghi của anh được xác nhận khi Sam nghiêng đầu sang một bên và điện thoại tình cờ lại reo lên.

"Trời đất." Mẹ anh lao bổ vào bếp.

"Bố cháu đã ăn một con rệp," Todd bảo Joe, hút sự chú ý của anh về phía thằng bé. "Nhà cháu đã nướng thịt và bố thì ăn một con rệp."

"Ờ đấy, Ben đã chơi cắm trại vì anh ấy nghĩ mấy bé gái và chị đang khiến anh ấy trở nên ẻo lả," chị gái Joe nói thêm khi cô ngồi xuống cạnh anh trên ghế sô pha. "Anh ấy nói anh ấy cần đưa Todd đi và làm chuyện đàn ông."

Joe hiểu hoàn toàn. Anh đã được nuôi dạy với bốn chị gái, những người mặc cho anh quần áo của họ và bắt anh tô son môi. Lúc tám tuổi, họ đã thuyết phục anh rằng anh được sinh ra như một người lưỡng tính tên là Josephine. Anh thậm chí còn không biết một người lưỡng tính là gì cho đến khi anh bước sang tuổi mười hai và có thể tra từ ấy trong từ điển. Sau đó, trong vài tuần, anh đã sống trong nỗi sợ hãi là sẽ lớn lên với cặp ngực bự như chị cả Penny. May mắn thay, bố anh đã bắt gặp anh đang kiểm tra cơ thể xem có những thay đổi kỳ cục nào không, và ông đã trấn an Joe rằng anh không phải người lưỡng tính. Rồi ông đã đưa anh đi cắm trại, câu cá, và không bắt anh tắm trong một tuần.

Các chị gái anh dính chặt vào nhau như keo dán Bodini và chẳng bao giờ quên cái quái gì hết. Khi lớn lên, họ thích được quấy rối anh, và họ là ác quỷ chân chính trong tâm hồn anh. Nhưng nếu anh có bao giờ ngờ thấy dù chỉ một giây thôi rằng người đàn ông trong cuộc đời của các chị anh không đối xử tử tế với họ, anh sẽ rất vui lòng đánh những tên đó nhừ tử.

"Và chị đoán một con rệp đã đậu xuống xúc xích của Todd rồi thằng bé khóc và không chịu ăn," Tanya tiếp tục. "Điều đó hoàn toàn dễ hiểu thôi, và chị không trách thằng bé về điều đó, nhưng Ben tóm lấy con rệp và ăn nó, cố làm bậc đại trượng phu. Anh ấy đã nói, "nếu bố có thể ăn con rận chết tiệt đó, thì con cũng có thể ăn cái xúc xích chết tiệt kia."

Nghe hợp lý đấy chứ. "Cháu có ăn cái xúc xích đó không?" Joe hỏi cháu trai.

Todd gật đầu, và nụ cười của cậu bé khoe ra hai răng cửa bị mất. "Rồi cháu ăn cả một con rận nữa. Một con màu đen lận."

Joe nhìn vào khuôn mặt tàn nhang của cháu trai, và họ cùng chia sẻ một nụ cười bí ẩn. Kiểu nụ cười "ta có thể đứng tiểu" của câu lạc bộ các chàng trai. Một nụ cười mà đám con gái chẳng bao giờ có thể hiểu được.

"Họ lại gác máy," Joyce thông báo cho cả phòng.

"Mẹ cần kiếm một cái máy hiện số người gọi đi," Tanya khuyên. "Bọn con đã kiếm một cái, và con luôn kiểm tra xem ai đang gọi đến trước khi trả lời."

"Mẹ có khi cũng sẽ làm thế," mẹ anh nói khi hạ mình xuống một cái ghế bập bênh cũ bằng kim loại sơn màu, nhưng ngay khi mông bà chạm vào ghế, tiếng chuông lại bắt đầu. "Chuyện này chán lắm rồi đấy," bà thở dài và nhỏm dậy. "Có ai đó đang đùa nghịch trên điện thoại."

"Dùng nút gọi lại số cuối cùng vừa gọi ấy. Con sẽ chỉ cho mẹ." Tanya đứng dậy và đi theo mẹ cô vào trong bếp.

Các cô bé tan ra trong một tràng cười rũ rượi khác, và Todd lấy tay che miệng.

"Được," Dewey nói mà không rời mắt khỏi Duke, "con chim đó đang trêu đùa với thảm họa rất tốt đấy."

Joe lồng các ngón tay sau đầu, vắt chéo cổ chân, và thư giãn lần đầu tiên kể từ vụ trộm bức Monet nhà Hillard. Gia đình Shanahan là một đám đông lớn, om xòm, và ngồi trên tràng kỷ của mẹ anh bao quanh bởi cảnh náo loạn ấy có cảm giác như về nhà. Nó cũng nhắc cho anh nhớ đến ngôi nhà trống không của chính anh bên kia thị trấn.

Cho đến cách đây khoảng một năm, anh vẫn không lo lắng nhiều đến thế về việc tìm một cô vợ và bắt đầu một gia đình. Anh đã luôn nghĩ mình có thời gian, nhưng bị bắn có xu hướng đưa cuộc sống của một người vào trạng thái hoài nghi. Nó nhắc một người đàn ông nhớ đến những gì thực sự quan trọng trong đời anh ta. Một gia đình của chính anh.

Đúng, anh có Sam, và sống với Sam cũng giống như sống với một đứa trẻ hai tuổi hiếu động, nhưng rất thú vị. Nhưng anh không thể đốt lửa trại và nướng thịt với Sam. Anh không thể ăn rận. Phần lớn những cảnh sát khác ở tuổi anh đều có con cái, và khi anh nằm ở nhà để phục hồi sức khỏe, chẳng có gì ngoài thời gian trong tay, anh bắt đầu tự hỏi cảm giác thế nào khi ngồi ngoài rìa một Litte League(1)(Giải bóng chày cho trẻ em Mỹ) và xem các con anh chạy vòng quanh các gôn. Nhìn thấy các con anh trong đầu là phần dễ dàng. Vẽ ra vợ anh thì khó khăn hơn chút.

Anh không nghĩ mình quá kén cá chọn canh, nhưng anh biết những gì mình muốn và những gì mình không muốn. Anh không muốn một phụ nữ nổi khùng vì những chuyện cỏn con như kỷ niệm hàng tháng hay không thích Sam. Anh biết từ kinh nghiệm quá khứ rằng anh không muốn một cô nàng ăn chay quan tâm thái quá đến gram chất béo và cỡ đùi.

Anh muốn khi đi làm về và có ai đó chờ đợi anh. Anh muốn đi vào cửa mà không có đồ ăn cầm trong tay. Anh muốn một cô gái bình thường, một ai đó gắn chặt cả hai chân trên mặt đất. Và tất nhiên, anh muốn một ai đó thích tình dục theo cái cách anh thích. Nóng bỏng, cực kỳ nóng bỏng. Thỉnh thoảng hơi bẩn thỉu, thỉnh thoảng không, nhưng lúc nào cũng không giới hạn. Anh muốn một người phụ nữ không e ngại chạm vào anh hay e ngại để anh chạm vào cô. Anh muốn nhìn cô và cảm thấy dục vọng xoáy đảo trong bụng. Anh muốn nhìn cô và biết rằng cô cũng cảm thấy y như vậy với anh.

Anh luôn cho rằng anh sẽ biết người phụ nữ phù hợp khi anh gặp cô. Anh không thực sự biết làm sao mà anh sẽ biết, chỉ là thế thôi. Anh sẽ cảm thấy nó đập mạnh vào giữa hai mắt anh như một cú nốc ao hay một tia chớp, và chính là nó. Anh sẽ biết.

Tanya quay lại vào phòng với một nét cau có làm lông mày chị ấy nhăn lại. "Số cuộc gọi đến cuối cùng thuộc về bà bạn Bernese của mẹ. Sao Bernese lại gọi điện đùa nghịch chứ?"

Joe nhún vai và quyết định đánh lạc hướng chị gái anh khỏi thủ phạm thực sự. "Có lẽ bà ấy thấy buồn chán. Khi em mới vào ngành, một bà già gọi đến một tháng một lần để báo rằng có ai đó cứ đột nhập vào nhà bà ấy, cố đánh cắp mấy cái khăn choàng vô giá trị của bà ấy."

"Thế không phải à?"

"Quỷ thật, không. Chị nên nhìn mấy thứ đó - tất cả đều màu xanh sáng, vàng cam, và tím. Mấy cái khăn chết tiệt đó sẽ khiến chị gần như phải mù mắt chỉ vì nhìn chúng. Dẫu sao, bà ấy cũng luôn có bánh quy Nilla Wafers và bia không cồn chờ bọn em. Đôi khi người già trở nên thực sự cô đơn và làm những chuyện kỳ cục chỉ để có ai đó nói chuyện cùng."

Đôi mắt nâu của Tanya nhìn chằm chằm vào anh, và cái cau mày của cô sâu hơn. "Đó là những gì sẽ xảy ra với em nếu em không tìm ai đó để chăm sóc cho mình đấy."

Những phụ nữ trong gia đình anh vẫn luôn thúc giục anh về đời sống yêu đương. Nhưng kể từ khi anh bị bắn, mẹ và các chị anh đã tăng cường nỗ lực để thấy anh kết hôn một cách hạnh phúc. Họ đánh đồng hôn nhân với hạnh phúc. Họ muốn anh ổn định như phiên bản cuộc sống ấm cúng tốt lành của họ, và trong khi anh hiểu nỗi lo của họ, họ vẫn khiến anh phát điên lên được. Anh không dám để họ biết rằng anh thực sự đã có vài suy nghĩ nghiêm túc. Nếu anh làm thế, tất cả họ sẽ chồm lên anh như chim ác là trên một cái xác.

"Chị biết một phụ nữ thực sự tử tế..."

"Không," Joe cắt ngang, thậm chí không sẵn sàng xem xét một trong những cô bạn của chị gái anh. Anh có thể tưởng tượng từng chi tiết nhỏ đều được báo cáo lại với gia đình anh. Anh đã ba lăm, nhưng các chị anh vẫn đối xử với anh như kiểu anh mới có năm tuổi. Như kiểu anh không thể tự tìm thấy mông của chính anh nếu họ không bảo anh rằng nó ở tận cùng xương sống ấy.

"Vì sao?"

"Em không thích phụ nữ tử tế."

"Đó là những gì sai trái ở em ấy. Em thích thú với kích cỡ bộ ngực hơn là nhân phẩm."

"Chẳng có gì sai với em hết. Và không phải kích cỡ bộ ngực, mà là hình dáng mới đáng tính đến."

Tanya khịt mũi, và anh không nhớ trước đây đã từng nghe được một âm thanh như vậy phát ra từ một người phụ nữ đấy.

"Sao chứ?" anh hỏi.

"Em sắp trở thành một người đàn ông già cực kỳ cô đơn đấy."

"Em có Sam làm bạn đồng hành, và nó hẳn sẽ sống lâu hơn cả em nữa."

"Chim chóc không được tính đến, Joe. Dạo này em có cô bạn gái nào không? Ai đó mà em có thể cân nhắc đến việc mang về gặp gia đình em ấy? Ai đó mà em có thể cân nhắc cưới xin?"

"Không."

"Sao không?"

"Em vẫn chưa tìm được người phụ nữ phù hợp."

"Nếu đàn ông ở khu tử tù tìm phụ nữ để cưới xin, thì sẽ khó khăn đến thế nào nhỉ?"