Eragon 4 (Inheritance) - Di Sản Thừa Kế

Chương 24: Thardsvergûndnzmal



“Em vẫn khỏe,” Eragon điên tiết nói. “Đừng lo lắng. Em không làm được gì thêm đâu.”

Saphira rống lên và tiếp tục nhìn bóng mình trong hồ. Cô nàng lắc đầu rồi nặng nề thở ra một cuộn khói trắng bay vẩn vơ trên mặt hồ như một đám mây dông lạc lõng.

“Anh chắc không?” cô nàng hỏi và nhìn về phía nó. Nếu nó không mọc lại thì sao?

“Rồng lúc nào chẳng mọc vẩy mới. Em biết mà.”

Vâng nhưng em chưa bao giờ mất cái vẩy nào.

Nó không thèm giấu nụ cười; nó biết cô em nó cảm nhận được sự vui vẻ của mình. “Em không nên buồn thế. Có gì to tát đâu.” Nó vươn tay sờ vào lỗ hổng hình kim cương treencanhs mũi bên phải cô nàng. Lỗ hổng đó không lớn hơn đầu ngón tay cái nó là mấy và sâu khoảng 2cm. Qua lổ hổng nó có thể nhìn thấy rõ làn da màu xanh lơ của cô em.

Nó tò mò sờ lên làn da cô rồng bằng đầu ngón trở. Da ấm và trơn nhẵn như bụng bê.

Saphira thở phì phò và quay đầu đi. Dừng lại. Buồn lắm.

Nó ngồi xuống dùng chân té nước và cảm nhận làn nước bằng chân trần.

Có thể không lớn, cô nàng nói, nhưng ai cũng nhìn thấy. Sao họ không thể thấy cơ chứ? Trông nó như một vùng đất trống trên ngọn núi phủ trắng tuyết vậy.

Eragon cười lớn và té nước vào người cô nàng. Sau đó để xoa dịu lòng tự trọng bị tổn thương, nó nói. “không ai để ý đâu Saphira. Tin anh đi. Hơn nữa nếu họ có để ý đi chăng nữa, họ sẽ nghĩ đó là một vết thương do đánh nhau và có khi còn nghĩ em đáng sợ hơn.”

Anh nghĩ thế? Cô bé quay lại ngắm mình thêm lần nữa. Nước và vảy trên người cô rồng phản chiếu lẫn nhau trong sắc cầu vồng. NẾu như một tên lính đâm vào chỗ đó thì sao? Lưỡi kiếm sẽ xuyên qua em mất. Có lẽ em nên nhờ người lùn làm cho em một cái đĩa kim loại để cho chỗ đó lại cho tới khi mọc vẩy mới.

“Trông kỳ lắm.”

THế à?

“Ừm” Nó gật đầu và cười tiếp.

Cô nàng hừ mũi. Đừng có cười em. Nếu anh mất một mảng tóc trên đầu hay mất mấy cái bướu nhỏ ngu ngốc anh gọi là răng, anh sẽ thấy sao hả? Lúc đó sẽ đến lượt em cười anh thôi.

“Chắc chắn rồi,” nó dễ dàng đồng ý. “Nhưng mà, răng không mọc lại.” Nó đẩy mình đứng dậy và bước tới bờ sông chỗ nó để giày. Nó cẩn trọng đi trên đá. Saphira đi theo khiến mặt đất rung thình thình.

Anh có thể phù phép bảo vệ chỗ đó, cô em nó cất tiếng khi nó đi giày vào.

“Anh làm được. Em muốn không?”

Có chứ.

Họ lẩm nhẩm thần chú trong đầu trong khi buộc dây giày và đặt tay phải lên vào cánh mũi cô em và đọc vài từ cần thiết. Một màu xanh da trời bàng bạc sán lên dưới tay nó khi nó tạo lá chắn cho cô em.

“Xong,” nó nói khi xong việc. “GIờ em không phải lo lắng nữa nhé.”

Trừ việc em mất một cái vảy.

Nó đẩy nhẹ hàm cô em. “Thôi nào. Chúng ta về doanh trại đi.”

Họ cùng nhau rời hồ và leo lên con đê thoai thoải đằng sau, Eragon dùng một rễ cây lớn làm gậy chống.

Họ thấy toàn cảnh doanh trại Varden cách đó nửa dặm về phía đông, và ở phía bắc doanh trại là Dras – Leona. Dấu hiệu sống duy nhất trong thành phố là khói bốc lên từ các mái nhà. Như thường lệ, Thorna nằm bành trướng trên bức tường thành cổng nam, tắm mình trong ánh trời chiều. Con rồng đỏ có vẻ ngủ nhưng Eragon biết rằng nó vẫn quan sát Varden và ngay khi có ai tiếp cận thành phố nó sẽ vuonw mình và báo nguy cho Murtagh và những người trong thành phố.

Eragon nhảy lên lưng Saphira và cô nàng chở nó về trại bằng tốc độ khá lý tưởng.

Khi tới nơi, nó trượt xuống mặt đất và đi đầu di chuyển giữa các dãy lều. Doanh trại yên ắng, mọi thứ dường như trôi qua chậm chạp và buồn ngủ. Trong không khí vang lên tiếng nói chuyện chậm rãi nho nhỏ của các chiên binh và cờ xí bất động vì không có gió. Những sinh vật duy nhất miễn dịch với cảnh tẻ ngắt này là lũ chó hoang đang bới tìm thức ăn trong đống rác thải. Trên đầu chúng chi chít những vết cào xước, hậu quả do vô tình nghĩ có thể trêu đùa với những ma mèo mắt xanh như những con mèo nhà. Khi chuyện đó xảy ra, tiếng ăng ẳng đau đớn của chúng thu hút sự chú ý của cả trại và mọi người bật cười nhìn những con chó cụp đuôi chạy trốn khỏi những ma mèo.

Eragon biets nó và Saphira khiến người ta chú ý nhiều thế nào. Nó ngẩng cao đầu, vai mở rộng và sải chân hùng dũng. MỌi người cần thấy nó tràn đầy tự tin và rằng nó không bị ảnh hưởng bởi sự buồn tẻ trong doanh trại.

Giá mà Murtagh và Thorn bỏ đi nhỉ,Eragon nghĩ. Chúng chỉ cần bỏ đi một ngày là chúng ta sẽ chiếm được thành phố.

Tới giờ cục diện chiến trường Dras – Leona chưa có thêm thay đổi gì. Nasuada không chịu tấn công, cô đã giải thích với nó, “Có thể anh đã chiến thắng Murtagh trong lần đụng độ trước – nhưng cậu quên anh ta đã đâm vào hông cậu thế nào? – và hắn đã thề hắn sẽ mạnh lên trong lần đụng độ tới giữa hai người. Murtagh có thể là nhiều thứ nhưng tôi không tin hắn là một kẻ nói dóc.”

“Giữa hai pháp sư thì sức mạnh không phải là tất cả,” Eragon đã từng chỉ ra.

“Không, nhưng sức manh không phải không quan trọng. Hơn nữa hắn lại được các thầy tu Helgrind hỗ trợ, tôi nghi ngờ trong đó phải có vài pháp sư. Tôi không thể để anh đối mặt với họ và Murtagh trên chiến trường kể cả có các pháp sư của Blödhgarm. Từ giờ tới khi chúng ta lừa Murtagh và Thorn đi chỗ khác hoặc có được lợi thế trước họ, chúng ta sẽ ở đây không tấn công Dras – Leona.”

Eragon đã phản đối, đã nói rằng họ không thể không tấn công và rằng nếu nó không thể đánh bại Murtagh thì làm sao cô ta có thể hy vọng nó hạ bệ Galbatorix? Nhưng Nasuada vẫn không may may suy chuyển.

Họ - cùng với Arya, Blödhgarm và tất cả các pháp sư của Du Vrangr Gata – đã lên kế hoạch và tìm cách để giành lợi thế. Nhưng mọi kế hoạch đều có điểm yếu vì chúng đòi hỏi thời gian và nguồn lực hơn mức quân Varden có và vì họ không thể nào giải quyết được câu hỏi nên giết, bắt hay đánh đuổi Murtagh và Thorn.

Nasuada thậm chí đã tới hỏi Elva rằng con bé có thể dùng năng lực của mình – cho phép nó cảm nhận nỗi đau hiện tại cũng như tương lai của một con người – để hạ gục Murtagh hoặc để lén lút vào thành phố. Cô bé lông mày bạc đã cười vào Nasuada và chế giễu, thóa mạ đuổi cô đi. “Tôi không nợ cô hay bất kỳ ai, Nasuada. Tìm đứa trẻ khác mà nhờ. Tôi không làm.”

Và thế là, quân Varden phải đợi.

Ngày qua ngày, Eragon đã quan sát mọi người càng lúc càng rệu rã và chán nản, Nasuada càng lúc càng lo lắng. Eragon đã học được rằng một đội quân đói rã họng sẽ chết sớm và chia thành nhiều nhóm nhỏ trừ khi họ được cung cấp đầy đủ thức ăn. Khi tới một lãnh địa mới, nguồn cung cấp đơn giản nhất chính là thức ăn và những thứ thiết yếu khác từ khu nông thôn. Như dịch châu chấu, Varden đã để lại những mảnh đất trơ gốc rạ, lấy đi toàn bộ những thứ họ cần cho cuộc sống.

Một khi ngừng lại, họ sẽ nhanh chóng dùng hết nguồn lương thực dự trữ và buộc phải nhờ vào viện trợ lương thực từ Surda và những thành phố họ đã chiếm đóng được. Dù dân Surda có hào phóng thế nào thì cũng không thể nuôi Varden lâu hơn nữa.

Dù Eragon biết những chiến binh chiến đấu rất quả cam, nhưng khi đối dineej với cái chết đói từ từ dai dẳng chẳng để lại gì ngoài cho Galbatorix sự hả hê, hầu hết mọi người sẽ chọn đào ngũ sống bình yên tại một vùng đất xa xôi nào đó của Alagaësia tránh xa Triều đình tới hết đời.

THời khắc đó chưa đến nhưng cũng sắp tới rồi.

Eragon biết sự sợ hãi định mệnh đó sẽ khiến Nasuada thức trắng đêm vì thế mỗi sáng trông cô càng thêm tiều tụy, quầng thâm càng lớn.

Khó khăn họ gặp phải tại Dras – Leona khiến Eragon mừng vì Roran đã tới Aroughs chiến đấu và chiến thắng tại thành phố phía nam này. Anh ấy dũng cảm hơn mình. Nasuada không đồng tình nhưng Eragon quyết một khi Roran quay lại – nếu đúng ra thì chỉ trong vài ngày nữa – Eragon sẽ lập lá chắn hoàn toàn cho anh. Eragon đã mất quá nhiều người thân vì triều đình và Galbatorix và nó không muốn mất nốt Roran.

Nó dừng lại khi ba người lùn đang mải cãi cọ đi ngang qua. Người lùn không đội mũ trụ hay đeo huy hiệu nhưng nó biết họ không thuộc tộc Dûrgrimst Ingeitum vì họ tết râu với hột cườm – kiểu thời trang nó không bao giờ thấy ở một Ingeitum. Dù người lùn có nói chuyện gì thì nó cũng chằng hiểu – nó chỉ biết vài từ trong ngôn ngữ người lùn – nhưng chủ đề kia rõ ràng là rất quan trọng vì họ nói lớn, điệu bộ căng thẳng, biểu hiện thiếu kiềm chế và không hề để ý tới nó hay Saphira đang đứng bên đường.

Eragon mỉm cười khi họ đi qua; dù họ rất nghiêm túc nhưng nó vẫn thấy buồn cười làm sao ấy. Varden đã nhẹ nhõm đi nhiều khi vua người lùn mới Orik đã dẫn đoàn quân tới Dras – Leona hai ngày trước. Và chiến thắng của Roran ở Aroughs cùng với sự kiện này trở thành đề tài bàn tán chủ yếu trong doanh trại. Số lượng người lùn đã nhân đôi lực lượng đông minh Varden và tăng cơ hội Varden sẽ tới được Urû’baen và đánh bại Galbatorix nếu tìm được cách qua mặt Murtagh và Thorn.

Khi Nó và Saphira đi qua doanh trại, Eragon nhìn thấy Katrina ngồi ngoài lều đan quần áo cho đứa con sắp chào đời. Chị giơ tay vẫy nó và gọi. “Em họ!”

Nó vui vẻ đáo lại. Chuyện chào hỏi giữa họ đã trở thành thói quen từ khi chị và anh họ nó kết hôn.

Sau khi cả nó và Saphira đã ăn uống no say – chủ yếu là Saphira – chúng nghỉ ngơi trên một mảng đất mềm chan hòa ánh nắng cạnh lều Eragon. Theo lệnh của Nasuada, khu đất đó để trống cho Saphira sử dụng, và quân Varden cũng vui vẻ thôi.

Saphira nằm cuộn tròn tắm nắng trong khi Eragon lôi cuốn Domia Wyrda từ túi yên cương ra và ngồi dựa vào hốc giữa cổ và chân trước cô nàng. Ánh sáng chiếu vào cánh và lớp vảy lấp lánh, sơn lên đó một thứ màu tím huyết dụ kỳ lạ. Ánh sáng nhảy nhót tạo nên những hình thù lấp lánh khiến nó khó đọc nổi những con chữ run vuông chằn chặn. Nhưng nó không phiền; được ngồi cạnh saphira có thể đánh tan mọi sự bất tiện.

Chúng ngồi cùng nhau một hai tiếng đồng hồ gì đó tới khi Saphira tiêu hóa xong bữa ăn còn Eragon mệt mỏi vì phải dịch những câu nói phức tạp của Thầy tu Heslant. Sau đó vì chán, chúng đi lang thang khắp doanh trại, xem xét hàng phòng thủ và thi thoảng nói chuyện với những lính gác ở vòng ngoài.

Gần phía đông doạnh trại, nơi một toán người lùn đang đứng, họ gặp một ngườn lùn đang ngồi chồm hổm cạnh một xô nước, tay áo sắn tới khuỷu, nặn một quả bóng đất bằng cỡ nắm đấm. Dưới chân anh ta và bùn và cái que để quấy bùn.

Cảnh tưởng quá không hợp lý nên phải vài phút sau Eragon mới dám nhận đó là Orik.

““Derûndânn, Eragon... Saphira,” Orik không nhìn lên mà nói.

““Derûndânn,” Eragon nói nhắc lại từ chào hỏi bằng ngôn ngữ người lùn và ngồn xuống bên cạnh. Nó quan sát Orik tiếp tục nặn quả bóng. Orik thường xuyên nắm lấy một nắm đất rồi từ từ bồi thêm vào quả bóng.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy một vua người lùn ngồi lê dưới đất nghịch đất như trẻ con,” Eragon nói.

Orik thở phì phì, thổi tung râu lên. “Tôi cũng không bao giờ nghĩ một kỵ sĩ và rồng lại nhìn tôi chằm chằm khi tôi đang làm một Erôthknurl.”

“Erôthknurl là gì?”

“Là thardsvergûndnzmal.”

“Một thardsver—?” Eragon bỏ cuộc khi nói được nửa từ vì không thể nhớ nổi chứ đừng nói là phát âm. “Và nó là...”

“Một thứ có vẻ giống thứ khác hơn bản thân nó.” Orik giơ quả banh đất lên. “Như thế này. Đây là viên đá hình thành từ đất. Hay đúng hơn, tý nữa nó sẽ là thế.”

“Viên đá hình thành từ đất... Phép thuật à?”

“Không, chỉ là kỹ năng khai khoáng thôi. Chẳng có gì hơn.”

Khi Orik không giải thích thêm, Eragon hỏi. “Làm thế nào?”

“Nếu anh kiên nhẫn, anh sẽ hiểu.” Rồi, sau một chặp, Orik dịu giọng nói. “Đầu tiên anh phải tìm ít đất.”

“Nhiệm vụ khó đấy,”

Orik ngước lên nhìn qua hàng lông mày rậm rạp. “Vài loại đất tốt hơn những loại khác. Ví dụ, chúng ta không thể dùng cát. Đất phải chứa nhiều hạt khoáng khác nhau mới kết dính được. Ngoài ra trong đất phải lẫn sét. Nhưng quan trọng nhất, nếu tôi làm thế này” – và anh ta vỗ tay vào đất xung quanh – “sẽ có nhiều bụi lẫn trong dất. Thấy không?” Anh ta giơ tay cho Eragon xém lớp bụi bám trong lòng bàn tay.

“Sao lại quan trọng thế?”

“À,” Orik xoa mũi, để lại ít nhọ trên mũi. Anh ta tiếp tục nặn quả banh thành hình tròn hoàn hảo. “Một khi có đất tốt, anh làm ướt nó và trộn như trộn bột mỳ với nước cho tới khi được một ít bùn tốt, đặc.” Anh ta hất đầu về đống bùn nhão dưới chân. “Từ bùn, cậu nặn quả banh, như thế này này. Sau đó cậu bóp chặt hết mức có thể. Thế là một có một quả banh tròn hoàn hảo. TỚi khi nó hơi dính, cậu làm theo tôi: cho thêm chút đất để hút bớt ẩm từ bên trong. Cậu tiếp tục làm cho tới khi quả banh khô nhưng vẫn giữ được hình dạng và không vỡ ra.”

“Như vậy chúng ta sắp có được khoáng thạch Erôthknurl. Sau đó tôi sẽ để nó dưới ánh mặt trời. ÁNh sáng và hơi nóng sẽ giúp lấy hết nước từ bên trong; sau đó tôi lại đắp đất lên và lại nặn tròn nó lại. Sau ba hay bốn lần, bề ngoài khoáng thạch Erôthknurl sẽ cứng như da Nagra.”

“Vậy là làm tất cả chỉ để có một quả banh bùn khô à?” Eragon bối rối hỏi. Saphira cũng có cảm giác tương tự.

Orik lại bốc thêm một nắm đất. “Không, vì thế chưa xong. Tiếp theo chúng ta sẽ dùng tới bụi. Tôi lấy bụi trát bên ngoài Erôthknurl để có lớp ngoài mỏng và trơn láng. Sau đó tôi để quá banh đó cho không khí ẩm tiếp xúc rồi cho thêm bụi, rồi đợi, cứ thế.”

“Trong bao lâu”

Tới khi bụi không bám nổi vào Erôthknurl nữa. Lớp vỏ sẽ khiến Erôthknurl đẹp hơn. Sau khoảng một ngày, nó sẽ sáng lấp lánh như thể đá hoa cương. Không cần cần nghiền, không cần gia công, không dùng pháp thuật – chỉ dùng trái tim, khối óc và đôi bàn tay – cậu sẽ có một viên đá từ đất... một viên đá dễ vỡ nhưng dù sao cũng là đá.”

Dù Orik nhắc đi nhắc lại nhưng Eragon vẫn khó tin rồi bùn dưới chân cậu có thể tạo được một thứ gì giống như Orik nói mà không cần tới phép thuật.

Nhưng vì sao người lại làm cái này hả vua người lùn? Saphira hỏi. Người có nhiều trọng trách vì giờ người là đấng trị vì cơ mà.

Orik càu nhàu. “Tôi không cần làm gì vào lúc này. Những người của tôi đã sẵn sàng chiến đấu và sẽ không tốt cho họ nếu tôi cứ toang toác bên họ như gà mẹ. Tôi cũng không muốn ngồi một mình trong lều xem râu mọc... đây là Erôthknurl.”

Anh ta lại im lặng nhưng Eragon thấy hình như Orik phiền lòng vì điều khác nên nó im miệng đợi xem Orik muốn nói gì. Sau một phút, Orik húng hắng nói, “Tôi từng uống rượu chơi xúc xắc với những người khác trong bộ tộc cho dù tôi có là truyền nhân của vua Hrothgar. Chúng tôi có thể cùng nhau nói chuyện và cười đùa thoải mái. Tôi không phải xin ai giúp đỡ và cũng không ai nhờ vả tôi. Nhưng giờ mọi sự đã khác. Bạn bè tôi không thể quên tôi là vua của họ và tôi không thể lờ chuyện họ đối xử khác với tôi.”

“Điều đương nhiên mà,” Eragon nhận xét. Nó thông cảm với Orik vì nó cũng đã trải qua tình huống tương tự khi trở thành Kỵ sĩ.

“Có lẽ. Nhưng kể cả thế tôi cũng khó chịu.” Orik than thở. “Ôi, cuộc đời thật là lạ, đội khi còn độc ác... Tôi ngưỡng mộ Hrothgar như bề tôi đối với nhà vua nhưng đối với tôi dường như ông ấy không đối xử như những người khác. Giờ tôi hiểu vì sao ông ấy lại như thế.” Orik khum khum tay cầm quả banh đất mà nhìn. “Khi cậu gặp Grimstborith Gannel ở Tarnag, ông ấy có giải thích cho cậu biết ý nghĩa của Erôthknurln không?”

“Chưa bao giờ nói tới.”

“Tôi đoán là do có nhiều vấn đề quan trọng hơn cần bàn... Nhưng vì là một Ingeitum, và là một knurla, cậu cần hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của Erôthknurl. Đó không chỉ là cách để cậu tập trung đầu óc, cho qua thời gian hay tạo ra đồ kỷ niệm. Không. Làm ra đá từ đất là một thứ thiêng liêng. BẰng cách này chúng ta thể hiện niềm tin vào sức mạnh của Helzvog và tôn kính ngài. Khi bắt tay vào việc chúng ta phải đặt vào đó sự tôn kính và mục đích của mình. Tạo ra một Erôthknurl là tạo nên một lời cầu nguyện và thần linh sẽ không nhân từ với bất cứ ai phù phiếm. Từ đất hình thành nên sinh thể sống và sinh thể sống lại trở về với đất. Vòng tuần hoàn cứ tiếp tục mãi mãi ngàn đời.”

Chỉ tới lúc này Eragon mới hiểu được công việc của Orik. “Anh cần Hvedra,” nó nói. “cô ấy sẽ đồng hành cùng anh và giúp anh không tuyệt vọng. Tôi chưa bao giờ thấy anh hạnh phúc như hồi cùng cô ấy ở Bregan Hold.”

Nếp nhăn trên mắt Orik lại trũng xuống khi anh ta cười. “Đúng... Nhưng nàng là grimstcarvlorss của Ingeitum và nàng không thể bỏ nhiệm vụ để đi an ủi tôi. Hơn nữa tôi sẽ không thể nghỉ ngơi nếu nàng trong tầm sinh sát của Murtagh và Thorn hoặc tệ hơn, dưới móng vuốt của Galbatorix và con rồng đen của lão.”

Để giúp Orik vui lên, Eragon nói, “Anh làm tôi nhớ tới câu trả lời cho một câu đố: một vị vua người lùn ngồi trên đất, làm một viên đá từ đất. Tôi không nhớ rõ câu đố như thế nào nhưng đại loại là:

Mạnh mẽ và chắc khỏe

Mười ba ngôi sao mọc trên lông mày

Viên đá sống hình thành biến đất chết thành đá chết.

“Không có vần điệu nhưng anh không thể bắt tôi ngâm nga chuẩn xác được. Tôi có thể tưởng tưởng câu đó như vậy sẽ khiến ối người gãi chảy máu đầu.”

“Ừm,” Orik nói. “Không phải với người lùn. Kể cả đứa nhỏ của chúng tôi cũng dễ dang hạ gục cậu.”

Cả rồng nữa, Saphira nói.

“Tôi nghĩ là anh đúng,” Eragon nói.

Sau đó nó hỏi Orik về mọi thứ xảy tới với người lùn sau khi nó và Saphira rời Tronjheim trong cuộc hành trình lần thứ hai về khu rừng của thần tiên. Eragon không có cơ hội nói chuyện dông dài với Orik kể từ khi người lùn tới Dras – Leona và nó mừng vì được nghe chuyện bạn mình.

Orik không muốn giải thích những rắc rối trong thể chế của người lùn. Nhưng khi nói chuyện, biểu hiện trên mặt anh ta sáng lạng hơn và sống động hơn. Anh ta giành cả tiếng kể về những kế hoạch của các bộ tộc người lùn đã bàn trước khi hành quân tới Varden. Các bộ lạc theo như Eragon biết đều rất bướng bỉnh và ngay cả vua họ, là Orik, cũng khó buộc họ nghe lời.

“Như kiểu dẫn một đàn ngỗng trời ấy,” Orik nói. “Họ luôn muốn đi theo hướng của mình và họ rất ồn ào và họ sẽ cắn tay bạn ngay khi có cơ hội.”

Trong khi nói chuyện, Eragon nghĩ sẽ hỏi về Vermûnd. Nó thường bằn khoăn chuyện gì sẽ xảy ra với người lùn định ám sát nó. Nó thích biết kẻ thù của nó đang ở đâu, đặc biệt là một kẻ nguy hiểm như Vermûnd.

“Hắn trở về quê nhà tại Feldarast,” Orik nói. “Ở đó hắn sẽ ngồi uống rượu và giận dữ về những chuyện đang và sẽ xảy ra. Nhưng giờ ai thèm nghe hắn nói chứ. Knurlan của Az Sweldn rak Anhûin vốn nổi tiếng cứng đầu. Trong hầu hết trường hợp, họ sẽ vẫn trung thành với Vermûnd dù các bộ tộc khác có làm gì hay nói gì nhưng cố ám sát một vị khách là hành vi không thể dung thứ. Tôi không thể tin nổi họ vẫn đồng ý li khai chỉ để bảo vệ một grimstborith đã đánh mất danh dự. Có thể mất hàng năm nhưng họ thực sự đã chống lại hắn. Tôi đã nghe thấy rằng rất nhiều người trong bộ lạc xa lánh Vermûnd, kể cả trong khi chính họ cũng bị tẩy chay.”

“Vậy anh nghĩ hắn ta sẽ ra sao?”

“Hắn đành phải chấp nhận hoặc không có người sẽ bỏ rượu độc hắn hoặc đâm dao vào ngực hắn. Dù sao hắn cũng không còn là mối đe dọa của cậu hay là thủ lĩnh của Az Sweldn rak Anhûin.”

Họ tiếp tục nói chuyện tới khi Orik hoàn thành xong vài bước đầu tiên trong quá trình tạo Erôthknurl. Anh ta đã để qua banh trên vải lều cho khô. Khi Orik đứng dậy thu dọn xô thùng và que, anh ta nói, “Tôi mừng vì anh đã lắng nghe tôi nói, Eragon ạ. Và cả cô nữa, Saphira. Thật là lạ khi giờ trừ Hvedra tôi chỉ có thể nói chuyện thoải mái với hai người. Những người khác...” Ông nhún vai. “Bah.”

Eragon cũng đứng dậy. “Anh là bạn tôi, Orik, dù có phải vua người lùn hay không. Chúng tôi luôn vui vẻ nói chuyện với anh. Và anh biết đấy, đừng lo chúng tôi sẽ nói cho người khác nghe những gì anh nói.”

“Ừ, tôi biết mà Eragon.” Orin nhìn thẳng vào mắt nó. “Cậu tham gia vào những sự kiện trong đại nhất thế giới nhưng cậu chưa bao giờ suy nghĩ hẹp hòi.”

“Tôi không hứng. Hơn nữa, tôi còn nhiều thứ khác để lo hơn trong giai đoạn này.”

“Thế thì tốt. Một kỵ sĩ phải tách biệt với những người khác. Hơn nữa, sao cậu có thể vì vụ lợi được? Tôi chưa bao giờ đánh giá cao tính độc lập của Kỵ sĩ nhưng giờ thì có, và vì nguyên nhân cá nhân.”

“Tôi không hoàn toàn xa rời mọi người,” Eragon nói. “Tôi đã thề trung thành với anh và Nasuada.”

Orikk gật đầu. “Đúng. Cậu không hoàn toàn tách khỏi Varden hay Ingeitum. Dù gì xảy ra tôi vẫn mừng vì tôi có thể tin cậu.”

Một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt Eragon. “Tôi cũng vậy.”

“Dù gì chúng ta cũng là anh em nuôi mà nhỉ? Và đã là anh em thì phải bảo vệ lẫn nhau thôi.”

Nên thế, Eragon nghĩ dù nó không nói lớn, “Anh em nuôi,” nó đồng tình và vỗ vai Orik.