Emily Trên Dải Cầu Vồng

Chương 4: “Theo cách người khác nhìn chúng ta”



Emily đã lau dọn khắp lượt sàn bếp ở Trăng Non và giờ đang mê mải dùng giấy ráp đánh bóng mặt sàn men theo đúng các đường “hoa văn chữ chi” tuy đẹp nhưng rất phức tạp, vốn là một trong những truyền thống tại Trăng Non và nghe đồn được phát minh bởi cụ cố từng nổi tiếng với câu nói “Tôi sẽ ở đây”. Bà Laura đã dạy Emily cách làm và Emily rất tự hào về kỹ năng của mình. Ngay cả bà Elizabeth cũng phải hạ cố nhận xét Emily đã rất khéo tay trong việc đánh bóng các hoa văn nổi tiếng đó, và một khi bà Elizabeth đã phải cất lời khen ngợi thì mọi bình luận xa xôi hơn cũng trở thành vô dụng mà thôi. Ở làng Hồ Blair, chỉ độc có trang trại Trăng Non là vẫn giữ gìn phong tục lâu đời dùng giấy ráp đánh bóng mặt sàn; từ lâu các bà nội trợ khác đã bắt đầu sử dụng những thiết bị “mới toanh” cũng như nhiều dụng cụ vệ sinh tinh xảo nhằm làm trắng sàn nhà. Nhưng quý bà Elizabeth Murray không nằm trong nhóm đó; chừng nào bà còn nắm quyền cai quản Trăng Non thì chừng đó nến vẫn còn được thắp sáng và sàn nhà vẫn được dùng giấy ráp đánh sáng bóng như gương. Bà Elizabeth từng khiến Emily bực mình đến phát điên vì cứ nhất định đòi cô phải khoác bộ “Mẹ Hubbard” cũ rích của bà Laura trong lúc lau chùi sàn nhà. Có lẽ cũng cần phải giải thích một chút cho các thành viên của thế hệ này biết, “Mẹ Hubbard” là một chiếc váy suông kỳ quái về cơ bản được sử dụng như một bộ váy ở nhà và thời xưa từng rất được ưa chuộng vì vừa mát mẻ vừa dễ mặc. Có lẽ chẳng cần phải nói cũng biết, bà Elizabeth hoàn toàn phản đối kiểu váy Mẹ Hubbard này. Theo cách nhìn nhận của bà thì chúng là thành tựu mới nhất của sự lôi thôi luộm thuộm, và bà Laura không bao giờ được phép có thêm bất kỳ chiếc nào nữa. Tuy nhiên, với chiếc váy cũ kia, cho dù màu tử đinh hương xinh đẹp ban đầu đã bị phai thành sắc trắng nhờ đục thì nó vẫn còn quá “tốt” nên chưa nhất thiết phải bị tống ra thùng rác; và nó chính là cái váy Emily bị bắt mặc lên người.

Cũng chẳng khác gì bà Elizabeth, Emily căm ghét cái kiểu váy Mẹ Hubbard ấy đến tận tâm can. Với cô, chúng còn tệ hơn cả đám “tạp dề em bé” đáng ghét mà cô phải mặc hồi mùa hè đầu tiên đặt chân đến trang trại Trăng Non. Cô biết thừa trông mình sẽ lố bịch đến thế nào trong chiếc váy Mẹ Hubbard của bà Laura, vốn dài tới tận chân cô mà lại buông thõng xuống từ đôi vai gầy gò của cô, trông vừa lùng thùng vừa xấu xí; và Emily thì luôn sợ bị trở nên “lố bịch”. Cô từng khiến bà Elizabeth choáng váng khi lạnh lùng tuyên bố rằng cô “thà xấu xí còn hơn lố bịch”. Thành ra Emily lau chùi đánh bóng sàn nhà nhưng lúc nào cũng để mắt canh chừng cửa ra vào, sẵn sàng bỏ chạy nếu nhỡ có bất kỳ khách lạ nào xuất hiện giữa lúc cô đang chui trong cái váy gớm guốc đó.

“Bỏ chạy”, như Emily biết rõ mười mươi, không phải là một truyền thống của nhà Murray. Ở Trăng Non, ta cần giữ vững lập trường, bất kể là vì vấn đề gì... chẳng hạn như ta lúc nào cũng phải ăn mặc tề chỉnh đúng đắn phù hợp với tình hình. Emily ý thức được điều này hoàn toàn hợp lý, nhưng cô vẫn còn trẻ, vẫn còn khờ dại, đủ để canh cánh nỗi lo sẽ xấu hổ đến chết nếu có bất kỳ ai nhìn thấy cô đang khoác trên người cái váy Mẹ Hubbard của bà Laura. Cái váy gọn gàng thật đấy... sạch sẽ thật đấy... nhưng nó cũng thật “lố bịch”. Bạn cứ thử mà xem!

Đúng lúc Emily vừa chà cát xong xuôi và đang đem bình cát cất vào trong cái hốc nhỏ bên dưới bệ bếp, chỗ quen thuộc dành cho nó từ thời xưa, thì cô nghe có tiếng người lạ vọng lại từ ngoài khu vườn sau bếp. Nhòm vội qua cửa sổ, cô nhận ra ngay ai là chủ nhân của những giọng nói đó... cô Beulah Potter và bà Ann Cyrilla Potter, hiển nhiên, đang đến để tham dự cuộc họp của Hội Phụ nữ Cứu trợ theo kế hoạch. Họ thẳng tiến tới cửa sau, theo đúng thói thường ở Hồ Blair mỗi khi người ta đến nhà hàng xóm, kể cả để thăm hỏi thân tình lẫn bàn công chuyện; lúc này họ đã băng qua hàng thục quỳ rực rỡ sắc màu được ông Jimmy trồng hai bên con đường lát đá dẫn tới khu chế biến bơ sữa, và trong số toàn thể dân cư cả ở trong lẫn ngoài vùng Hồ Blair, họ là hai người Emily ít muốn bị bắt gặp nhất trong bất kỳ hoàn cảnh lố bịch nào. Không kịp cân nhắc, cô đâm bổ vào buồng để giày và đóng sầm cửa lại.

Bà Ann Cyrilla gõ cửa bếp hai lần, nhưng Emily không hề nhúc nhích. Cô biết bà Laura đang dệt vải trên căn gác xép áp mái; cô có thể nghe thấy tiếng bàn đạp thậm thịch văng vẳng phía trên đầu. Nhưng cô chắc mẩm bà Elizabeth đang làm bánh ở chái bếp và hẳn thể nào cũng nhìn thấy hai vị khách. Bà sẽ dẫn họ vào phòng khách và rồi Emily có thể chuồn khỏi chỗ này. Và có một điều cô đã hạ quyết tâm... họ không được phép nhìn thấy cô trong chiếc váy Mẹ Hubbard kia. Cô Potter là một phụ nữ gầy gò, chanh chua, ăn nói độc địa, thích ngồi lê đôi mách, lại có vẻ ghét bỏ tất cả mọi người nói chung và Emily nói riêng; còn bà Ann Cyrilla là một bà tám phốp pháp, hòa nhã, khéo léo, xinh đẹp, và, chính bởi sự ngọt ngào thân thiện của bà mà chỉ trong một tuần cũng đủ sức gây nên những tổn hại đích thực nhiều hơn cả cô Potter làm được trong hẳn một năm. Dù không thể cưỡng nổi cảm tình dành cho Ann Cyrilla, Emily vẫn không tin tưởng bà. Cô quá thường xuyên được nghe chuyện bà Ann Cyrilla giễu cợt những người vốn trước “mặt” luôn được bà bày tỏ thái độ dịu dàng duyên dáng, và bà Ann Cyrilla, vốn là một trong những “Wallace đỏm dáng” nơi Ao Thành Kiến, đặc biệt thích cười cợt những nét khác thường trong trang phục của người khác.

Tiếng gõ cửa lại vang lên; lần này xuất phát từ cô Potter, theo như suy đoán của Emily dựa vào những âm thanh giật cục. Họ đang dần mất kiên nhẫn. Chà, họ thích thì cứ việc gõ cho đến khi đàn bò về nhà đi, Emily thầm hứa trong lòng. Cô sẽ không ra mở cửa trong cái váy Mẹ Hubbard đâu. Rồi cô nghe tiếng Perry vọng từ ngoài vào, giải thích rằng bà Elizabeth đang hái quả mâm xôi ở bãi đất lổn nhổn gốc cây đằng sau chuồng bò, nhưng mời họ vào trong và cứ thoải mái như ở nhà, cậu sẽ đi gọi bà về. Trước sự tuyệt vọng của Emily, hai vị khách làm đúng thế thật. Cô Potter ngồi xuống kèm theo tiếng cọt kẹt, còn bà Ann Cyrilla thì nghe phù một tiếng, trong lúc tiếng bước chân rút lui của Perry tắt dần trong vườn. Emily nhận ra cô sắp đường cùng đến nơi rồi. Bên trong cái tủ giày tí hin này – vốn không chỉ đựng giày mà còn cất cả đống quần áo lao động của ông Jimmy nữa – vừa ngột ngạt vừa nóng hầm hập. Cô chỉ ước ao sao cho Perry sẽ không mất quá nhiều thời gian mới tìm ra bà Elizabeth.

“Ôi chao, trời nóng kinh lên được,” bà Ann Cyrilla vừa nói vừa rên ầm lên.

Emily tội nghiệp – không, không, chúng ta không được gọi cô là Emily tội nghiệp; cô không đáng phải nhận sự thương hại – cô rất ngốc nghếch và đã được đối xử vô cùng hợp tình hợp lý rồi; Emily, vốn khi đó mồ hôi đang vã ra như tắm, hoàn toàn đồng ý với bà.

“Tôi không dễ nóng bức như người béo,” cô Potter nói. “Hy vọng bà Elizabeth sẽ không bắt chúng ta phải chờ lâu quá. Bà Laura đang dệt vải... tôi nghe thấy tiếng máy dệt trên gác xép. Nhưng có gặp bà ấy cũng chẳng ăn thua... dù bà ấy hứa hẹn gì thì bà Elizabeth cũng sẽ chẳng buồn đếm xỉa cho xem, chỉ bởi vì đó không phải quyết định của bà ấy. Tôi thấy ai đó vừa chà cát đánh bóng sàn nhà xong. Bà có thấy những tấm ván mòn vẹt kia không? Thể nào bà lại chẳng đoán là bà Elizabeth Murray sắp lát sàn mới; ấy vậy nhưng tất nhiên bà ấy quá keo kiệt. Nhìn dãy nến trên mặt lò sưởi kìa... nhìn mà xem, ánh sáng đã kém lại còn thêm bao nhiêu phiền phức, chỉ vì nếu cho thêm tí dầu hỏa thì sẽ tốn kém hơn. Dào ôi, bà ấy đâu có mang tiền theo được chứ; dẫu có mang họ Murray đi chăng nữa thì rồi tới lúc đến cánh cổng vàng, bà ấy cũng phải bỏ tất cả lại phía sau thôi.”

Emily sững sờ choáng váng. Cô nhận ra mình không chỉ sắp chết ngạt trong tủ giày, giờ cô còn biến thành kẻ nghe lén – một việc cô chưa từng làm kể từ buổi tối tại Maywood, khi cô trốn dưới gầm bàn cốt nghe lỏm xem các ông cậu bà bác bàn bạc thế nào về số phận của cô. Tất nhiên, hồi đó cô chủ tâm làm thế, còn giờ là trong thế bất đắc dĩ – ít nhất, cái váy Mẹ Hubbard đã biến nó thành tình thế bất đắc dĩ. Nhưng chuyện đó không giúp cho những lời bình luận của cô Potter trở nên dễ lọt tai hơn. Ai cho cô ta cái quyền được gọi bác Elizabeth là kẻ keo kiệt? Bác Elizabeth không keo kiệt. Đột nhiên, Emily thấy giận cô Potter vô cùng. Chính cô cũng thường âm thầm chỉ trích bác Elizabeth, nhưng một người ngoài mà lại dám làm thế thì quả không thể nào chấp nhận được. Lại còn cái kiểu châm chọc những người họ Murray nữa chứ! Emily có thể hình dung ra ánh mắt cô Potter lóe lên đanh đá đến mức nào khi cô ta thốt lên câu này. Còn về những cây nến...

“Ánh nến có thể chiếu sáng cho người nhà Muray nhìn xa trông rộng hơn nhiều so với cô có thể nhìn dưới ánh mặt trời đấy, thưa cô Potter,” Emily khinh khỉnh hết mức so với một người đang bị cả một dòng sông mồ hôi tuôn đầm đìa sau lưng trong khi mũi chỉ ngửi thấy mùi da cũ.

“Chắc hẳn vì vấn đề chi phí nên năm nay bà ấy mới không cho Emily tiếp tục đến trường nữa,” bà Ann Cyrilla nói. “Hầu hết mọi người đều chắc mẩm dù sao đi nữa bà ấy cũng sẽ vẫn cho con bé học ở Shrewsbury một năm... cô hẳn sẽ cho rằng bà ấy thể nào cũng làm thế, nếu không phải vì lý do nào khác thì ít nhất cũng bởi lòng kiêu hãnh. Nhưng tôi nghe nói bà ấy đã quyết định ngược lại rồi.”

Tim Emily chùng hẳn xuống. Cho đến tận lúc này, cô vẫn chưa dám khẳng định bà Elizabeth sẽ không cho cô tới Shrewsbury. Nước mắt bắt đầu dâng lên ầng ậng... những giọt nước mắt thất vọng bỏng rát, nhức nhối.

“Emily phải được học nghề gì đó để kiếm sống thôi,” cô Potter nhận xét. “Cha con bé chẳng để lại cái gì sất.”

“Cha đã để cháu lại đấy thôi,” Emily thầm nói, siết chặt tay thành hai nắm đấm. Cơn giận dữ đã hong khô những giọt lệ trong mắt cô.

“Ối dà,” bà Ann Cyrilla nói, giọng thấm đẫm ý chế giễu ra chiều khoan dung lắm, “nghe đồn Emily định kiếm sống bằng nghề viết truyện đấy - không chỉ sống cho qua ngày đâu, mà tôi dám chắc con bé còn rắp tâm làm giàu nữa đấy.”

Bà lại cười lớn. Cái ý tưởng này mới lố bịch làm sao chứ. Đã lâu lắm rồi bà Ann Cyrilla không nghe thấy chuyện gì buồn cười đến thế.

“Người ta bảo con bé lãng phí đến quá nửa thời gian viết quếnh viết quáng những thứ vô bổ,” cô Potter đồng tình. “Tôi mà là bà Elizabeth thì chẳng mấy chốc sẽ chữa cho con bé khỏi cái thói hành động vớ vẩn như thế ngay.”

“Chẳng đơn giản thế đâu. Theo như tôi hiểu thì con bé lúc nào cũng khó dạy bảo lắm - quá cứng đầu cứng cổ đúng kiểu người nhà Murray. Cái đám ấy ai cũng ngang như cua hết.”

(Emily, đầy phẫn nộ: “Nghe cái cách nhận xét về chúng ta bất kính chưa kìa! Giá không phải đang mặc cái váy Mẹ Hubbard này thì mình đã tông cửa xông ra đối chất với họ rồi.”)

“Như hiểu biết của tôi về bản chất con người thì con bé rõ là cần phải được quản giáo cho chặt vào,” cô Potter nói. “Rồi nó sẽ thành kẻ lẳng lơ cho xem, ai nhìn cũng có thể thấy rõ như thế. Rồi nó sẽ lại thành một Juliet thứ hai thôi. Bà cứ đợi mà xem. Mới mười bốn tuổi đầu mà nó đã đánh mắt với tất cả mọi người rồi!”

(Emily, một cách đầy châm biếm: “Cháu không như thế! Và mẹ không phải kẻ lẳng lơ. Mẹ hoàn toàn có khả năng, nhưng mẹ không trở thành người như thế. Còn bà thì dù có muốn cũng không làm được, bà cô già đáng kính ạ!”)

“Con bé đâu có được xinh đẹp như Juliet tội nghiệp, mà nó lại còn tẩm ngẩm tầm ngầm quá thể, vừa ranh mãnh vừa thâm sâu khó lường. Bà Dutton bảo trên trần đời bà ấy chưa từng gặp đứa trẻ nào ranh mãnh đến thế. Nhưng vẫn có những điểm khiến tôi thích ở cô bé Emily tội nghiệp ấy đấy.”

Giọng bà Ann Cyrilla đầy vẻ kẻ cả. Emily “tội nghiệp” co rúm lại giữa đống giày dép.

“Điểm khiến tôi không thích ở con bé là lúc nào nó cũng làm ra vẻ thông minh,” cô Potter nói giọng quả quyết. “Con bé toàn sử dụng những lời lẽ khôn ngoan học được từ trong sách nhưng lại mạo nhận đó là của mình...”

(Emily, tức giận: “Cháu không thế!”)

“Mà nó lại còn giỏi mỉa mai người khác và rất dễ tự ái nữa chứ, và tất nhiên cũng kiêu ngạo chẳng kém gì Lucifer,” cô Potter kết luận.

Bà Ann Cyrilla lại bật cười vui vẻ, ra chiều khoan dung.

“Ôi dào, ai mà chẳng biết người nhà Murray vốn thế từ xưa. Nhưng sai lầm lớn nhất của họ là cứ đinh ninh rằng chỉ mỗi họ mới biết cách xử lý đúng đắn mọi việc, và cái lối tư duy ấy thì Emily nhiễm nặng lắm. Đấy, thậm chí con bé còn cho rằng nó thuyết giảng giỏi còn hơn cả cha Johnson nữa cơ.”

(Emily: “Đấy là tại mình bảo trong một bài giảng mà ông ấy nói câu trước một đằng, nói câu sau một nẻo đấy mà... và ông ấy làm vậy thật còn gì. Và cháu cũng đã nghe thấy bà châm chích cả chục bài giảng rồi ấy chứ, bà Ann Cyrilla.”)

“Con bé cũng hay ghen tị nữa,” bà Ann Cyrilla nói tiếp. “Cứ thua ai cái gì là con bé không tài nào chịu đựng nổi, nó muốn cái gì cũng phải đứng nhất cơ. Tôi biết thừa trong đêm hòa nhạc, nó đã thấy tủi nhục đến trào nước mắt vì Ilse Burnley ẵm gọn giải thưởng dành cho màn hội thoại. Emily diễn dở quá... nó cứ cứng đờ như khúc gỗ ấy. Mà nó lại còn liên tục cãi lại các bậc bề trên nữa chứ. Kể ra, nếu nó không tỏ thái độ vô giáo dục quá thể như thế thì chuyện cũng hay ho đấy.”

“Cũng lạ là bà Elizabeth không trị được cái chứng đó của nó. Người nhà Muray lúc nào cũng chắc mẩm nền tảng giáo dục của họ nhỉnh hơn hẳn so với người bình thường,” cô Potter nói.

(Emily, đầy phẫn nộ, nói với đám giày dép: “Đúng thế còn gì.”)

“Tất nhiên,” bà Ann Cyrilla nói, “theo tôi phần lớn khuyết điểm của Emily đều từ mối quan hệ qua thân mật với Ilse mà ra hết. Lẽ ra họ không nên cho phép con bé qua lại với Ilse như thế. Này nhé, người ta bảo Ilse cũng kém mộ đạo chẳng thua gì cha nó đâu. Tôi lúc nào mà chẳng biết nó nào có tin vào Chúa... và ngay cả Quỷ Dữ nữa.”

(Emily: “Con quỷ trong mắt bà còn xấu xa hơn nhiều.”)

“Ối chà, sau lúc phát hiện ra người vợ quý báu của mình không bỏ nhà theo Leo Mitchell, giờ ngài bác sĩ dạy dỗ con bé tử tế hơn một chút rồi,” cô Potter khịt mũi. “Ông ấy đã cho con bé đến lớp giáo lý. Nhưng con bé không thích hợp làm bạn Emily đâu. Nghe bảo cứ mở miệng ra là nó lại chửi với rủa. Có hôm bà Mark Burns đang ở trong văn phòng của ông bác sĩ thì nghe thấy Ilse nói rõ mồn một trong phòng khách 'ra ngoài, đồ chết giẫm Spot,' chắc hẳn là con chó.”

“Ôi chao ôi, ôi chao ôi,” bà Ann Cyrilla rền rĩ.

“Bà có biết tuần vừa rồi tôi đã nhìn thấy nó làm gì không... chính tôi nhìn tận mắt bắt tận tay luôn nhé!” cô Potter nói bằng giọng vô cùng quả quyết. Bà Ann Cyrilla không cần phải giả định rằng cô đang dựa vào mắt của bất kỳ người nào khác.

“Cô chẳng thể làm tôi ngạc nhiên được đâu,” bà Ann Cyrilla nói líu ríu. “Dào, ghe bảo tối thứ Ba tuần trước, nó đã tham gia nghi thức quấy rối đêm tân hôn tại đám cưới của Johnson, ăn mặc chẳng khác gì thằng con trai.”

“Cũng gần giống như vậy. Nhưng chuyện xảy ra ở ngay sân trước nhà tôi cơ. Nó đi cùng Jen Strang, cô bé sang xin tôi rễ cây hoa hồng Ba Tư cho mẹ. Tôi đã hỏi Ilse xem liệu nó có biết may vá, nướng bánh và làm vài việc khác mà tôi nghĩ ắt hẳn nó đã được dạy rồi. Nhưng hỏi đến đâu Ilse cũng đều nói 'không', thái độ đến là trâng tráo, thế rồi nó nói... theo bà đứa con gái đó đã nói gì nào?”

“Ồ, nó nói gì?” bà Ann Cyrilla thì thào háo hức.

“Con bé nói, 'Cô có biết đứng bằng một chân còn chân kia giơ lên cao ngang tầm mắt không, cô Potter? Cháu biết làm thế đấy.' Và...” – cô Potter hạ thấp giọng bật ra một âm thanh thấm đẫm sự kinh hoàng – “... nó làm y như thế!”

Vị thính giả ở trong tủ vùi mặt vào chiếc áo xám của ông Jimmy hòng nén cơn buồn cười chỉ chực bật ra ngoài cổ họng. Cô nàng bốc đồng Ilse thích gây sốc cho cô Potter biết chừng nào chứ!

“Lạy Chúa lòng lành, quanh đó có ai không?” bà Ann Cyrilla tha thiết hỏi.

“Không... thật may quá. Nhưng tôi tin chắc cho dù có ai ở đấy thì con bé cũng làm y như thế thôi. Lúc đó chúng tôi đứng ngay sát đường chứ... bất kỳ ai cũng có thể đi ngang qua. Tôi xấu hổ quá thể. Thời tôi còn trẻ, một cô gái mà làm chuyện gì tương tự thế thì có mà chết đi cho xong.”

“Như thế đã thấm tháp gì so với chuyện con bé và Emily tắm trên bãi cát dưới ánh trăng mà không có lấy một mảnh vải che thân,” và Ann Cyrilla nói. “Đó đúng là chuyện tai tiếng không gì sánh kịp. Cô đã nghe chuyện đó chưa?”

“Ồ, có chứ, chuyện đó thì cả cái làng Hồ Blair này ai mà chẳng biết. Tất cả mọi người đều đã nghe kể rồi, trừ mỗi Elizabeth và Laura. Tôi vẫn chưa tìm ra tin này lan đi từ nguồn nào. Bọn chúng bị ai nhìn thấy à?”

“Ôi chao, không, không đến nỗi thế đâu. Ilse tự mình nói ra đấy. Có vẻ như nó nghĩ rằng đó là chuyện khá đương nhiên. Tôi thấy phải có ai đó nói chuyện với Laura và Elizabeth thôi.”

“Bà trực tiếp nói đi,” Potter gợi ý.

“Ôi, không, tôi không muốn chuốc lấy sự ghét bỏ của hàng xóm láng giềng đâu. Ơn Chúa, tôi không phải lãnh trách nhiệm dạy dỗ Emily Starr. Nếu không, còn lâu tôi mới cho phép con bé dính líu đến Lưng Bình Priest quá nhiều như thế. Anh ta là kẻ kỳ quái nhất trong cả cái dòng họ Priest kỳ quái ấy. Tôi dám chắc anh ta thảo nào cũng ảnh hưởng xấu đến con bé. Đôi mắt xanh lá của anh ta khiến tôi sởn hết cả tóc gáy. Tôi chẳng biết anh ta có tin vào bất cứ điều gì không nữa.”

(Emily, lại đầy châm biếm: “Ngay cả Quỷ cũng không sao?”)

“Theo như đồn thổi thì giữa anh ta và Emily có một câu chuyện khá kỳ quái,” cô Potter nói. “Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao cả. Chiều muộn hôm thứ Tư tuần vừa rồi, người ta bắt gặp họ trên quả đồi lớn, cư xử một cách quái lạ không để đâu cho hết. Họ cứ dán mắt lên trời mà đi... rồi đột nhiên dừng lại... chộp lấy cánh tay nhau rồi chỉ thẳng lên trên. Họ làm đi làm lại mấy lần liền. Bà Price quan sát họ từ sau cửa sổ và chịu không thể hình dung nổi họ đang làm gì. Trời vẫn còn quá sớm, chưa thể có sao được, và bà ấy chẳng tài nào nhìn ra có thứ gì trên trời. Bà ấy đã nằm trằn trọc cả đêm băn khoăn về chuyện đó ấy.”

“Chà, chung quy lại thì vẫn là vấn đề này thôi... Emily Starr cần được trông nom,” bà Ann Cyrilla nói. “Thỉnh thoảng tôi có cảm giác có khi sáng suốt ra thì nên hạn chế Muriel và Gladys giao du quá nhiều với con bé.”

(Emily, nồng nhiệt: “Ước gì bà làm thế. Bọn họ quá ngốc nghếch, quá khờ khạo, và lúc nào cũng cứ lảng vảng quanh cháu và Ilse.”)

“Ngẫm cho thấu đáo, tôi thấy thương thay cho con bé,” cô Potter nói. “Nó quá dại dột và kiêu căng, đâm ra chẳng chóng thì chầy rồi sẽ khiến tất cả mọi người ghét bỏ thôi, và những người đàn ông đứng đắn, biết suy nghĩ thấu tình đạt lý sẽ chẳng đời nào để tâm đến nó đâu. Geoff North kể cậu ta từng đưa nó về nhà một lần, và với cậu ta, thế là đã quá đủ rồi.”

(Emily, quả quyết: “Cháu tin cô! Nhận xét được câu đó thì Geoff đã tỏ ra khá thông minh đấy.”)

“Nhưng xem chừng con bé dễ chẳng sống qua nổi thời thiếu nữ đâu. Con bé có vẻ bị viêm phổi nặng lắm. Nói thật lòng, Ann Cyrilla ạ, tôi thực lấy làm tiếc cho đứa bé tội nghiệp đó.”

Đối với Emily, đây đúng là giọt nước làm tràn ly. Cô, một người nhà Starr đích thực mang trong mình một nửa dòng máu Murray lại phải nhận lòng thương hại từ Beulah Potter! Mẹ Hubbard cũng vậy mà không Mẹ Hubbard cũng vậy, làm sao mà chịu đựng nổi chuyện này chứ! Cánh cửa tủ đột nhiên bật mở và Emily hiện ra, trong bộ váy Mẹ Hubbard, đứng sừng sững trên lớp giày dép và áo quần. Má cô đỏ bừng, mắt tối lại. Bà Ann Cyrilla và cô Beulah Potter há hốc cả miệng, mất một lúc lâu vẫn chẳng khép lại được; mặt họ dần trở nên đỏ thẫm; họ chết lặng chẳng nói được câu gì. Suốt cả phút ấy, Emily nhìn chăm chăm họ trong sự im lặng thấm đẫm ý khinh miệt và chất chứa vô vàn ý nghĩa. Rồi, với phong thái của một nữ hoàng, cô đường bệ băng qua căn bếp rồi biến mất ở phía bên kia cánh cửa phòng khách, đúng lúc bà Elizabeth bước lên những bậc cấp bằng sa thạch kèm theo lời xin lỗi trang nghiêm vì đã bắt họ phải đợi. Cô Potter và bà Ann Cyrilla vẫn chết lặng không nói nên lời, thành ra họ chẳng dễ gì trò chuyện về Hội Phụ nữ Cứu trợ, vậy nên sau vài câu hỏi đáp nhát gừng, họ lúng túng cáo từ. Chẳng thể lý giải được thái độ của họ, bà Elizabeth đoán chắc hẳn họ bực mình thái quá vì phải chờ đợi. Vậy là bà gạt hẳn vấn đề đó ra khỏi tâm trí. Một người nhà Murray chẳng cần quan tâm xem những người nhà Potter nghĩ gì làm gì. Cánh cửa tủ mở toang chẳng tiết lộ điều gì, và bà cũng không hề biết rằng trong căn phòng đóng kín trên kia, Emily đang nằm vắt ngang giường, úp sấp mặt xuống mà khóc nức nở vì xấu hổ, giận dữ và tủi nhục. Cô thấy tổn thương và mất thể diện. Ngay từ đầu, toàn bộ chuyện này đều do cái thói kiêu căng ngớ ngẩn của cô mà ra... cô ý thức rõ điều đó... nhưng sự trừng phạt cô phải gánh chịu nặng nề quá.

Cô không quá để tâm đến lời nói của cô Potter, nhưng những lời châm chọc dù không quá chua cay nhưng lại đầy ác ý của bà Ann Cyrilla lại khiến cô đau đớn thật sự. Cô vốn vẫn có cảm tình với bà Ann Cyrilla xinh đẹp, dễ mến, một con người lúc nào cũng tử tế, thân thiện và chẳng bao giờ tiếc lời khen ngợi cô. Cô vẫn đinh ninh bà Ann Cyrilla thật tâm quý mến mình. Ấy vậy mà giờ lại phát hiện ra bà đang nói về cô theo cách này đây! “Chẳng nhẽ họ không thể nói một điều nào tử tế về mình sao?” cô nức nở. “Ôi, chẳng hiểu vì sao mình lại cảm thấy mình đã bị vấy bẩn... phần do sự ngu ngốc của bản thân, phần bởi thái độ ác ý của họ... và mình còn cảm thấy tinh thần vừa nhơ nhuốc vừa rối loạn. Liệu còn có khi nào ta cảm thấy mình sạch sẽ được nữa không?” Mãi đến khi đã viết hết mọi chuyện vào trong cuốn nhật ký, cô mới lại có cảm giác “sạch sẽ”. Sau lúc đó, cô bắt đầu nhìn nhận sự việc một cách bớt méo mó hơn và cố gắng bình tĩnh xem xét vấn đề.

“Thầy Carpenter nói chúng ta cần phải biết cách học hỏi từ mọi trải nghiệm của mình,” cô viết. “Thầy nói rằng mọi trải nghiệm, bất kể dễ chịu hay không, đều hữu ích đối với chúng ta, miễn là chúng ta có khả năng xem xét sự việc một cách thản nhiên. 'Đây chính là một lời khuyên sáng suốt mà ta luôn canh cánh trong lòng,' thầy nói giọng chua chát, 'ấy vậy nhưng chẳng bao giờ có thể áp dụng vào bản thân được cả.'

“Tốt thôi, tôi sẽ cố gắng nhìn nhận sự việc này bằng thái độ bình thản! Có lẽ muốn làm được thế thì cần cân nhắc hết thảy những điều người ta nói về tôi, rồi sau đó chỉ cần quyết định xem điều nào là thật điều nào là giả, và điều nào chỉ đơn thuần là sự bóp méo... cái đó tôi thấy còn tệ hơn cả sự giả mạo nữa.

“Trước hết: việc ẩn trốn trong tủ đựng giày, vốn đơn thuần xuất phát từ thói tự cao tự đại, nằm trong diện những hành động xấu của tôi. Và có lẽ sự xuất hiện của tôi, sau khi đã phải ở trong đó suốt một lúc lâu, cũng như việc khiến họ thất kinh, lại là một hành động xấu khác. Nhưng ngay cả vậy, tôi vẫn chưa thể cảm thấy 'bình thản' nhìn nhận sự việc này được, bởi vì cho dù không nên, tôi vẫn cảm thấy mừng vì đã làm như thế - thực vậy, ngay cả khi họ đã nhìn thấy tôi trong bộ váy Mẹ Hubbard! Tôi sẽ không bao giờ quên vẻ mặt của họ! Nhất là vẻ mặt của bà Ann Cyrilla. Cô Potter thì chẳng mấy chốc sẽ gạt chuyện này ra khỏi tâm trí thôi... cô ta sẽ bảo thế là đáng đời tôi lắm... nhưng bà Ann Cyrilla thì cho dù có chết cũng sẽ không bao giờ vượt qua được chuyện đã bị bắt quả tang như thế.

“Còn giờ, hãy ngẫm nghĩ cho kỹ những lời chỉ trích họ dành cho Emily Starr và quyết định xem Emily Byrd Starr có đáng phải nhận những lời chỉ trích đó không, toàn bộ hay chỉ một phần. Giờ thì hãy thẳng thắn mà nhìn nhận nhé, Emily, hãy 'nhìn sâu vào tận tâm can' và cô gắng đánh giá bản thân, không phải bằng con mắt của cô Potter hay bằng cách nhìn của chính bản thân ngươi, mà theo con người đích thực của ngươi.

“(Chắc hẳn rồi tôi sẽ thấy chuyện này rất thú vị cho xem!)

“Đầu tiên, bà Ann Cyrilla nói tôi là kẻ cứng đầu cứng cổ.

“Tôi có phải kẻ cứng đầu cứng cổ hay không?

“Tôi biết mình là người kiên quyết, và bác Elizabeth vẫn nói tôi bướng bỉnh. Nhưng cứng đầu cứng cổ là cách nói tệ hơn hết thảy. Kiên quyết là tính tốt, thậm chí nếu đầu óc thực tế một chút thì ngay bướng bỉnh cũng có mặt tích cực bù đắp lại. Nhưng người cứng đầu cứng cổ lại là người quá ngu ngốc nên chẳng thể nhìn ra hay thấu hiểu được tính xuẩn ngốc của lối giải quyết nào đó mà cứ khăng khăng bám trụ vào nó... nói gọn lại, khăng khăng vận hết tốc lực lao vào một bức tường đá.

“Không, tôi không phải kẻ cứng đầu cứng cổ. Tôi biết cách chấp nhận những bức tường đá.

“Chỉ có điều tôi phải mất rất nhiều công sức mới thuyết phục được bản thân tin rằng chúng là những bức tường đá chứ không phải các mô phỏng bằng giấy bồi. Bởi vậy, tôi chính là kẻ bướng bỉnh.

“Cô Potter nói tôi là đứa lẳng lơ. Điều này hoàn toàn không đúng sự thực, vậy nên tôi sẽ không nói đến nó làm gì. Nhưng cô ấy còn nói tôi 'đánh mắt' với người khác. Nào, tôi có thế thật không? Tôi không chủ tâm làm thế... tôi biết rõ như vậy; nhưng có vẻ như người ta vẫn có thể vô tình 'đánh mắt' với người khác, mà đã như vậy thì tôi tránh làm sao được chứ? Tôi làm sao có thể cả đời này đi đâu cũng cụp mắt xuống. Hôm nọ chú Dean đã bảo tôi:

“ 'Cháu mà cứ nhìn ta thế này, Sao Trời ạ, thì ta chẳng biết làm gì khác mà đành phải thuận theo yêu cầu của cháu thôi.'

“Còn tuần vừa rồi, bác Elizabeth cũng tỏ ra khá khó chịu vì bác ấy bảo lúc tôi dỗ ngon dỗ ngọt để Perry đồng ý tham gia buổi dã ngoại của lớp giáo lý, tôi đã nhìn cậu ấy một cách 'không đứng đắn chút nào'. (Perry ghét các buổi dã ngoại của lớp giáo lý lắm.)

“Này nhé, trong cả hai trường hợp ấy, tôi thấy mình chỉ đang nhìn bằng ánh mắt nài nỉ thôi đấy chứ.

“Bà Ann Cyrilla nói tôi không xinh đẹp. Có thật thế không?”

Emily đặt bút xuống, bước tới bên tấm gương và vận hết khả năng “bình thản” để quan sát. Tóc đen... mắt tím mơ màng... môi đỏ thắm. Cho đến lúc này thì vẫn chưa đến nỗi nào. Trán cô quá cao, nhưng kiểu tóc mới của cô đã đánh tan khiếm khuyết đó. Da cô trắng như tuyết còn má cô, thuở nhỏ vốn nhợt nhạt là thế, giờ phơn phớt như ngọc trai hồng. Miệng cô rộng quá cỡ nhưng hàm răng rất đẹp. Đôi tai hơi nhọn khiến cô chẳng khác gì cô nai con duyên dáng. Cổ cô có những đường nét mà cô chẳng thể ngăn mình yêu thích được. Thân hình mảnh khảnh chưa vào độ chín toát lên vẻ duyên dáng; cô biết, do đã tận tai nghe bà cô Nancy nhận xét, rằng cô có cái mắt cá chân và mu bàn chân của cụ Shipley. Emily rất nghiêm túc chọn đủ mọi góc độ ngắm nhìn Emily – trong – gương rồi sau đó quay lại với cuốn nhật ký.

“Tôi đã rút ra kết luận rằng mình không hề xinh đẹp,” cô viết. “Chắc trông tôi cũng có vẻ khá xinh nếu tóc tai được làm đúng kiểu, nhưng một cô gái xinh đẹp đích thực thì dù để kiểu tóc gì cũng vẫn xinh, vậy nên bà Ann Cyrilla nói thế là đúng rồi. Nhưng tôi cảm thấy chắc chắn tôi không xấu đến mức như bà ấy ám chỉ.

“Rồi bà ấy còn bảo tôi tẩm ngẩm tầm ngầm chứ... thâm sâu khó lường nữa. Tôi chẳng thấy chuyện 'thâm sâu khó lường' thì có gì không đúng, ấy vậy nhưng nghe giọng thì có vẻ như bà ấy nghĩ là có đấy. Tôi thà là người thâm sâu còn hơn là kẻ nông cạn. Nhưng tôi có láu cá không? Không. Tôi không phải người như vậy. Vậy mới đáng nói, tôi như thế nào mà lại khiến ta nghĩ tôi là kẻ láu cá chứ? Bác Ruth lúc nào cũng khăng khăng bảo tôi như thế. Tôi nghĩ có lẽ là tại tôi vốn có thói quen, hễ thấy chán ghét người khác thì thể nào tôi cũng bất thình lình rút vào trong thế giới riêng của mình và đóng sầm cửa lại. Mọi người rất khó chịu với chuyện này... tôi thấy nếu cánh cửa bị đóng sầm lại ngay trước mặt mình thì có bực bội cũng hợp tình hợp lý thôi. Người ta gọi nó là tẩm ngẩm tầm ngầm, trong khi nó chỉ đơn thuần là hành vi tự vệ. Vậy nên tôi sẽ chẳng băn khoăn gì về chuyện đó hết.

“Cô Potter đã nói một điều thật kinh tởm... rằng tôi đã mạo nhận những lời lẽ khôn ngoan đọc được trong sách là của mình... cố gắng tỏ ra thông minh. Chuyện này sai một trăm phần trăm. Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ 'cố gắng tỏ ra thông minh'. Nhưng... tôi quả thật thường tìm cách hình dung xem một suy nghĩ nào đó của mình sẽ như thế nào nếu được diễn đạt bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là một dạng khoe khoang. Tôi phải cẩn thận với chuyện này mới được.

“Ghen tức: không, tôi không có cái thói đó. Phải thừa nhận rằng tôi rất muốn được là người đứng đầu. Nhưng không phải vì ghen tức với Ilse nên buổi tối hòa nhạc hôm ấy tôi mới khóc. Tôi khóc vì cảm thấy tôi đã làm rối tung vai diễn của mình. Tôi diễn cứng đơ đơ thật, đúng y như bà Ann Cyrilla nhận xét. Chẳng hiểu sao tôi không thể diễn được tròn vai. Thỉnh thoảng, có vai diễn nào đó dường như được đo ni đóng giày cho tôi, bởi vậy tôi có thể là nhân vật đó, nhưng nếu không, tôi sẽ không thực hiện tốt phần hội thoại. Tôi diễn vai đó chỉ cốt làm vui lòng cô Johnson, và tôi thấy xấu hổ khủng khiếp vì tôi biết cô ấy rất thất vọng.

“Và có vẻ như lòng kiêu hãnh của tôi cũng bị tổn thương chút ít, nhưng tôi chưa bao giờ nảy sinh suy nghĩ ghen tị với Ilse. Tôi tự hào về bạn ấy... bạn ấy diễn kịch rất tuyệt vời.

“Đúng vậy, tôi đã cãi lại. Tôi thừa nhận đó là một trong những khiếm khuyết của mình. Nhưng mọi người đã nói những điều kinh khủng đến thế! Mà tại sao khi mọi người cãi lại tôi thì người ta chẳng thấy có gì không đúng? Họ vẫn làm thế hết lần này đến lần khác... trong khi tôi cũng có lý nhiều chẳng kém họ.

“Hay mỉa mai? Phải, tôi e rằng đó lại là một khuyết điểm khác của mình. Hay tự ái... không, tôi không có tính đó. Tôi chỉ nhạy cảm thôi. Còn kiêu ngạo? Chà, đúng vậy thật, tôi quả có hơi kiêu ngạo... nhưng không kiêu ngạo theo kiểu mọi người vẫn nghĩ. Tôi không thể ngăn mình ngẩng cao đầu, và tôi cũng không thể không cảm thấy thật tuyệt vời khi được hậu thuẫn bởi cả một thế kỷ những con người chính trực, tử tế với những truyền thống tốt đẹp và trí tuệ đáng nể trọng. Không giống như những người nhà Potter... chỉ vừa mới phất lên ngày hôm qua!

“Ôi, những người phụ nữ đó xuyên tạc mọi chuyện về Ilse tội nghiệp mới ghê làm sao chứ. Tôi cho là chúng ta đừng hòng mơ tưởng đến chuyện người họ Potter hoặc vợ của một người mang họ Potter nhận ra được cảnh mộng du trong vở Phu nhân Macbeth. Tôi đã nhắc đi nhắc lại với Ilse rằng trước khi luyện tập cảnh đó, cậu ấy nhất thiết phải nhìn trước ngó sau xem cửa giả đã đóng hết chưa. Cậu ấy diễn vai này khá tuyệt. Cậu ấy chưa bao giờ tham gia vụ phá rối cô dâu chú rể đó... cậu ấy chỉ bảo cậu ấy thích đi đến đó thôi. Còn về chuyện tắm dưới trăng... quả có chuyện thế thật, chỉ có điều chúng tôi vẫn mặc một ít quần áo đấy chứ. Chuyện đó chẳng có gì đáng kinh khiếp cả. Chuyện đó đẹp đến mỹ mãn... dù vậy thì bây giờ nó đã bị phá hoại, bị thoái hóa bởi những lời đồn thổi lan khắp mọi nơi. Tôi chỉ ước giá như Ilse chưa kể chuyện đó cho ai.

“Chúng tôi bỏ lên bãi cát đi dạo. Tối đó trăng sáng vằng vặc, bãi cát đẹp lung linh. Bà Gió xạc xào giữa những vạt cỏ trên đụn cát, những con sóng lấp lánh dịu dàng trườn lên quét sạch bờ biển. Chúng tôi háo hức muốn tắm, nhưng thoạt đầu tin chắc rằng chẳng thể thỏa mãn mong muốn đó được vì làm gì có quần áo tắm. Vậy nên chúng tôi ngồi trên cát, trò chuyện cùng nhau. Vịnh lớn hùng vĩ trải dài trước mắt chúng tôi, lấp lánh như dát bạc, quyến rũ đến say lòng, chạy dài tít tắp mất hút giữa những màn sương mờ mịt của bầu trời phương Bắc. Trông nó chẳng khác gì một đại dương bao la giữa 'chốn thần tiên hoang vắng'.

“Tôi nói:

“ 'Tớ chỉ mong sao được lên tàu, dong buồm thẳng tiến ra ngoài kia... ngoài... ngoài... tớ sẽ cập bờ ở nơi nào được nhỉ?'

“ 'Anticosti[1] chăng,' Ilse nói... theo tôi thấy có phần hơi quá thiếu sức sáng tạo.

[1] Đảo Anticosti nằm ở Quebec, Canada.

“ 'Không đâu... không... tớ nghĩ là nơi chân trời góc bể cơ,' tôi mơ màng nói. 'Một bờ biển xinh đẹp chẳng ai biết tới, nơi mưa chẳng bao giờ rơi, gió chẳng bao giờ thổi. Có lẽ là quê hương của Gió Bắc nơi cậu bé Diamond[2] từng đặt chân đến. Người ta có thể băng qua biển bạc, dong buồm tiến về nơi đó trong một buổi tối như tối nay.'

[2] Trong tác phẩm Trên lưng Gió Bắc (At the back of the North Wind) của nhà văn George MacDonald, cậu bé Diamond đã làm bạn với ngọn gió Bắc và được bà đưa tới quê hương của bà, nơi không có khổ đau, không có cái chết.

“ 'Tớ nghĩ nơi đó chính là thiên đường,' Ilse nói.

“Vậy là chúng tôi bàn luận về sự bất tử, và Ilse bảo cậu ấy sợ chuyện đó lắm... sợ phải sống mãi mãi; cậu ấy bảo chắn chắn trăm phần trăm cậu ấy sẽ chán ghét bản thân đến tột độ. Tôi thì bảo có lẽ tôi khá thích ý tưởng của chú Dean về sự luân hồi... tôi không tài nào tìm hiểu được xem liệu chú ấy có tin vào thuyết này hay không... và Ilse bảo có lẽ sẽ hay ho thật nếu cậu dám chắc cậu sẽ được tái sinh làm một con người tử tế, nhưng nhỡ không phải như thế thì sao?

“ 'Ái chà, với bất cứ hình thức bất tử nào thì cậu cũng đều buộc phải chấp nhận mạo hiểm thôi,' tôi nhận xét.

“ 'Dù sao đi nữa,' Ilse nói, 'cho dù kiếp sau tớ được là chính mình hay phải làm người khác thì tớ vẫn hy vọng mình sẽ không có cái tính khí nóng nảy khủng khiếp đó. Nếu vẫn tiếp tục được là chính mình thì chỉ cần sau nửa giờ đặt chân đến thiên đường, tớ sẽ đập vỡ cây đàn hạc, xé nát vầng hào quang và vặt trụi cánh của các thiên thần khác. Cậu biết thừa tớ sẽ làm thế cho coi, Emily ạ. Tớ chẳng thể làm khác được. Hôm qua tớ lại cãi nhau một trận long trời lở đất với Perry. Lỗi hoàn toàn thuộc về tớ... nhưng tất nhiên cậu ấy đã làm tớ phát điên vì thói huênh hoang của cậu ấy. Tớ ước gì có thể kiềm chế tính nóng nảy của mình.'

“Giờ tôi chẳng mảy may bận tâm đến những cơn giận dữ của Ilse... Tôi biết rõ những lời bạn ấy nói trong lúc giận dữ chẳng bao giờ là thật lòng cả. Tôi không bao giờ để bụng bất cứ lời nào. Tôi chỉ mỉm cười với bạn ấy, và nếu có sẵn mẩu giấy nào trong tay, tôi sẽ ghi lại những điều bạn ấy nói. Hành động này chỉ khiến bạn ấy tức điên lên đến mức nghẹn hết cả lời, chẳng nói năng được gì thêm nữa. Ngoài những lúc đó ra thì Ilse rất đáng mến và nhộn kinh lên được.

“ 'Cậu không thể kiềm chế được cơn giận dữ vì cậu thích nổi giận,' tôi nói.

“Ilse nhìn tôi chằm chằm.

“ 'Không phải... tớ không như thế.'

“ 'Có đấy. Cậu thích nó,' tôi khăng khăng.

“ 'Chà, tất nhiên,' Ilse nói, cười toe toét. 'Đúng là trong lúc nó diễn ra tớ thấy vui vẻ thật. Thật mãn nguyện kinh lên được khi nói những điều xúc phạm nhất, gọi ra những biệt danh tồi tệ nhất. Tớ tin là cậu nói đúng, Emily ạ. Tớ thích nó thật. Kỳ lạ thật đấy, ấy vậy mà chẳng bao giờ tớ nghĩ đến điều đó. Có lẽ nếu thật lòng không vui vẻ gì khi nổi giận thì tớ sẽ chẳng giận dữ làm gì cho cam. Nhưng sau khi mọi chuyện đã qua... tớ lại hối hận vô cùng. Hôm qua, sau khi cãi nhau với Perry, tớ đã khóc hàng giờ liền.'

“ 'Phải, và cậu cũng thích chuyện đó... đúng không?'

“Ilse trầm ngâm suy nghĩ một lúc.

“ 'Có lẽ thế thật, Emily ạ; cậu đúng là người kỳ lạ. Tớ sẽ không nói về chuyện này nữa. Đi tắm thôi. Không có quần áo hả? Không thành vấn đề. Cách đây cả dặm làm gì có ai đâu. Tớ không thể cưỡng lại những con sóng kia. Chúng đang gọi tớ.'

“Tôi cũng cảm thấy y như vậy, và tắm dưới ánh trăng dường như là một chuyện lãng mạn xiết bao, thú vị xiết bao... mà nó đúng là như thế thật, khi những người nhà Potter chưa biết gì về nó. Đến khi biết rồi, họ đã làm nó hoen ố. Chúng tôi cởi quần áo trong một cái hõm nhỏ nằm giữa các đụn cát – trông chẳng khác gì một cái bát bàng bạc dưới ánh trăng – nhưng vẫn mặc nguyên váy lót. Chúng tôi đã vui đùa thỏa thích, vừa té nước vừa bơi lộ giữa làn nước xanh lấp lánh như dát bạc, giữa những con sóng nhẹ nhàng êm ái, y như hai nàng tiên cá hay hai nữ thần biển. Dường như chúng tôi đang sống trong một bài thơ hoặc một câu chuyện thần tiên. Và khi bước lên bờ, tôi chìa tay về phía Ilse, nói:

“ 'Bước tới đây nơi bãi cát vàng

Nhún gối chào hôn lên mặt cát,

Ngọn gió hoang tắt lời hát,

Khéo léo đặt bước chân

Và, những tiên nữ đáng yêu, gánh nặng trên thân.'

“Ilse nắm tay tôi và chúng tôi nhảy vòng tròn trên bãi cát loang loáng ánh trăng, sau đó chúng tôi leo lên chỗ cái tô bạc, mặc quần áo vào rồi về nhà trong niềm hân hoan mãn nguyện. Tất nhiên, chỉ có điều chúng tôi phải cuộn hai cái váy lót ướt sũng lại kẹp dưới nách, thành ra có vẻ như váy của chúng tôi bám sát vào cơ thể, tuy nhiên chẳng ai nhìn thấy chúng tôi hết. Và giờ thì cả cái làng Hồ Blair này đều đang lấy làm chướng tai gai mắt đến tột độ vì chuyện đó đây.

“Dù sao đi nữa, tôi mong là chuyện này không đến tai bác Elizabeth.

“Thật quá tệ vì bà Price lại mất ăn mất ngủ đến thế trước chuyện của chú Dean và tôi. Chúng tôi đâu có làm bùa phép quái đản gì đâu... chúng tôi chỉ đơn thuần đi dạo trên núi Ngoạn Mục và dõi tìm dấu vết các bức tranh giữa những đám mây. Có lẽ hành động đó trẻ con thật đấy... nhưng nó thú vị vô cùng. Tôi thích chú Dean ở chính cái tính đó đấy... chú ấy chẳng bao giờ chỉ vì thấy nó có vẻ trẻ con mà e ngại không dám làm một chuyện vô hại và thú vị nào đó. Chú ấy chỉ cho tôi thấy một đám mây giống như in một thiên thần đang bay ngang bầu trời xanh nhạt tươi sáng rạng rỡ, ôm trên tay một đứa trẻ. Một tấm khăn voan mỏng tang màu xanh nhạt che phủ mái đầu của thiên thần mây, và bên dưới lớp voan ấy, một vì sao nhạt nhòa đầu tiên sáng nhấp nháy. Đôi cánh thiên thần được bịt vàng, còn chiếc váy trắng muốt lốm đốm màu đỏ sẫm.

“ 'Kia là Thiên Thần Sao Hôm đang bế ngày mai tới,' chú Dean nói.

“Cảnh tượng đẹp đến nỗi đã khiến tôi chìm đắm trong một thời khắc huy hoàng. Nhưng chỉ mười giây sau nó đã thay đổi, không khác gì một con lạc đà với cái bướu ngoại cỡ!

“Chúng tôi đã có nửa tiếng đồng hồ tuyệt vời, dẫu cho bà Price, vốn chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì trên bầu trời, có cho rằng chúng tôi hẳn điên mất rồi.

“Chà, riêng trong vấn đề này, chẳng cần phải cố gắng chiều theo ý người khác làm gì. Điều duy nhất cần làm là sống đúng với bản chất của mình. Xét cho cùng, tôi tin vào bản thân mình. Tôi không xấu xa và ngu ngốc như họ vẫn tưởng, tôi cũng không mắc bệnh lao phổi, và tôi còn biết viết lách nữa. Giờ đây khi đã viết lại toàn bộ mọi chuyện, tôi cảm nhận sự việc theo cách khác hẳn. Điều duy nhất vẫn khiến tôi bực mình chính là việc cô Potter tỏ ra thương hại tôi... bị một người mang họ Potter thương hại kia đấy!

“Ngay lúc này đây, tôi dõi mắt ra ngoài cửa sổ và nhìn thấy thảm sen cạn của bác Jimmy... rồi bất chợt ánh chớp lóe lên... vậy là cả cô Potter, cả thái độ thương hại lẫn miệng lưỡi cay độc của cô ta dường như đều chẳng còn là vấn đề nữa. Sen cạn ơi, ai đã nhuộm màu cho các bạn vậy, những cây hoa rực rỡ tươi đẹp diệu kỳ? Chắc hẳn các bạn đã được tạo hình từ những buổi hoàng hôn mùa hè.

“Hè này, tôi đã giúp đỡ bác Jimmy rất nhiều công việc vườn tược. Tôi tin chắc tôi cũng yêu khu vườn chẳng thua kém gì bác ấy. Ngày nào chúng tôi cũng đều có những khám phá mới về hoa và nụ.

“Vậy là bác Elizabeth sẽ không cho tôi đến Shrewsbury! Ôi, tôi cảm thấy thất vọng đến độ cứ như thể tôi thật lòng mong mỏi bác ấy sẽ cho phép vậy. Dường như mọi cánh cửa cuộc đời đều đã đóng sập lại trước mặt tôi rồi.

“Nhưng xét cho cùng, tôi vẫn còn vô vàn điều đáng để cảm kích. Có lẽ rồi đến năm sau, bác Elizabeth sẽ cho phép tôi học ở đây thôi, còn thầy Carpenter có thể chỉ bảo cho tôi rất nhiều; tôi không phải kẻ đáng ghê tởm; ánh trăng vẫn đẹp đẽ xiết bao; rồi sẽ có ngày tôi dấn thân vào sự nghiệp viết lách... và tôi có một con mèo lông xám đáng yêu mặt tròn vành vạnh vừa mới nhảy tót lên trên bàn, dụi dụi mũi vào cây bút của tôi như muốn ra nhắc nhở rằng tôi viết liền một mạch như thế là đủ lắm rồi.

“ 'Mèo xám mới đích thực là mèo chứ!'”