Đồng Đạo

Chương 21



Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Điểm ghé thăm sau cùng của bác sĩ Hayani là phòng bệnh của Patrick. Đã gần tối, giờ làm việc trong ngày đã qua từ lâu, và anh ta thấy tay bệnh nhân tai tiếng của mình, mặc chiếc quần soóc thể thao, đang ngồi trước cái bàn tạm kê ở góc phòng. Đó là một cái bàn nhỏ, với một ngọn đèn mà Patrick kiếm được từ một người hộ lý. Một cái cốc nhựa đựng bút và bút chì. Một cái cốc khác đựng những cái kẹp giấy, dây chun, ghim, tất cả đều là do các cô y tá mang cho. Hắn thậm chí còn có ba xấp giấy để ghi chép.

Patrick đang làm việc. Một tập khá dày các tài liệu pháp lý chiếm đứt một góc bàn, và hắn đang xem lại một trong số nhiều đơn kiện chống lại hắn khi người bác sĩ bước vào, lần thứ ba trong ngày.

“Xin được hoan nghênh tại văn phòng của tôi,” Patrick nói. Một cái TV to kềnh được treo không cao trên đầu hắn bao nhiêu. Còn cái lưng ghế của hắn thì chỉ cách đầu giường chừng ba mươi phân.

“Hay,” Hayani nói. Trong bệnh viện, tin đồn còn loan nhanh hơn cả trong các văn phòng luật, và trong hai ngày qua đã có những lời thầm thì thích thú về cái văn phòng luật mới đang được lập ra trong phòng 312. “Tôi hy vọng là anh không kiện các bác sĩ.”

“Không bao giờ. Trong mười ba năm hành nghề luật, tôi chưa bao giờ kiện một bác sĩ hay một bệnh viện.” Hắn vừa nói vừa đứng dậy ngoảnh ra phía Hayani.

"Thực sự là tôi quý anh,” người bác sĩ nói trong khi nhẹ nhàng kiểm tra các vết thương trên ngực Patrick. “Anh thấy thế nào ?” Hayani hỏi, lần thứ ba trong ngày hôm đó.

“Tôi khỏe,” Patrick nhắc lại, không biết là lần thứ bao nhiêu trong ngày. Các cô y tá, tò mò và bị cám dỗ, đi vào ít nhất ỉà hai lần trong một giờ với bất kỳ một việc lặt vặt gì đó và luôn vui vẻ hỏi, “Anh cảm thấy thế nào ?"

“Tôi khỏe,” hắn luôn luôn trả lời.

“Ngày hôm nay anh có ngủ không ?" Hayani hỏi, ngồi xổm và xem xét cái đùi bên trái của hắn.

“Không. Rất khó ngủ nếu không uống thuốc, và tôi thật sự không muốn uống thuốc vào ban ngày,” Patrick đáp. Sự thực thì ngủ là chuyện không thể được trước cả một cuộc diễu binh của các y tá và hộ lý kia.

Hắn ngồi xuống bên mép giường và nhìn vào mặt người bác sĩ của mình với vẻ chân tình. “Tôi có thể nói với ông một chuyện được không ?" Hắn hỏi.

Hayani ngừng việc ghi chép trên tấm biểu theo dõi. “Tất nhiên.”

Patrick hết nhìn sang bên trái lại nhìn sang bên phải như thể ở mọi nơi đều đang có những đôi tai dỏng lên vậy. “Khi còn là luật sư,” hắn nhẹ nhàng bắt đầu, “tôi có một thân chủ là giám đốc một nhà băng bị bắt về tội biển thủ. Anh ta bốn mươi bốn tuổi, có vợ, ba con, là một người rất hay nhưng đã trót dại làm một chuyện ngu ngốc. Anh ta bị bắt tại nhà, lúc đêm khuya, và bị mang tới nhà tù quận. Trong tù rất đông phạm nhân, và anh ta bị ném vào một phòng giam chung với mấy thằng lưu manh, mấy thằng da đen, khiếp lắm. Trước tiên, chúng bịt miệng anh ta cho khỏi kêu la. Chúng đánh đập, rồi làm những chuyện mà ông không muốn nghe tới nữa. Chỉ hai tiếng đồng hồ trước đó, anh ta còn đang ngồi trong phòng riêng ở nhà, xem một cuốn phim, còn lúc này thì đã nửa sống nửa chết trong một phòng giam cách nhà ba dặm.” Đầu Patrick cúi gập xuống, cằm sát đến tận ngực, và tay hắn day day sống mũi.

Bác sĩ Hayani vỗ vỗ lên vai hắn.

“Ông đừng để chuyện đó xảy ra đối với tôi, bác sĩ,” Patrick nói, mắt ngân ngấn, giọng đầy lo âu.

“Đừng có lo, Patrick.”

“Chĩ nghĩ tới chuyện đó cũng đã đủ làm tôi sợ chết khiếp, bác sĩ ạ. Tôi luôn có những cơn ác mộng.”

“Tôi hứa với anh, Patrick.”

“Có Chúa chứng giám, tôi đã phải chịu đựng đủ rồi.”

“Tôi hứa mà, Patrick.”

oOo

Tay chuyên gia thẩm vấn tiếp theo là một người đàn ông nhỏ bé có dáng dấp của một điền chủ, tên là Warren, nghiện thuốc nặng và nhìn đời qua một cặp kính đen dày cộp. Không thể nhìn rõ mắt ông ta. Tay trái ông ta cầm thuốc lá, tay phải cầm bút, và không còn gì khác động đậy, trừ cặp môi. Ông ta ngồi lọt thỏm sau đống giấy má gọn gàng và đưa ra những câu hỏi về phía đầu bàn đằng kia, nơi Stephano ngồi nghịch một cái kẹp giấy còn luật sư của lão thì mải miết với một chiếc máy tính xách tay.

“Ông thông báo với cái tổ hợp của ông vào lúc nào ?”

“Sau khi mất dấu vết của hắn ở New York, chúng tôi rút về và chờ đợi. Đồng thời nghe ngóng ở những nơi có thể. Chúng tôi rà lại những dấu vết cũ. Không có kết quả gì. Các dấu vết này nhanh chóng trở nên vô dụng, và chúng tôi chuẩn bị cho trận đánh dài hơi. Tôi đã gặp Benny Aricia và ông ta sẵn sàng tài trợ cho cuộc tìm kiếm. Thế rồi tôi cũng gặp những người ở Monarch- Sierra và Northern Case Mutual, và họ cũng tạm thời tán thành. Northern Case Mutual đã phải bỏ ra hơn hai triệu rưỡi cho người đàn bà góa kia. Họ không thể nào kiện để đòi lại bởi vì không có chứng cứ thuyết phục nào là hắn vẫn còn sống. Họ đã đồng ý bỏ ra nửa triệu. Monarch-Sierra thì phức tạp hơn bởi vì lúc đó họ chưa phải chi tiền. Họ có nguy cơ mất bốn triệu ”

“Monarch bảo hiểm cho những hoạt động phi pháp ở hãng luật phải không ?”

“Gần đúng thế. Nó bảo hiểm cho hãng luật trước những lừa đảo và trộm cắp của các nhân viên và các cổ đông của hãng. Bởi vì Lanigan đánh cắp khoản tiền kia từ hãng cho nên Monarch bị buộc phải chi trả, tới khoảng bốn triệu đôla.”

“Nhưng khách hàng của ông, ông Aricia, đã nhận chỗ tiền này, đúng thế không?”

“Đúng. Lúc đầu ông ta kiện hãng luật đòi toàn bộ sáu mươi triệu mà ông ta mất, thế nhưng hãng luật không có mấy tài sản, bèn đồng ý sang tay số tiền bảo hiểm. Chúng tôi đã ngồi xuống thảo luận và đi tới một thỏa thuận : Monarch-Sierra đồng ý chi trả tiền mà không có kiện tụng gì nếu như ông Aricia dùng một triệu trong đó để tìm kiếm Lanigan. Ông Aricia đồng ý, nhưng chỉ với điều kiện Monarch-Sierra bỏ ra một triệu nữa để tài trợ cho cuộc tìm kiếm này.”

“Như vậy là Aricia vào cuộc với một triệu, Monarch-Sierra một triệu và Northern Case Mutual nửa triệu. Tổng cộng là hai triệu rưỡi.”

“Đúng, đó là thỏa thuận ban đầu.”

“Còn hãng luật thì sao ?"

“Họ quyết định không tham gia. Nói thẳng ra là họ không có tiền, và họ cũng còn quá choáng váng để có thể có một phản ứng. Lúc đầu, họ cũng đã giúp đỡ bằng những cách khác.”

“Và các bên tham gia đều đã đóng tiền chứ ?"

“Có. Tiền được chuyển đến tài khoản công ty của tôi.”

“Bây giờ, khi mà cuộc tìm kiếm đã kết thúc, còn lại được bao nhiêu tiền ?”

“Gần như là hết.”

“Đã chi phí bao nhiêu ?”

“Ba triệu ruỡi, hơn kém chỉ một chút. Cách đây chừng một năm, tiền hết sạch. Các công ty bảo hiểm từ chối. Ông Aricia bỏ vào thêm nửa triệu nữa, rồi lại ba trăm nghìn. Tổng cộng phần góp của ông ta đến bây giờ là một triệu chín.”

Thực sự thì con số này đã là hai triệu sau khi Benny miễn cưỡng quyết định tìm kiếm cô gái đồng bọn với Patrick. Tất nhiên là FBI không biết điều này.

“Và tiền đã được chi tiêu như thế nào ?”

Stephano liếc mắt nhìn vào những ghi chép của lão.

“Gần một triệu tiền lương, tiền đi lại, và những chi phí khác liên quan tới cuộc tìm kiếm. Một triệu rưỡi tiền thưởng. Và chẵn một triệu tiền thù lao cho công ty của tôi.”

“Ông đã được trả một triệu đôla hả ?” Warren hỏi, vẫn không hề động đậy mà chỉ có giọng nói hơi cao lên.

“Đúng. Trong khoảng thời gian bốn năm.”

“Nói về chuyện tiền thưởng xem nào.”

“Có gì đâu, nó được ném vào trung tâm của việc tìm kiếm.”

“Chúng tôi nghe đây.”

“Một trong những việc đầu tiên chúng tôi làm là treo một khoản tiền thưởng cho bất kỳ thông tin nào về sự biến mất của Patrick Lanigan. Các ông biết về khoản tiền thưởng này nhưng đã nghĩ rằng hãng luật đứng sau việc làm đó. Chúng tôi đã lặng lẽ đến hãng luật và thuyết phục được Charles Bogan thông báo về việc treo tiền thưởng cho các thông tin kia. Ông ta công bố và lúc đầu hứa hẹn năm mươi nghìn đôla. Thỏa thuận của chúng tôi với Bogan là ông ta sẽ bí mật báo cho chúng tôi nếu có bất kỳ sự trả lời nào.”

“FBI không được biết về chuyện này.”

“Đúng. FBI biết về các khoản tiền thưởng, và tán thành. Nhưng thỏa thuận của chúng tôi với Bogan được giữ kín. Chúng tôi muốn nắm được trước tiên bất kỳ thông tin nào. Không phải là chúng tôi không tin FBI, mà đơn giản là chúng tôi muốn tự mình tìm ra được Lanigan và chỗ tiền kia.”

“Hiện tại ông đã sử dụng bao nhiêu người vào vụ này?"

“Có thể là hơn một chục.”

“Còn ông làm gì.”

"Tôi ở đây. Nhưng tôi tới Biloxi ít nhất là mỗi tuần một lần.”

“FBI có biết ông đang làm gì không ?”

“Tuyệt nhiên không. Theo chỗ tôi biết, FBI không hề biết là chúng tôi có dính vào, cho tới tuần trước.”

Đống hồ sơ trước mặt Warren chắc chắn có đề cập tới điều này. “Tiếp tục đi.”

“Chúng tôi không nghe ngóng được gì trong hai tháng, ba tháng, rồi bốn tháng. Chúng tôi nâng khoản tiền thưởng lên tới bảy mươi lăm, rồi một trăm nghìn. Bogan nhận được toàn những tin vớ vẩn và ông ta chuyển chúng lại cho FBI. Thế rồi vào tháng Tám năm 1992, ông ta nhận được cú điện thoại của một luật sư ở New Orleans, người nói là có một thân chủ biết đôi điều về vụ biến mất kia. Tay đó tỏ ra rất đàng hoàng, và bởi vậy chúng tôi đi New Orleans để gặp hắn ta.”

“Tên người đó là gì ?”

“Raul Lauziere, ở phố Loyola.”

“Ông đã gặp chưa ?”

“Rồi.”

“Phía công ty ông còn ai cùng gặp nữa không ?" Stephano đưa mắt nhìn tay luật sư của lão, người lúc này đang rất trầm tư. “Đây là một bí mật nghề nghiệp. Tôi không nên nhắc tới tên của những người cộng sự của tôi.”

“ Ông ấy không bắt buộc phải làm như vậy,” tay luật sư lớn tiếng nói, và vấn đề chấm dứt tại đó.

“Được. Tiếp tục đi.”

“Lauziere tỏ ra nghiêm túc, đúng mực và có thể tin được. Anh ta cũng đã chuẩn bị rất chu đáo. Có vẻ như anh ta biết mọi chuyện về vụ biến mất của Patrick và chỗ tiền kia. Lauziere có một hồ sơ lưu tất cả các bài báo cắt ra và do chính anh ta ghi mục lục tham cứu cẩn thận. Anh ta trao cho chúng tôi một tài liệu bốn trang dày đặc về những gì mà thân chủ của anh ta biết”

“Hãy tóm tắt cái đó. Tôi sẽ đọc sau.”

“Tất nhiên,” Stephano nói, và kể lại theo trí nhớ, “Thân chủ của anh ta là một phụ nữ trẻ có tên là Erin, đang học trường y ở Tulane. Cô ta mới ly hôn, vỡ nợ,... và để kiếm đủ miếng ăn, cô ta làm thêm buổi tối ở một cửa hiệu sách lớn. Vào khoảng thời gian nào đó trong tháng Giêng năm 1992, cô ta để ý tới một người khách loanh quanh ở khu vực sách về du lịch và ngôn ngữ. Tay đó đậm người, mặc complê, râu ria gọn gàng, và có vẻ hơi lo âu. Lúc đó đã gần chín giờ tối, và cửa hàng đã vắng khách. Sau cùng, tay đó chọn một chương trình học ngoại ngữ với mười hai băng cátxét, sách giáo khoa,... tất cả đựng trong một cái hộp bóng láng, và đi ra phía bộ phận thanh toán, nơi Erin làm việc. Đúng lúc đó, một người đàn ông khác bước vào cửa hiệu. Người kia ngay lập tức lùi vào giữa những giá sách và đặt cái hộp kia trở về chỗ cũ. Thế rồi anh ta đi sang phía bên kia, và toan lướt qua người mới vào, một người mà rõ ràng là anh ta biết nhưng không muốn chạm mặt. Thế nhưng không kịp. Người kia ngước mắt nhìn lên, và nói, “Patrick, lâu quá không gặp.” Một câu chuyện ngắn ngủi diễn ra, trong đó hai người đàn ông nói với nhau về nghề luật của họ. Erin vẫn loanh quanh ở khu vực thanh toán và lắng nghe bởi vì cũng chẳng có việc gì khác để làm. Hiển nhiên là cô ta đã hơi quá tò mò một chút và đã quan sát thấy tất cả.

“Tuy vậy, cái người được gọi là Patrick kia sốt ruột muốn đi, nên sau cùng anh ta cũng lựa được đúng lúc và cáo lui một cách nhã nhặn. Ba tối sau, anh ta trở lại, cũng vào khoảng thời gian đó. Erin đang làm công việc đóng gói chứ không phải là ở khu thanh toán. Cô ta nhìn thấy anh ta đi vào, nhận ra, nhớ tới cái tên Patrick, và bèn để mắt đến. Anh ta đã lưu ý tới cô nhân viên ở khu thanh toán, và khi nhận ra đó là người khác thì anh ta đi lòng vòng quanh cửa hiệu cho tới khi dừng lại ở khu vực bày sách về du lịch và ngôn ngữ. Anh ta vẫn chọn những cuốn hôm trước đã chọn, lướt tới quầy thanh toán, trả bằng tiền mặt, và bước ra ngoài rất nhanh. Gần ba trăm đôla. Erin nhìn theo. Anh ta không hề hay biết, hoặc giả nếu có thì cũng không nhận ra.”

“Vậy đó là thứ tiếng gì ?”

"Tất nhiên, đó là câu hỏi lớn. Ba tuần sau đó, Erin nhìn thấy trên báo ảnh chụp nơi Patrick Lanigan bị chết trong một tai nạn xe thảm khốc, và nhận ra hắn. Thế rồi, sáu tuần sau, tin về chỗ tiền bị đánh cắp từ cái hãng cũ của hắn loang ra, vẫn tấm ảnh đó trên báo chí, và Erin lại trông thấy.”

“Cửa hiệu sách đó có các camêra bảo vệ không ?”

“Không. Chúng tôi đã kiểm tra.”

“Vậy đó là thứ tiếng gì ?”

“Lauziere không nói với chúng tôi. Chí ít thì cũng là lúc đầu. Chúng tôi rao giá một trăm nghìn đôla cho những tin tức tin cậy về nơi lẩn trốn của Lanigan. Lẽ đương nhiên là Lauziere và thân chủ của mình muốn đổi cái tên của thứ tiếng kia để lấy tất cả khoản tiền đó. Chúng tôi thương lượng trong ba ngày. Anh ta không lay chuyển. Anh ta chịu để cho chúng tôi thẩm vấn Erin. Chúng tôi đã bỏ ra sáu giờ đồng hồ với cô ta, và mọi khía cạnh trong câu chuyện của cô ta đều được kiểm tra, bởi vậy chúng tôi đồng ý trả một trăm nghìn.”

“Tiếng Bồ Braxin ?”

“Đúng. Phạm vi của cuộc tìm kiếm đột nhiên được thu hẹp lại.”

oOo

Giống như mọi luật sư khác, J.Murray Riddleton đã nhiều lần trải qua hoàn cảnh này, thật không may. Một vụ tưởng chắc ăn đột nhiên trở nên hỏng bét. Chiếc bàn bị xoay ngược lại chỉ trong chớp mắt. Cũng chỉ còn là để đùa giỡn, và với sự thích thú không nhỏ, lão để cho Trudy phùng mang trợn mắt và làm bộ làm tịch một chút trước khi lão hạ nhát rìu xuống.

“Ngoại tình !” Ả kêu lên, với tất cả vẻ phẫn nộ của một cô gái trong trắng bị xúc phạm. Ngay cả Lance cũng hơi giật mình. Gã cầm lấy tay ả.

"Tôi biết, tôi biết,” J. Murray nói, vẫn làm như không. “Gần như vụ ly hôn nào mà chẳng thế. Bao giờ mà chẳng có những chuyện bẩn thỉu này.”

"Tôi sẽ giết hắn,” Lance gằn giọng.

“Chúng ta sẽ nói tới chuyện đó sau,” J. Murray nói.

“Với ai ?” Ả cao giọng hỏi.

“Với anh Lance đây. Họ nói là anh chị đã chung chạ với nhau trước, trong và sau cuộc hôn nhân đó. Trên thực tế, họ nói là chuyện giữa anh chị đã có từ thời ở trung học.”

Thực sự là từ hồi lớp Chín. “Hắn là một thằng ngốc,” Lance nói, mặc dù gã không dám chắc có phải là thế không.

Trudy gật đầu đồng ý với Lance. Lố bịch. Thế rồi ả lo lắng hỏi, “Hắn nói có bằng chứng gì?”

“Cô có phủ nhận điều đó không đã ?” J.Murray hỏi để hoàn thiện cái bẫy.

“Dứt khoát rồi,” ả gắt lên.

"Tất nhiên là thế,” Lance thêm vào. “ Ở hắn toàn là những điều dối trá.”

J. Murray thò tay vào trong ngăn kéo và rút ra một trong những báo cáo mà Sandy đã đưa cho lão. “Có vẻ như Patrick đã nghi ngờ từ lâu. Anh ta đã thuê các thám tử rình mò. Đây là một trong số báo cáo của họ.”

Trudy và Lance đưa mắt nhìn nhau trong một giây, và nhận ra rằng họ đã sa bẫy. Đột nhiên, khó mà có thể phủ nhận một mối quan hệ đã có từ hơn hai mươi năm qua. Cả hai đã cùng thiển cận và tự mãn. Thì đã sao ? Có gì là quan trọng.

"Tôi sẽ chỉ tóm lược thôi,” J.Murray nói, rồi điểm lại những ngày tháng, nơi chốn, số lần. Họ không xấu hổ với những chuyện của họ, nhưng thật khó chịu khi biết rằng tất cả đều đã được đưa vào hồ sơ đầy đủ đến thế.

“Vẫn phủ nhận chứ hả ?” J.Murray hỏi sau khi lão ngừng lời.

“Bất kỳ ai cũng có thể viết ra những thứ đó,” Lance nói. Trudy im lặng.

J. Murray lôi ra một báo cáo khác, đề cập tới khoảng thời gian bảy tháng trưóc khi Patrick biến mất. Ngày tháng, số lần, nơi chốn. Patrick đi khỏi thành phố, rồi thì Lance mò tới. Lần nào cũng như lần nào.

“Các thám tử này có thể làm chứng trước tòa không?” Lance hỏi sau khi J. Murray tóm lược xong.

“Chúng ta sẽ không ra tòa,” J. Murray nói.

“Sao lại không ?” Trudy hỏi.

“Bởi vì những thứ này.” J .Murray quăng ra trên bàn những tấm ảnh màu khổ 18/24. Trudy chộp lấy một tấm và há mồm khi nhìn thấy chính mình đang nằm ườn bên bể bơi, trần truồng, với gã nhân tình ở bên cạnh. Lance cũng choáng, nhưng vẫn gượng được một nụ cười thoáng qua. Gã có phần thích những tấm ảnh.

Họ xem đi xem lại chúng, không nói một lời. J.Murray thưởng thức cái giây phút này trong chốc lát, rồi nói, “Hai người đã quá cẩu thả.”

“Không phải dậy khôn bọn này,” Lance nói.

Trudy bắt đầu khóc. Nước mắt lưng tròng, cặp môi run rẩy, mũi đỏ lên và nức nở. J.Murray đã nhìn thấy cả nghìn lần. Họ luôn luôn khóc, không phải vì những gì họ đã làm mà là vì cái giá phải trả cho những tội lỗi của họ.

“Hắn sẽ không được động đến con gái tôi,” ả giận dữ nói qua làn nước mắt. Ả không còn kiềm chế được, và họ đã phải nghe một tràng chửi rủa. Lance, vẫn luôn cảnh giác, vuốt ve ả và cố an ủi.

"Tôi xin lỗi,” sau cùng ả nói, và đưa tay lau nước mắt.

"Bình tĩnh,” J. Murray nói, không hề có chút đồng cảm nào. “Anh ta không đòi đứa trẻ đâu.”

"Sao lại không ?” Ả hỏi, mắt ráo hoảnh.

“Anh ta không phải là cha đẻ của nó.”

Họ nhíu mày nhăn trán, cố hình dung ra chuyện gì.

J. Murray lấy ra một báo cáo nữa. “Anh ta đã lấy một mẫu máu từ đứa trẻ khi nó được mười bốn tháng tuổi và đưa đi làm xét nghiệm ADN. Anh ta không thể nào là cha đẻ của nó.”

“Vậy ai...” Lance toan hỏi, nhưng không còn biết phải hỏi gì.

"Điều đó tùy thuộc vào việc còn có ai khác nữa không,” J. Murray đỡ lời.

“Không còn có ai khác nữa,” ả giận dữ nói.

"Trừ tôi,” Lance thú nhận, và từ từ nhắm mắt lại. Trách nhiệm làm cha đột nhiên đè nặng lên đôi vai gã. Lance không ưa trẻ con. Hắn chấp nhận Ashley Nicole chỉ vì con bé là con của Trudy.

“Xin chúc mừng,” J. Murray nói. Lão thò tay vào ngăn kéo, lấy ra một điếu xìgà loại rẻ tiền và quăng cho Lance. “Một đứa con gái,” lão nói và cười to.

Trudy lặng người, còn Lance thì mân mê điếu xìgà. Khi J. Murray dứt tiếng cười của lão, Trudy hỏi, “Vậy tình thế của chúng ta giờ thế nào ?”

“Đơn giản thôi. Cô từ bỏ mọi đòi hỏi đối với tài sản của anh ta, cho dù tài sản đó là thế nào, và anh ta chấp nhận để cô ly hôn, giữ đứa trẻ và mọi thứ khác mà cô muốn.”

“Tài sản của hắn là bao nhiêu ?" Ả hỏi.

“Ngay lúc này thì luật sư của anh ta cũng không biết chắc. Có thể là chúng ta sẽ không bao giờ biết. Anh ta đang chờ một bản án tử hình, và chỗ tiền đó có thể bị chôn vùi mãi mãi.”

“Nhưng tôi sẽ mất tất cả,” ả quát lên. “Hãy xem hắn đã đối xử với tôi thế nào. Tôi được hai triệu rưỡi khi hắn chết, bây giờ cái hãng bảo hiểm kia đang sẵn sàng làm cho tôi phá sản đấy.”

“Cô ấy xứng đáng được hưởng một đống tiền,” Lance chen vào.

“Tôi có thể kiện hắn về nỗi đau đớn tinh thần, hay sự lừa đảo, hay chuyện gì tương tự không ?" Ả cố níu kéo.

“Không. Nghe này, chuyện rất đơn giản. Cô được ly hôn và được đứa trẻ, và Patrick giữ khoản tiền trời ơi kia. Và tất cả sẽ được giữ im lặng. Bằng không, anh ta sẽ ném tất cả những thứ này cho báo chí.” J.Murray vừa nói vừa đập đập tay lên những tập báo cáo và những tấm ảnh. “Và cô sẽ bị làm nhục. Cô vừa mới bôi nhọ anh ta trên truyền hình; anh ta cũng đang nóng lòng đáp lại đấy.”

“Tôi phải ký vào đâu ?” Ả hỏi.

J.Murray rót vốtca cho tất cả, và rồi lại nhanh chóng thêm cho mình một ly nữa. Sau cùng, lão mới đề cập tới những tin đồn về chuyện Lance đang tìm kiếm một kẻ đâm thuê chém mướn. Rất nhanh chóng, những lời bác bỏ được đưa ra một cách giận dữ, và J.Murray thừa nhận rằng lão thực sự cũng không tin vào những trò rác rưởi đó vì đang có biết bao nhiêu tin đồn lúc này lúc khác cứ ầm lên ở cái vùng bờ biển này.