Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 8



Cây cầu bất trắc

Chiều thứ Sáu, Billy Raven bỗng đổi ý. Thằng bé bảo với Charlie là nó sẽ không nghỉ cuối tuần ở nhà Charlie nữa.

“Anh tưởng em muốn giúp tụi anh tìm Asa,” Charlie nói.

Billy chậm rãi tháo dây giày bộ của nó. Chúng đang ngồi trong phòng để áo khoác xanh da trời. Charlie cởi đôi giày đá bóng của nó. Cuối cùng Billy nói:

“Ở trong vùng đồng hoang. Tất cả muông thú. Không phải là em không thích thú vật, em thích chứ, nhưng chúng nó kêu ghê quá – bao nhiêu thú dồn vô một nơi như đồng hoang, mỗi loài nói bằng một ngôn ngữ khác nhau, nghe bum, bum, chát, chát trong tai em. Em thích ở lại đây với bà bếp trưởng hơn.

Bọn trẻ sàng tới lui trước mặt chúng, đứa nhảy qua giày, đứa bò lồm cồm dưới băng ghế, đứa tìm quần cộc, áo sơ mi bị thất lạc. Charlie cúi sát xuống Billy. “Em còn để Rembrandt ở nhà anh. Ngoại Maisie sẽ bấn lên cho coi.”

Billy cởi giày ra và ngồi nhìn trao tráo vào chúng. “Có lẽ bà Maisie sẽ mang nó tới đây và để nó lại chỗ bà bếp trưởng.”

Charlie nhún vai. “Để anh hỏi bà xem sao. Ừm, anh đi xếp giỏ đồ xách đây, gặp lại em thứ Hai nha.”

“Chúc may mắn,” Billy đáp.

Charlie đã loay xoay giấu xong mớ đồ của Asa dưới đáy giỏ. Về đến nhà nó lôi chiếc áo khoác với cái nón cũ ra và tống vô tủ quần áo của mình. Benkamin rung chuông đúng lúc nó xuống lầu dùng bữa trà.

“Hai con định làm gì thế?” Ngoại Maisie hỏi khi hai thằng bước vô bếp. “Trông mặt các con ghi rõ những âm mưu với chuyện thám hiểm kìa.”

‘Vậy ạ?” Benjamin lóng ngóng sờ lên cằm.

“Nhìn các con là ta biết ngay, cả Hạt Đậu nữa.” Ngoại Maisie bắt đầu lục lọi tủ lạnh tìm cục xương đầy thịt mà bà đã để dành cho con chó.

Charlie không chắc mình nên tiết lộ bao nhiêu cho ngoại Maisie biết. Nó không muốn làm bà lo lắng. “Bọn con có một kế hoạch nho nhỏ cho ngày mai,” nó nói bâng quơ. “Chơi trốn tìm với Hạt Đậu.”

“Thế à!” Ngoại Maisie thảy cục xương cho Hạt Đậu.

Họ ngồi xuống dùng bữa trà. Ông cậu Paton thường không xuống giờ này, cho nên Charlie không quá nôn nao. Nó có thể nói chuyện riêng với ông cậu sau. Nó muốn lời khuyên của ông về dự tính chúng sắp thực hiện.

“À quên, ông cậu của con đi rồi,” ngoại Maisie bảo, bày ra bánh lúa mạch mới ra lò.

“Đi?” Charlie buột miệng kêu. “Bà nói đi là đi đâu?”

“Việc gì sốt vó lên thế, Charlie. Ông ấy ra biển như thường lệ ấy mà.”

“Để thăm ông cố?” Charlie hỏi.

“Đúng vậy. Không được hé một lời với bà Bone đấy, nhớ không. Chúng ta không muốn mụ mà tới đó và quậy tung cả lên.”

“Dạ,” Charlie lầm bầm. Charlie liếc Benjamin, rõ ràng thằng này cũng đang nghĩ như nó. Mặc dù không mong đợi Ông cậu Paton sẽ đi cùng vô vùng đồng hoang, nhưng chắc chắn chúng cũng an lòng phần nào nếu ông biết về cuộc phiêu lưu và sẵn sàng ra tay giải cứu nếu có gì bất trắc.

Benjamin đã bồn chồn lắm rồi. Nó lưỡng lự không biết có nên nói cho ba mẹ mình biết mình đi đâu không. Charlie cười trấn an nó. “Fidelio sẽ đi với tụi mình, lại cả Olivia nữa.”

“Ủa?” Benjamin không biết nên mừng rỡ hay bực bội. Olivia quá lòe loẹt so với gu thẩm mỹ của nó.

“Ta thấy coi bộ nghiêm trọng hơn trò trốn tìm rồi đấy,” ngoại Maisie nghi ngờ. “Ta hi vọng các con không làm điều gì dại dột.”

“Không có tí dại dột nào đâu, bà Jones ạ,” Benjamin nghiêm trang.

Một giây sau chuông điện thọai reng. Trước khi ngoại Maisie nhấc máy Charlie đã có cảm giác thắc thỏm là rắc rối thứ hai sắp nổi lên.

“Điện thoại của con này, Charlie,” ngoại Maisie gọi.

Chân Charlie lết bết vô hành lang.

“Tươi lên coi, Fidelio, bạn con gọi mà,” ngoại Maisie trao ống nghe cho Charlie.

“Chào, Charlie, tin xấu đây,” giọng Fidelio phấn chấn.

Charlie thở dài. “Gì đây? Đừng nói là này mai anh không thể đi à nha.”

“Xin lỗi, Charlie, anh quên khuấy mất. Anh đã hứa với ba anh về buổi hòa nhạc này rồi. Nó thuộc tua lưu diễn mùa hè. Rất, rất quan trọng. Nó có thể tạo bước ngoặt cho sự nghiệp tương lai của anh…”

“Ừ, ừ,” Charlie ủ rũ. “Được rồi, thần đồng, tụi em sẽ phải đi mà không có anh.”

“Thế cuối tuần tới thì sao?” Fidelio đề nghị.

“Quá trễ. Asa khôgn chừng đã bị thương. Chúng ta phải tìm thấy anh ấy vào ngày mai.”

“Hoặc đã chết.”

“KHÔNG!” Charlie phản đối. “Em không tin anh ấy chết rồi. Chúc buổi hòa nhạc thành công nha, Fido!” Nó đặt ống nghe xuống.

Ngoại Maisie nhìn Charlie với vẻ lo thắt ruột khi nó quay lại bàn. “Cái gì mà chết chóc vậy?” Bà hỏi.

Charlie quyết đinh cho bà biết một phần nhỏ sự thật. “Tụi con đang nói về Sói Hoang. Fidelio nghĩ có thể nó chết rồi. Tụi con đã nghe tiếng súng đêm qua.”

“Đó là tiếng súng săn,” ngoại Maisie nói, “Nhưng theo như ta được biết thì họ không giết được con gì cả. Đừng bận tâm, ta chưa nghe thấy tiếng tru hai đêm nay rồi.”

Charlie và Benjamin nhìn nhau.

Vào sáng thứ Bảy Charlie thức dậy vì một tiếng gõ nhẹ trên ô kính ở cửa phòng nó. Trời vãn tối om om, thoạt đầu nó tưởng là tuyết đập vô cửa sổ. Đến khi nhìn ra thì thấy Benjamin và Hạt Đậu đứng bên dưới cột đèn đường.

Charlie mặc đồ ấm nhất của mình vào. Trước khi rời phòng, nó đẩy cái ấm đen vô sâu hơn trong ggaafm giường. Cái ấm nóng lên khó chạm vô – dù không đủ nóng để làm nó bị phỏng, nhưng chắc chắn là nóng hơn nhiệt độ phòng. Nếu đây là lời cảnh cáo, Charlie nghĩ, thì giờ mình cũng chẳng thể làm gì được với nó. Charlie đảo mắt khắp phòng tìm con bướm trắng, chiếc gậy phép của nó biến thành – kẻ canh gác căn phòng cho nó. Cuối cùng, Charlie cũng thấy nó trên thanh ray treo rèm, đôi cánh chấm bạc dựng thẳng đứng như cánh buồm.

“Chúc tớ may mắn đi,” Charlie nói.

Con bướm xòe cánh và đậu xuống vai nó.

“Bồ được chào đón đi với tụi tớ,” Charlie nói. “Rất vui mừng.”

Đến lúc nó mở cửa ra, Benjamin đã có Olivia nhập bọn. Con nhỏ diện áo khoác thủy thủ bằng len thô, giày bốt da nặng chịch và khăn quàng sọc quấn mấy vòng quanh cổ.

“Sẵn sàng cho bất cứ việc gì!” Olivia hát kíu lo khi nó xông vô hành lang.

“SSUỴTT!” cả Charlie lẫn Benjamin đều nhắc nó.

Charlie hất ánh mắt lo lắng lên lầu, đinh ninh là cả hai bà nội, ngoại sẽ ùa ra khỏi phòng họ, nhưng may thay, chắc họ vẫn còn đang ngủ say.

Olivia giơ lên một chiếc ba lô vạt bải đỏ chói, thì thào: “Đồ ăn đủ cho cả tuần ở đây nè. Tớ đã tấn công tủ lạnh nhà tớ trước khi đi. Tớ bảo với mẹ tớ là tớ qua chơi nhà Emma một ngày, điều đó cũng đúng một phần, Dù gì mẹ tớ phải làm việc và tới đêm Chủ Nhật mới về nhà.”

Charlie quyết định tự mang đồ ăn lấy. Olivia thường ăn những thức ăn lạ lùng, mang những cái tên khó phát âm. Nhón chân đi vô bếp, nó quay ra với một gói bánh bích quy và xúc xích nguội. Nó nhét tất cả vô ba lô của nó, dằn lên trên áo khoác và mũ của Asa. “Đi thôi,” nó nói.

Khi chúng rời khỏi nhà, một hàng ánh sáng xanh lét bắt đầu hiện ra phía trên đồi xa, nhưng khi chúng gần tới dòng sông, ánh sáng nhòa dần và cả bọn bị quăng tòm vô màn trời xám mờ.

Có hai cây cầu bắc ngang qua sông – một cây cầu sắt cổ xưa, nhỏ hẹp mà hội đồng thành phố đã khuyến cáo là không an toàn để sử dụng, còn cây kia được xây bằng đá vững chãi, rộng, an toàn tuyệt đối. Chrrlie đã dùng cây cầu sắt để đi thăm Naren, nhưng hôm nay nó chọn cây cầu đá. Không việc gì phải làm khó sứ mạng giải cứu của cả bọn.

Hạt Đậu dường như cũng biết có nhiệm vụ đang chờ mình. Nó chạy đằng trước, im ru gà rù, không một tiếng sủa nào vuột ra khỏi miệng. Chỉ có cái đuôi ngúc ngoắc cật lực là biểu lộ sự kích động của nó.

Vừa băng qua khỏi cầu, ba đứa trẻ vô con đường mòn mà chỉ vài ngày trước đội đi săn đã hành quân vô cánh đồng hoang. Olivia lôi cậy đèn pin to sụ ra khỏi ba lô của nó. Luồng ánh sáng mạnh từ cây đèn giúp chúng thấy dường qua những bụi cây viền thấp quanh khu rừng. Một khi xa khỏi mé ngoài để vô sâu trong rừng, những bụi mâm xôi và cỏ thô nhám quang dần đi. Chúng thậm chí còn tìm thấy mottj lối mòn hẹp.

Giờ đã đến lúc tung Hạt Đậu vào hành động. Charlie lôi đống áo choàng với nón từ trong ba lô ra và chìa về phía chú chó. Hạt Đậu hít ngửi. Chợt nó tru lên một tiếng và lùi phắt lại. Thú vật luôn sợ Asa – một sinh vật là người ban ngày, là thú lúc trời tối khiến chúng luôn lo lắng và hoang mang. Bản năng mách bảo chúng phải tránh xa loại này.

“Tìm đi, Hạt Đậu,” Benjamin dỗ dành. “Đi mà. Tụi tao cần mày giúp đó.” Nó giật đống đồ từ tay Charlie và đặt xuống đất, vỗ vỗ. “Hạt Đậu, tìm đi.”

Hạt Đậu thận trọng sán lại gần mớ đồ. Nó hít ngửi – cái áo khoác trước rồi đến cái nón. Nó lại tru rống lên, và rồi, bất thần, phóng đi khỏi, chạy dọc theo lối mòn hẹp, thỉnh thoảng lại phóng khỏi lối mòn mà sục sạo trong cỏ, rồi lại chạy tiếp.

“Nó bắt được mùi rồi,” Benjamin la lớn, đuổi theo chú chó của mình.

“Chắc chắn nó đã tìm thấy gì đó,” Olivia tán đồng, chạy theo Benjamin.

Charlie hốt mũ áo lên và chạy theo cả bọn. Nó ngạc nhiên sao Olivia có thể chạy nhanh thế, cả Benjamin cũng nhanh không kém. Ánh sáng từ cây đèn pin của Olivia lia loạn xạ, chỗ nào cũng soi tới, ngoại trừ mặt đất, thành thử Charlie thấy mình chệch choạc khỏi lối mòn, đâm sầm vô cây cối và lảo đảo vấp dây dây leo.

Có một tiếng thét ở đằng trước, rồi lại một tiếng nữa. Quá trễ, Charlie tông ầm vô Olivia, trong khi con nhỏ va ình vào Benjamin.

“Tớ lạc nó rồi,” Benjamin nói.

Một tràng sủa đằng xa thúc cả bọn lại lao tới trước. Mãi cuối cùng, một tia sáng le lói bắt đầu thấm qua cành cây. Tiếng sủa đổi hướng. Cả bọn dừng lại, nghe ngóng. Lúc chỗ này, lúc chỗ kia, lập tức Hạt Đậu ở khắp mọi nơi. Chúng rời khỏi lối mòn và luồn sâu vô rừng cây, để rồi chỉ bị kéo giật lại vì một tiếng sủa nữa.

“Nó trêu ghẹo tụi mình,” Olivia than phiền. “Nó không thể ngửi gì hết. Nó chỉ đùa chơi thôi.”

“Có thể,” Benjamin nói.

Vài phút trôi qua. Tiếng sủa ngưng. Chúng chờ và cứ chờ. Không có gì. Benoamin gọi con chó của mình, nhưng không có tiếng sủa đáp lại.

“Ăn chút gì đi,” Olivia nói, chuyền cho Charlie một thanh sô-cô-la.

“Tớ không nuốt nổi,” Benjamin nói. “Chắc Hạt Đậu gặp nguy rồi chứ không thì nó đã quay trở về. Nó luôn luôn trở về khi tớ gọi mà.”

Khi ánh sáng mùa đông bắt đầu rạng khắp vùng đồng hoang, một luồng gió buốt thốc lên, tiếng âm u, lắc rắc của cành trụi lá nhấn chìm một tiếng tru ở rất xa.

Da đầu của Charkie rợn lên. “Đó là cái … vật hay Hạt Đậu?”

“Không chắc,” Benjamin đáp.

“Dù là gì tụi mình nên tìm hiểu nó thì hơn,” Olivia nói. “Gì thì gì, đó là lí do tụi mình ở đây kia mà?” Dẫn đầu, con nhỏ sấp ngửa qua lối mòn, trong khi bọn con trai cắm cổ đuổi theo.

Charlie không chắc lối mòn sẽ kết thúc ở đâu, khi nào, nhưng nó dần nhận ra đã lạc mất đường rồi và giờ chúng đang đi theo Olivia trên lộ trình mà tất cả phụ thuộc vô con nhỏ.

“Mình chả biết Olivia có biết cậu ấy đi đâu không?” Charlie nói với Benjamin.

“Biết chứ,’ Olivia đáp lại. “Thính giác của tớ đạt một trăm phần trăm và tớ biết tiếng tru vọng tới từ hướng này.”

Lúc này chúng đã ở nơi rậm rạp dễ sợ của vùng đồng hoang. Cây cối sin sít đến độ mặt trời thấp chỉ lọt được vài tia sáng li ti xuống mặt nền phủ rêu.

Olivia dừng lại và bọn con trai đuồi kịp con nhỏ. “Tớ đang chờ một tiếng tru nữa,” con nhỏ nói.

Tức thì một tiếng tru nữa vang lên. Nghe đục nghẹt, thê thiết, càng lúc càng gần, cho tới khi Hạt Đậu bất thình lình bắn ra khỏi bụi rậm và lao bổ tới bên chúng. Lông nó dính bết hạt cỏ,tai dạy ngược ra phía sau và mặt dớn dác kinh sợ.

“Gì vậy, Hạt Đậu?” Benoamon ôm chặt cứng cổ con chó. “Mày đã tìm thấy gì?”

Hạt Đậu gừ một tiếng giận dữ, rền vang. Nhất định không muốn trở lại nơi nó vừa xồ ra.

“Chắc nó đã thấy gì đó rồi?” Olivia hỏi.

“Đã tìm thấy gì đó, tớ nghĩ vậy,” Charlie nói.

“Chỉ cho tụi tao đi, Hạt Đậu.” Benjamin cố chui qua mảng bụi rậm trước mặt.

Hạt Đậu cúi gằm đầu, gừ tiếp. Chợt nó nhảy chồm chồm vòng quanh bọn trẻ, làm như cố ngăn không cho bọn chúng thấy cái thứ mà nó vừa tìm thấy.

“Được rồi, Hạt Đậu, tụi tao phải tìm ra nó mà!” Charlie hẩy đầu con chó bự đi rồi lội ùm vô đám cành thấp, cho tới khi nó và bọn kia đứng trong một mảng trống nhỏ, có nắng mặt trời. Một đụn lá khô vồng lên ở chính giữa; một ụ đất tựa như nấm mồ. Một bó hoa giọt tuyết cắm ở một đầu ụ đất.

Ở đầu kia trảng trống, một khối hình ngồi thụp giữa đám rễ cây gồ ghề. Nhanh như chớp, cái hình hài đó quay mặt lại bọn chúng. Không nghi ngờ gì về cái chết mũi hoang dã và mảng trán thấp lông lá. Đó là một trong những sinh vật đã cắn Ông cậu Paton.

Bọn trẻ hồn xiêu phách tán. Chúng chắc mẩm sẽ thấy Asa, hoặc chí ít là thấy con thú anh ta biến thành.

“Người … người là ai?” Charlie tiến sát một bước nữa tới sinh vật nọ.

Nó gừ Charlie, rồi khóc thút thít.

Olivia chụp cánh tay Charlie. “Đừng lại gần nó.”

“Không sao, Liv.” Charlie gạt tay con nhỏ đi. “Coi kìa, nó … à, bà ấy (bản năng cho nó biết đó là một phụ nữ)… sẽ không làm hại tụi mình đâu. Bà ấy đang buồn thảm. Có lẽ bà ấy vừa mới chôn ai đó xong.”

“Asa?” Benjamin thì thào.

Charlie bước lại gần người phụ nữ và ngồi xổm xuống trước mặt bà. “Bà có biết Asa Pike không?” Nó hỏi nhẹ nhàng.

Từ từ, bà ta quay đầu về phía nó. Nhìn sát trông bà không đến nỗi đáng sợ. Có vẻ hiền lành trong đôi mắt vàng, và một lúm đồng tiền trên gò má tái xám của bà.

“Tôi là mẹ Asa.” Giọng bà yếu ớt và khản đặc.

“Đó là …” Charlie ngoái nhìn lại nấm mồ.

“Cha của Asa.” Đôi mắt vàng của người phụ nữ trào đẫm lệ.

“Người ta đã giết ông ấy?” Charlie hỏi.

Người phụ nữ e ngại ngước nhìn lên khi Benjamin và Olivia nhích tới gần hơn. Không tiện đứng cao phía trên bà, bọn chúng ngồi quỳ gối xuống đằng sau Charlie.

“Cháu là Charlie Bone?” Người phụ nữ thở hắt ra não ruột. “Do cháu mà …” bà nhìn nấm mồ và đôi mắt lại đầm đìa.

“Cháu rất tiếc nếu cháu đã làm gì khiến bác gặp tai họa,” Charlie nói.

Bà lại thở dài. “Ờ, ờ. Nhưng cháu không thể làm khác được, phải không?”

Olivia bò lại gần hơn. “Asa chưa chết ạ?”

Người phụ nữ lắc đầu. “Tôi không biết. Bọn họ đã bắt nó, đã nhốt nó. Nó bị cầm tù trong một cái hang, không thể thay đổi hình dạng từ thú thành người, vì nơi đó tối tăm, vậy đấy. Chúng tôi mang đồ ăn cho nó và bảo nó đừng tru, nhưng nó không thể kìm nổi.

“Và sau đó đội đi săn tới,” Benjamin nói.

“Và rồi đội đi săn tới,” giọng bà thều thào đén nỗi chúng không nghe được.

Charlie e dè nói tiếp, “Vậy là đội đi săn đã giết chồng bác?”

Người phụ nữ bắt đầu run bần bật. Giọng bà líu ríu như chim, nức nở, bàn tay những ngón dài, xù lông che lấy mặt. “Họ đã giết ông ấy. Giết rồi. Ông ấy cố đánh lạc hướng họ ra khỏi con trai mình. Một phát súng nổ vang, ông ấy ngã xuống. Tôi đã kéo ông ấy vô bụi rậm, lấy cành, lá phủ lên để họ không tìm thấy ông ấy. Nhưng cái gã bắn ông ấy đã tận mắt thấy ông ấy ngã xuống, thấy mặt đất loang máu nơi ông chồng tội nghiệp của tôi gục ngã. Hắn nghĩ ông ấy lết đi chỗ khác rồi chết, cho nên họ đã bỏ đi rồi.”

“Vậy là họ không tìm thấy Asa,” Olivia nói.

“Đúng thế. Nhưng khi tôi tới, định báo với con trai là cha nó đã … chết,” bà nhắm mắt và gương mặt nhăn nhúm lại, “thì Asa đã đâu mất. Hang của nó trống trơn, cánh cửa chấn song để mở khóa. Bọn họ đã chuyển nó tới nơi sâu hơn trong lòng đất, tôi biết thế, để tiếng tru của nó không còn bị nghe thấy nữa.”

“Bọn họ là ai, bác Pike?” Olivia hỏi. “Phải bác là bà Pike không ạ?”

Người phụ nữ lộ vẻ ngạc nhiên. “Đúng, đó là tên tôi.”

“Gia đình Bloor bắt Asa phải không ạ? Charlie hỏi.

“Đúng, bọn chúng.” bà hằn học.

Bọn trẻ nhìn nhau. Chúng nó đi giải cứu Asa, nhưng hóa ra lại tìm thấy mẹ anh ta, người xem ra cần được giúp đỡ không kém gì Asa.

“Cháu nghĩ tụi cháu nên đưa bác tới nơi … đến nới an toàn nào đó, bác Pike ạ,” Charlie nói, “Để đề phòng đội đi săn trở lại. Nhà của bác ở đâu?”

“Xa, rất xa.” Bà Pike bỗng khật khà khật khưỡng. “Không thể trở về, khi mà con trai của tôi ở đây, bị nhốt đâu đó.”

Olivia đứng lên. “Bác Pike ạ, bác không thể ở trong vung đồng hoang được. Bác sẽ bị gió thổi chết mất. Và như Charlie nói, rất có thể đội đi săn sẽ trở lại.” Giờ đã biết tên người phụ nữ, Olivia nói như thể bà là một người bạn.

Bà Pike trả lời bằng một nụ cười thiểu não. “Tôi không thể bước nổi. Tôi bị ngã khi chuyển chồng tôi. Mắt cá chân của tôi bị trẹo rất nặng.”

“Càng lúc càng tệ hơn,” Benjamin lầm bầm.

Hạt Đậu tru lên thống thiết. Nó vẫn ở đầu kia trảng trống, không hiểu chuyện gì mà nhốn nháo vậy.

Charlie mải miết suy nghĩ. Chỉ có một nơi duy nhất chúng có thể đưa bà Pike tới: quán Cà Phê Thú Kiểng.

“Cháu biết người sẽ chăm sóc bác,” Charlie nói. “Tên ông ấy là Onimous. Giờ cháu sẽ đỡ bác dậy. Olivia, qua bên kia giúp bác Pike.”

Bà Pike không phản đối khi bọn chúng xốc bà đứng dậy trên cái chân lành lặn, nhưng bà rên thảm thiết khi chúng kéo bà ra xa khỏi nấm mồ.

Chúng quyết định không trở về lối cây cầu đá. Giờ này lối đi đó nhộn nhịp người qua lại. Chúng buộc phải dùng cây cầu sắt nguy hiểm. Không ai trong chúng nặng lắm, nếu cẩn thận thì có thể băng qua an toàn. Quán Cà Phê Thú Kiểng không xa cầu, và nếu may mắn chúng sẽ tới nơi trước khi ai đó nhận ra con người kỳ quái cà nhắc giữa chúng.

Chúng tìm lại được lối mòn, và chẳng bao lâu sau, khi rừng cây bắt đầu thưa đi, chúng thấy có hai hàng cột rào gỗ xù xì ở đằng trước. Charlie biết cả bọn đã tới ngôi nhà của ông Bartholomew Bloor. Khu bảo tồn thú hoang.

Dìu bà Pike, chúng lết vô mảnh sân từng có lần đầy ắp thú. Giờ đây vắng tanh vắng ngắt.

“Đây là đâu?” Olivia hỏi.

“Bạn tớ, Naren, sống ở đây,” Charlie nói. “Cha bạn ấy không giống như những người nhà Bloor khác. Ông ấy ghét hị. Ông ấy cảm thấy an toàn khi sống tách biệt thành phố, nhưng vẫn gần lâu đài của Vua Đỏ. Ông muốn giữ bí mật nơi này. Chắc ông đã cùng gia đình rời đi ngay sau khi nghe tiếng đội đi săn tiến vô vùng đồng hoang.”

“Tôi biết họ,” bà Pike nói khàn khàn. “Họ rất tốt với chúng tôi. Tới xem đi, cậu bé. Coi chừng họ đã đi thật chưa.” Bà giãy khỏi Charlie và dựa vô thanh hàng rào trên cùng.

Charlie chạy tới ngôi nhà và nhìn qua cửa sổ. Cái bàn còn đó, cả hai chiếc ghế, nhưng mọn thứ khác đều biến mất: Tranh ảnh treo trên tường, bóng đèn, ấm đun nước, nồi niêu xoong chảo, bộ tách sứ và đồ lưu niệm mà ông Bartholomew đã sưu tầm trong những chuyến chu du đây đó của mình. Tất cả đều không còn.

“Không còn ai ở đó,” Charlie nói, bước trở lại nhóm người.

Bà Pike lại rền rĩ. “Ôi, không, không. Rồi họ sẽ ra sao? Đây là nơi rất tốt, họ rất tử tế.”

Bất giác Charlie hiểu ra tại sao bà Pike lại quan tâm đến ông Bartholomew và gia đình ông đến thế. “Bà đã sông ở đây phải không?” nó nói.

Bà Pike gật đầu. “Ở trong nhà kho, một thời gian.” Từ sâu trong cuống họng bà bật ra một âm thanh kỳ cục, đầu bà bổ tới trước và bà bắt đầu tuột luốt xuống đất.

Olivia chụp lấy bà, vừa kịp lúc. “Bác ấy xỉu rồi. Ai đỡ tay bác ấy mau. Sẽ không dễ đâu.”

Đúng là không dễ. Làm sao có thể nhấc và kéo bà Pike đi tới tận cầu, Charlie không bao giờ biết. Người phụ nữ tội nghiệp hơi tỉnh lại, lết đi được một chút, sau đó xuội lơ trong cánh tay chungd như một xác chết. Cuối cùng khi chúng tới cây cầu, Charlie đau nhừ toàn thân, và nó thấy bọn bạn cũng nhừ tử hệt như mình. Thế nhưng nỗi khó khăn của chúng xem ra mới chỉ bắt đầu.

“Không an toàn,” Olivia tuyên bố, nhìn trân trối vô thanh sắt mỏng manh khuất lấp trong sương mù.

“Được mà, Liv. Mình đã đi qua nhiều lần rồi,” Charlie nói. “Benjamin cũng thế … cả Hạt Đậu luôn.”

“Mấy người điên rồi,” Olivia kêu lên.

“Đó là cách duy nhất,” Benjamin chỉ ra.

“Thế còn bác ấy thì sao?” Olivia nhìn bà Pike tựa oằn trên vai Charlie.

Làm như để trả lời con nhỏ, một màn sương giá cuộn về phía chúng, là đà trên sông. Giờ thì chúng không thể thấy gì đằng trước hơn một mét. Olivia huơ huơ cây đèn pin chặn màn sươngddang xồ tới. Chẳng xuyên thủng nó được tí naog. “Vô phương,” con nhỏ van vỉ.

“Tụi mình phải mò đường mà đi,” Charlie hăng hái nói. Rốt cuộc cần phải có người lạc quan chứ. “Đi đi. Benjamin, bồ đi trước, một tau vịn lan can, tay kia nắm đuôi áo mình để dẫn đường cho mình. Mình sẽ đi giật lùi và kéo bác Pike, còn Olivia đi cuối cùng để canh chừng bác Pike không ngã lộn qua bên …”

“Và kéo cả đám tụi mình theo luôn,” Olivia nói thẳng thừng.

Không đứa nào nghĩ ra kế hoạch nào hay hơn, thế là chúng bắt đầu đoạn đường cam gobanwg qua sông. Chúng chỉ nhích được vài mét thì Benjamin thét thất thanh. “Tay vịn mất rồi … tớ không thấy … không thể thấy gì hết. Sương quá dày và … và … có gì đó không biết.”

Charlie chộp lấy đoạn thanh vịn cuối cùng trước khi mắt xích bị gãy. Tiếng gầm rú xộc đầy tai nó, và nó kinh hoàng khi thấy nước dội lên chân mình. Không thể thế này được, nó nghĩ. Dòng sông ít nhất phải mười mét bên dưới cầu. Làm sao nó dâng lên tới tận đây được. Nó sực nghĩ tới trò dìm chết người của Dagbert.

Tiếng í ới chập chờn của Olivia vọng tới Charlie. “Chân tớ ướt sũng rồi nè. Sông này có thủy triều lên xuống không đó? Đằng ấy nghĩ, đây là thời điểm đặc biệt trong năm mà nước dâng cao hay không?”

Charlie thì phân vân liệu đây có phải là thời điểm để nói dối. Nó biết con sông này không có thủy triều, nhưng nó cần phải giữ vững tinh thần của cả bọn. “Có thể,” nó ậm ừ. “Tụi mình phải bò thôi. Vậy an toàn hơn.”

“Nhưng như vậy sẽ ướt hết. Có khi chết duối,” Benjamin rú rít. “Tớ không biết miếng tay vịn tiếp theo ở đâu, hoặc nếu có thì… Ối … Ố!”

Một quầng sáng bất ngờ tỏa rực khu vực xung quanh chúng.

“Con bướm của cậu đó,” Benjamin thét. “Coi kìa, Charlie! Trên đầu cậu í.”

Charlie ngước lên. Đúng thật, dập dờn không trung phía trên nó là con bướm trắng, dôi cánh bạc phóng ra những luồng sáng rực rỡ.

“Cảm ơn!” Charlie nín thờ. “Mình chẳng biết làm sao nếu không có bồ, Clearwen!”

“Tớ thấy tay vịn rồi,” Benjamin hét. “Ờ. Nắm được rồi. Đi nào, Charlie.”

Đến giờ, tất cả ba đứa đang bò bằng đầu gối. Vậy là tốt. Charlie cảm thấy mình bay về phía dòng nước. Một tay nó túm chặt bà Pike, còn tay kia, nó bấu chặt cạnh của cây cầu.

Sợ đông cứng người lại, Benjamin không thể nhích thêm bước nào. “Tụi mình chết đuối mất thôi,” nó thét gào.

“Đúng vậy nếu tụi mình không đi tiếp!” Olivia thét lên.

Đằng sau con nhỏ, Charlie nhận ra hình thù đen đen của Hạt Đậu, đang bò chậm rãi bằng bụng về phía chúng. Cây cầu bất thần nghiêng dữ dội. Cả đám thét rùm trời khi bị trôi tuột luốt trên cầu, quýnh quíu bám vô bất kì cái gì chộp được. Có tiếng tru hãi hùng, khi Charlie nhìn qua thân hình sóng sượt của bà Pike, nó thấy Olivia, một cánh tay quặp chặt vô thành cầu, tay kia vòng ôm chặt chân bà Pike. Bên kia con nhỏ, cây cầu trống trơn.

“Phải Hạt Đậu tru không?” Benjamin thét. “Nó có sao không?”

“Đi đi, Ben,” Charlie gầm gừ.

“Không thể. Mình rớt mất.”

Cả lũ sẽ rớt, Charlie nghĩ, rồi tất cả bọn sẽ rồi đời.Nó mường tượng Hạt Đậu đang vùng vẫy chống lại dòng nước hung dữ. Chú chàng sẽ chẳng cầm cự được lâu.

Từ từ, cây cầu chao trở lại, tới khi thẳng về như cũ. Cả bọn chờ một cú giật nữa. Không xảy ra. Bỗng nhiên, thanh sắt bên dưới chúng trở nên chắc chắn và vững chãi. Khi Charlie đứng lên, nó cảm tưởng chân mình bám vô cầu như có lực từ. Tuy vậy nó có thể di chuyển khá an toàn.

“Bồ có cảm thấy gì không?” Nó gọ Benjamin.

“Có. Có. Giờ mình thấy an toàn rồi,” Benjamin đáp. “Đã có thể thấy bờ bên kia, chỗ con bướm của bồ đang bay.”

“Oa!” Olivia đứng hơi dạng hai chân ra. “Kỳ diệu chưa. Nhìn này, chân bác Pike không còn lết dưới cầu nữa.”

“Tụi mình đi đi!” Charlie ngần ngại, rầu rĩ liếc nhìn khoảng trống trên cầu đằng sau Olivia. Nó thấy chếnh chaongd vì thương tiếc. Bây giờ cả bọn có cơ hội lớn để sống sót, nhưng Benjamin sẽ phản ứng thế nào khi nó phát hiện Hạt Đậu đã rơi xuống sông?

Vùng đồng hoang vẫn chìm lỉm trong sương giá dày đặc, nhưng màn sương đang lùi khỏi mặt nước, và Charlie có thể thấy đầu kia cây cầu, nó nheo mắt lại, ráng dõi ra xa. Liệu có tin được những gì nó đang nhìn thấy kia không?

“Đằng ấy nhìn gì thế, Charlie?” Olivia hỏi.

“Có ai ở đầu cầu đằng kia,” Charlie khẽ nói.

“Đâu?” Olivia quay lại. “Ố, oa!”

“Chẳng phải tớ nhìn lầm chứ?”

“Không, Charlie,” Olivia sợ sệt. “Tớ cũng thấy ông ấy.”

Hình ảnh đó rất mờ. Hầu như nhòa trong màn trời xám xịt, ngoài tấm áo đỏ chói, không nghi ngờ gì, hoặc chiếc mũ giáp viền bạc với chỏm mũ đỏ rực.

“Một hiệp sĩ,” Charlie lầm bầm.

Benjamin ngoái nhìn lại. Nó quá trễ để nhìn thấy hiệp sĩ, bởi vì ngài đã biến vô màn sương. Tất cả Benjamin thấy là cây cầu trống lỗng.

“Hạt Đậu đâu? NÓ RƠI RỒI!” Benjamin gào lên. Nó lao trên cây cầu, nhảy phóc tới mặt đất khô ráo và chạy dọc theo bờ sông, cạnh dòng nước xoáy trào.