Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 7



Lốt cải trang của Asa

Charlie lật sấp người xuống, giả bộ ngủ. Nó cảm thấy một cú thụi mạnh vô lưng. “Thôi!” Nó cáu tiết nói thầm.

“Nói cho tôi về những chữ trên tường,”Dagbert rít rú.

“Không. Đó là thông điệp riêng tư.”

“Tôi sẽ không nói cho ai đâu”.

“Hừ!” Charlie đứng dậy và đi vô buồng tắm. Nếu có đôi co thì hãy đôi co ở những chỗ không ai nghe thấy-sẽ an toàn hơn. Đúng như nó đoán,Dagbert lò dò đi theo.

Charlie đóng cửa lại. Mặt trăng lại lướt ra khỏi đám mây,rọi ánh sáng vừa đủ cho hai thằng bé trông thấy mặt nhau.

Charlie đứng dựa lưng vô bồn tắm. Vòi nước lạnh đang xả lớn,kêu tồ tồ,dồn dập. Dagbert đứng bên cạnh bồn,gương mặt xanh nhợt dưới ánh trăng.

“Tôi không phải là gián điệp. Anh biết,anh có thể tin tôi mà.”

“Cậu giỡn chơi”,Charlie ngồi lên mép bồn. “Cậu rình rập tôi như do thám,và cậu làm cho hầu hết bạn bè tôi quay lưng lại với tôi.”

“Không phải”.

“Gần vậy. Tại sao cậu làm thế?”

Dagbert tụt xuống sàn bên cạnh buồng tắm,đặt hai bàn tay lên đầu gối. Nó nhìn những ngón tay dài của mình,giơ lên từng ngón một,và cuối cùng đan hai tay vào nhau.

Tỏng, tỏng, tỏng, tỏng, tiếng vòi nước chảy trong khi Charlie chờ câu trả lời.

Thình lình,mái tóc quăn tít của Dagbert duỗi ra,như có bàn tay vô hình giật mạnh nó một cái. Nó trở nên đen bóng và ẹp xuống. “Mặt trăng điều khiển cuộc đời tôi,” cuối cùng Dagbert nói. “Giống như thủy triều vậy. Tôi thường khốn đốn khi mặt trăng chui vô đám mây,tệ nhất khi nó bị trái đất nuốt trọn. Tôi không yêu cầu anh tha thứ cho tôi,Charlie,bởi vì tôi ko thể cưỡng lại điều mình làm. Nhưng nếu anh cho tôi biết về những chữ trên tường ấy,tôi hứa là không theo anh nữa.”

Charlie ngẫm nghĩ lời đề xuất của Dagbert. Nó không cần phải cho Dagbert biết Naren sống ở đâu. Ngoài ra,nếu Naren tạm biệt,tức là cô bé đã rời ngôi nhà tranh trong vùng đồng hoang. “Tôi biết một cô gái”,Charlie bắt đầu. “Tên cô ấy là Naren,mặc dù tên thật của cô ấy dài hơn. Một cái tên người Mông Cổ. Cha mẹ cô ấy bị chết đuối trong một trận lụt…”

“Không liên quan tới tôi”,Dagbert nói lẹ. “Tiếp đi”.

“Cô ấy là con nuôi của con trai lão Ezekiel,ông Bartholomew,và người vợ Trung Hoa của ông. Họ sống ở ngoài thành phố,hay đã từng sống ở đó.”

“Nhưng những chữ…những chữ trên tường đó”,Dagbert sốt ruột.

“Đó là tài phép của Naren. Cô ấy có thể gửi thông điệp lên không trung. Miễn là rèm cửa mở và trăng sáng…”

“Giống như là nhắn tin bằng điện thoại di động?”

Charlie nhăn mặt. “Không phải. Cô ấy không cần thiết bị gì hết. Cô ấy chỉ có chiếc găng tay của tôi làm thiết bị phát thôi.”

“Ra vậy.”Dagbert ấn tượng quá.

“Tốt hơn chúng ta trở lại giường đi”,Charlie nói.

“Chỉ mỗi…”Dagbert không thể nói hết câu. Có gì xảy ra với nó-nó bắt đầu co giật dữ dội.

Charlie bật dậy,không dứt mắt khỏi thằng bé quằn quại dưới sàn. Những ngón tay của Dagbert từ từ bung ra,nó vươn cả hai tay về phía Charlie.

Thất kinh hồn vía,không thốt lên lời,Charlie không thể chạm vô những ngón tay như que củi,dài một cách bất tự nhiên đó,bởi vì chúng bắt đầu nở ra. Một quầng sáng xanh lá cây nhạt xổ khỏi làn da của Dagbert-mặt nó,đôi bàn chân trần và hai bàn tay của nó rực sáng lân tinh. Thậm chí cả chỗ da có bộ đồ ngủ bao bọc cũng phát sáng chấp chới qua lớp vải dày.

Charlie cố cưỡng lại niềm thôi thúc phải chạy khỏi thằng bé phát sáng này càng xa càng tốt. “Cậu làm sao vậy?”Nó lào thào.

Thằng bé dưới sàn run bần bật đến mức chỉ láp ngáp được vài tiếng: “Ll-ii-n-h linh…v-ậ-tt…Dưới…dưới gối…tôi”.

Chựng mấy giây Charlie mới nghe ra Dagbert nói gì. Mãi khi hiểu được điều thằng bé đang đau đớn lăn lộn muốn,Charlie đâm bổ vô phòng ngủ chung và sờ soạng dưới gối của Dagbert. Những ngón tay nó chạm trúng một,hai,ba…bảy vật nhỏ,cưng cứng. Quơ tất cả vô bụm tay,nó ù té trở lại phòng tắm và chật vật đặt chúng vô lòng bàn tay của Dagbert,cố bóp cho những ngón tay phát sáng bao lấy chúng. Năm con cua vàng bé tẹo với một con cá vàng trong một tay,và một con nhím biển ở tay kia.

Dagbert nhắm mắt lại và gục đầu xuống. Chầm chậm,sự run rẩy ngừng lại. Từ từ,ánh sáng lân tinh mờ đi. Dagbert mở mắt và nhếch miệng cười.

Charlie quỳ xuống trước mặt nó. “Sao vậy,Dagbert?”

“Đó là ngày sinh nhật của tôi”. Nó liếc nhìn đồng hồ đeo tay của nó. “Đúng duýt giờ. Một giờ đúng.”

“Sinh nhật của cậu? Tôi không hiểu”.

“Giờ tôi đã 12 tuổi. Tôi luôn biết sẽ có gì đó xảy ra với mình,nhưng tôi không bao giờ đoán được đấy là điều gì.”

“Ý cậu là sao?”Bất chấp khoảnh khắc dị thường này,dù choáng sốc và chẳng hiểu đầu cua tai nheo,Charlie vẫn không kiềm chế được một cú ngáp. Nó đứng lên và dựa lưng vô tường cho vững.

Dagbert đứng dậy,vẫn còn hơi run. “Có nghĩa là tôi mạnh bằng cha tôi. Anh cấm không được nói với ai. Một sinh linh cũng không. Tuyệt nhiên cha tôi không được… Chưa nên biết. Anh hiểu chứ?”

“Tôi hiểu. Và tôi hứa không nói với ai.”Charlie lại ngáp. “Cả hai hãy giữ lời hứa đấy chứ?”

“Đồng ý,”Dagbert nghiêm trang.

Chúng lụi hụi trở về giường. Điều cuối cùng Charlie muốn trước khi ngủ thiếp đi là vẻ nhấp nháy của những linh vật biển.

Thật nhẹ nhõm biết chừng nào khi thấy bà bếp trưởng trong bữa sáng hôm sau. Trông bà đã gần gần là bà như cũ. Bà có một tin cần báo cho Charlie. Chồm người qua quầy,bà thì thầm, “Benjamin,bạn con,đã liên lạc với ta.”

“Ben!” Charlie thốt lên.

“Suỵt! Bộ con muốn toàn thế giới nghe thấy à?”

“Con xin lỗi”,Charlie lí nhí.

Nói chuyện với bà bếp trưởng luôn phải khéo léo,đặc biệt là khi đang xếp hàng lĩnh phần ăn sáng. Hên là Billy ở ngay sau Charlie và Fidelio ở đằng sau thằng bé.

Bà bếp trưởng nhoài xa hơn khỏi quầy. “Nó muốn con tìm quần áo gì đó của Asa Pike. Việc này liên quan tới tiếng tru. Con có nghe thấy tiếng súng nổ đêm qua không?”

“Có”,Billy đáp.

“Con muốn cho sữa vô cháo yến mạch không,Charlie?” Bà bếp trưởng hỏi khi có hai đứa con gái đủng đỉnh đi ngang qua.

“Có ạ”.

“Có một đội đi săn”. Bà bếp trưởng rót sữa vô tô cho Charlie. “Ta nghe nói họ đã bắn trúng gì đó. Hi vọng không phải là người nào chúng ta biết.”

“Ý bà muốn nói là…?” Mọi chuyện bỗng nhiên sáng tỏ. Charlie bước ra một chiếc bàn. Rất chậm,và chậm,nó gắn kết các sự kiện lại với nhau!

Khi Billy và Fidelio tới ngồi cùng bàn với nó,Charlie thì thào. “Chắc chắn là Asa ở ngoài vùng đồng hoang. Ít nhất là Benjamin nghĩ vậy.”

Billy gật đầu,lờ phờ,làm như nó đang mải nghĩ gì đó. “Em cũng nghĩ thế. Chính vì thế mà Ben cần quần áo,để Hạt Đậu có thể đánh hơi tìm.”

“Chiếc áo khoác với nón cũ duy nhất của Asa ở khoa Kịch,”Fidelio nói. “Olivia ở khoa Kịch. Cho nên nó có thể tìm được.”

“Em biết cái áo khoác cũ đó,”Charlie nói,khá là xúc động, “Asa có bao giờ cải trang thành công đâu? Em nợ anh ấy đủ thứ. Em phải giúp anh ấy.” Nó không nói Nếu Olivia chịu lắng nghe em.

Dagbert bưng tô cháo của nó đến bàn bọn chúng. “Tôi ngồi đây nha?”

Fidelio cười toét. “Không được phả mùi cá hôm nay thì có thể được”.

Mặt Dagbert vẫn trơ khấc. “Cảm ơn”. Nó ngồi xuống giữa Charlie và Billy.

Charlie liếc trộm nó. Không một dấu vết ánh sáng lân tinh quái gở như đã phát ra từ Dagbert đêm qua. Thực tế,trông nó hoàn toàn bình thường đến nỗi Charlie ngờ ngợ mình đã mơ cảnh tượng trong buồng tắm.

Khi Charlie đứng lên,Dagbert không để ý. Khi Charlie rời căng-tin,Dagbert không đi theo. Nó cũng không lén đến gần Charlie khi kết thúc buổi tập hợp hay vô phòng để áo khoác xanh da trời. Vậy hàm ý là nó đang giữ lời hứa?

“Tụi mình hãy nói chuyện với Olivia lúc nghỉ giải,” Fidelio đề nghị khi cùng Charlie đi tới lớp tiếng Pháp.

“Ừ”. Charlie không ham nói chuyện với Olivia,nhưng nó chả nghĩ ra được ý gì hay hơn.

Dù sao Emma đã nhận xét đúng về Olivia. Đúng như Emma dự đoán,Olivia đã chán trò thù ghét Charlie rồi. Mặt khác trông Charlie bận tâm bận trí đến mức Olivia tò mò muốn biết có chuyện gì mà sao lại vậy. Chính Olivia chủ động đến chỗ Charlie và Fidelio trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên,chứ không phải ngược lại.

Charlie thở phào. Những lời xin lỗi đã mòng mòng trong đầu nó. Giờ thì nó đỡ phải phiền toái lựa lời thích hợp.

“Đằng ấy đang âm mưu cái gì vậy,Charlie Bone?” Olivia hỏi tỉnh bơ,vừa xoay người thực hiện một động tác múa trên mặt sân phủ dày sương giá.

Đứng ngay đằng sau Olivia,Emma cười tươi rói.

“Thật ra tớ tới định nhờ bồ một việc,”Charlie đánh bạo nói.

Olivia lại xoay người đứng trên ngón chân. “Có đáng không?”

“Sự giúp đỡ của đằng ấy?”Charlie lúng túng.

Fidelio liền ra tay giải cứu. “Có việc bọn này rất khó làm xong nếu không có em,Liv. Vì vậy tụi này khẳng định sự giúp đỡ của em rất đáng giá.”

Nụ cười ngoác trên mặt Olivia. “Tớ phải làm gì?”

“Tụi mình cần tìm quần áo Asa đã từng dùng để hóa trang,”Charlie nói. “Tớ chắc chắn nó có ở khoa Kịch. Bồ biết cái áo khoác,cái mũ cũ và bộ ria mép thấy ghê cứ hay rơi ra đó mà.”

“Biết rồi.” Olivia dậm đôi giày đánh cộp vào nhau và nhảy lò cò tới lui. “Anh ta từng hay dán lông mày giả nữa. Rồi cả đôi giày bốt bị lủng lỗ bên trong.”

“Ờ,đúng,đúng,”Charlie hấp tấp. “Quan trọng là bồ có biết chúng được cất ở đâu không?”

“Biết chứ.” Olivia rốt cuộc cũng chịu đứng im. “Hầu hết trang phục được cất trong tầng hầm,dưới nhà hát. Để bữa trưa tớ sẽ đi lấy cho đằng ấy. Khi đó có nhiều thời gian hơn.”

“Tuyệt,Liv!”Charlie hét om.

Fidelio hích nó. “Còn điều khoản nữa,Charlie. Nhớ không? Vậy em muốn gì khi giúp tụi này,Liv?”

Olivia tròn mắt ngó lên trời. “Ố,em không biết nữa. À,có. Một thsnh kẹo mềm sô-cô-la của ông Onimous…và…đằng ấy phải cho tớ biết tại sao đằng ấy muốn có đồ của Asa.”

Charlie lưỡng lự. Dạo này nó rất hay đắn đo,không dám chắc mình có thể tin cậy ai. Fidelio không e ngại như nó. Anh kể cho Olivia nghe về tiếng tru đằng xa,Benjamin giả thiết đó là Asa,và Hạt Đậu có thể tìm được Asa nếu ngửi được mùi quần áo của anh ta.

“Vậy là nếu tớ tìm được đồ thì tớ có thể đi vô đồng hoang cùng với đằng ấy?”

“Nếu tụi này có thể đi cùng bồ vô phòng Trang Phục,”Charlie nói,bắt đầu thấy hoa mắt vì nhìn Olivia quay tít hoài.

“Được. Chừng nào đằng ấy vô vùng đồng hoang?” Xem ra cũng đã chóng mặt,Olivia lảo đảo dừng lại.

“Ngày mai. Sáng sớm. 7 giờ.”

“Tớ sẽ có mặt.” Olivia không cưỡng được quay một cú chót khi tiếng tù và rúc lên vang động sân chơi. “Hê,nhìn kìa,’ con nhỏ nói. “Dagbert Endless kết thân với Gabriel Silk”.

Kì lạ nhưng đúng vậy. Charlie thấy Dagbert và Gabriel vai sát vai đi vô cửa vườn,trò chuyện say sưa.

“Chắc tại mặt trăng”,Charlie lầm bầm.

“Hả?” Fidelio hỏi.

“Không có chi”.

Emma đang mỉm cười,nhưng Olivia lại nói, “Nhìn đôi chim uyên kìa.”

Nụ cười rời khỏi mặt Emma. Tancred Torsson và Tracy Morsell đang thong thả đi qua sân sương giá làm như không hề có tiếng tù và. Cánh tay Tancred quàng qua cổ Tracy,bàn tay anh ôm vai chị,và Tracy nhìn Tancred như thể anh là chàng trai duy nhất trên cõi đời.

“Gấp rút lên,hai người!” Fidelio rống vang,mặc kệ sự tình là họ học trên mình một lớp.

Tancred và Tracy chẳng đoái hoài gì.

“Họ không nghe anh đâu”,Charlie nói. “Đi,đua tới cửa nha.”

“Tớ tới trước tiên”, Olivia thét ầm,lao vèo đi. “Cá một thanh sô-coola mềm nữa”.

Bọn con trai phóng theo con nhỏ,nhưng Charlie nhận thấy bước chạy của Emma rất thiếu nhiệt tình. Olivia thắng trận cá cược,dẫu chẳng đứa nào nhận lời thách đố của nó.

Lớp kịch thường học ở trong nhà hát của trường. Chính tại nơi đây cô Marlowe,trưởng khoa Kịch,cho ra đời những xuất phẩm nổi tiếng do chính cô viết kịch bản,sản xuất và đạo diễn. Cô là một phụ nữ nhỏ nhắn,linh lợi,mặt chi chít nếp nhăn,dấu tích cảu biết bao cảm xúc không ngừng đi qua đó. Tóc cô thường cột đuôi ngựa,được mô tả là tóc muối tiêu,hoặc nói một cách khác là nâu và xám,và cô hay quàng khăn màu sắc kì lạ,váy nhung dài,và giày bốt da lộn tùy theo tông màu quần áo của cô.

Hên làm sao,Olivia là học trò cưng của cô Marlowe,cho nên khi cô bắt quả tang con nhỏ với đám bạn mò vô khu Phục Trang,cô không nổi trận lôi đình như đúng ra cô phải thế.

Những bức màn nhung nặng chịch kéo ngang qua sân khấu. Và khi Olivia mở cánh cửa sập phía cuối sân khấu ra,nó không biết có cô Marlowe đang ngồi một mình trong gian phòng tối om,nghiền ngẫm vở kịch kế tiếp của mình.

“Ối! Ai đó?” cô Marlowe tức tốc chạy lên cầu thang bên hông sân khấu và ngó vô bức màn. “Olivia! Em đang làm gì đó? Còn hai cậu này…các cậu đâu thuộc khoa Kịch.”

“Xin lỗi cô Marlowe. Tụi em xin lỗi”. Fidelio tỏ ra dễ thương khi nó muốn. “Tụi em không biết cô ở đó,chứ không thì tụi em đã hỏi rồi ạ. Số là,em vừa mới viết xong một bản nhạc kịch mà tụi em sẽ biểu diễn vào hè này,trong vườn nhà Olivia”-con nhỏ trố mắt lên,dĩ nhiên-“nhưng em muốn hỏi xem có thể mượn một số trang phục được không. Olivia đã định đi hỏi cô,nhưng bạn ấy không tìm thấy cô ở đâu.”

Charlie và Olivia nhìn Fidelio trân trân,thán phục quá xá. Làm sao anh chàng xoay xở nghĩ ngay tức khắc ra được một lí do hay đến thế?

Đương nhiên cô Marlowe rất ấn tượng. “Vở nhạc kịch! Tuyệt diệu!” Cô rên lên. “Cô hi vọng em sẽ mời cô. Dĩ nhiên em mượn trang phục được mà,nhưng nhớ cho cô coi em mượn những bộ nào để cô còn ghi vô sổ” Cô rút đầu ra,nhưng chớp mắt lại ló đầu vào,dặn thêm. “Cẩn thận đấy,các em. Một trong những bóng đèn bị gỡ rồi. Dưới đó tối lắm đấy.”

“Tụi con ổn thôi,cô Marlowe,”Olivia tươi cười. Nó đặt một bàn chân xuống bậc thang gỗ và bắt đầu đi giật lùi xuống căn phòng phía dưới. Charlie theo sau. Fidelio đi cuối cùng.

Olivia bật một công tắc và một bóng đèn treo ngay trên đầu nó vụt sáng một khoảnh phòng gần cầu thang. Những tủ gỗ thông cao dựng thành hàng dựa vô một bên tường,trong khi hàng lô hàng lốc rương,hòm và giỏ đan bằng cây dương liễu xếp ra tới tận giữa phòng. Phía bên kia,một hàng cột đá cổ xưa tạo nên những hốc thụt tối,không thể thấy được gì.

“Chỗ đó đáng ra phải có một bóng đèn nữa.”Olivia chỉ lên trần nhà ở cuối phòng.

“Hi vọng đồ của Asa không ở đó”. Charlie khẽ rùng mình.

“không,nó ở đằng này”,Olivia nói chắc như đinh đóng cột. “Chả phải kiếm lâu đâu. Cô Marlowe rất đề cao tính hiệu quả. Coi này,mọi thứ cô đều dán nhãn cả. Tất cả quần áo của năm 1900-2000 ở đầu này. Chúng sẽ cũ lùi dần cho tới chỗ để da gấu và đồ đóng khố…”

“Trong bóng tối’,Charlie nói.

“Nhiều đồ quá”, Fidelio reo lên. “Anh nghĩ mình sẽ viết một vở nhạc kịch thật đấy”.

Olivia chọn ra ba cái rương và đề nghị mỗi đứa kiếm trong một cái. Một tám thẻ đề “1900-2000. Áo khoác. Nam” lủng lẳng ở quai của từng cái rương.

Charlie là đứa đầu tiên bật ngược nắp rương lên. Nó lùi bắn ra,thét ré lên khi một con bọ cánh cứng to xù phụt qua thành rương.

“Cứ chờ một bầy dơi phụt ra thì biết”,Olivia cười ngặt nghẽo.

Charlie liếc tới những mảng tối đằng xa,rồi nhìn màn đen kịt đằng sau hàng cột. Liệu do trí tưởng tượng của nó,hay là có gì lóe lên trong ấy? Mắt một con dơi,hay răng nanh bóng nhoáng của một con thú? Nó ráng tập trung tìm quần áo trong rương.

Chính Fidelio là người tìm ra áo khoác của Asa. “Đây rồi. Anh nhận ra nó ở bất cứ đâu.” Nó lôi ra manh áo dài,rách rưới mà Asa từng hay mặc dịp cuối tuần,khi đi rình rập cho Manfred.

“Giờ đến nón!” Olivia nói,mở một cái tủ dán nhãn “1900-2000. Mũ. Nam”. Một bức tường mũ hiện ra bên trong tủ.

Charlie nhào tới giúp. Nhưng chiếc mũ lưỡi trai của Asa không có trong đám mũ quả dưa,mũ phớt,mũ vải,mũ pamana,và hằng hà mũ quân đội treo trước mặt chúng.

Olivia mở cánh tủ thứ hai. “Á,có cơ may hơn”,con nhỏ tuyên bố,đảo khắp hàng mũ bị nhậy cắn lam nham.

Charlie vồ lấy một chiếc mũ vải tuýt cũ mèm lủng nhiều lỗ bên trong. “Của Asa!”. Nó la lên. “Tớ biết cái này”.

Chúng quyết định không kiếm giày làm gì. Vả lại,đống giày bốt đen trông cái nào cũng giống cái nào. Charlie mở nắp một thùng thiếc đề “Râu quai nón,vân vân” lên,nhưng có nhiều bộ râu quá để mà lựa. Sau đó nó đọc nhãn trên một cái tủ đề “Mặt nạ”,liền ngó xem. Bên trong đeo mặt nạ đủ chủng loại:mặt thú vẽ,sáng lấp lánh,đen thui,trắng bợt,sọ người,chú hề,các loại ma,ma cà rồng,quái vật.

“Chao ôi!” Fidelio kích động quá,nó giật ra một chiếc mặt nạ đỏ tươi,lông mày đen và miệng vàng chóe. “Đây là tất cả những gì anh cần. Một vở nhạc kịch mặt nạ. Anh sẽ viết một vở cho coi.”

Hai đứa kia giúp anh chàng chọn thêm mười chiếc mặt nạ nữa-ba con thú,hai con quái vật,một mặt người trắng,buồn thiu,một ông đầy mụn cơm,hai cái vàng óng và một cái đen sì có đôi mắt viền vàng. Cái cuối cùng này gợi Charlie liên tưởng tới bức tượng ngồi tùm hụp trong tiền sảnh. “Tụi mình ra khỏi đây mau”, nó giục giã.

Tiếng tù và rúc lên đúng lúc chúng leo lên tới sân khấu. Charlie cuộn áo khoác và nón thành một nùi chặt và kẹo dưới nách. Nó nhìn những bậc thang tối lần cuối, sau đó Olivia đóng cửa sập lại.

“Có phải khóa không?” Charlie hỏi.

“Không. Nó không bao giờ khóa. Sợ có người có thể bị kẹt dưới đó”. Con nhỏ cười hích hích.

Trong căn phòng bên dưới chúng,có kẻ khập khiễng chui ra từ sau những hàng cột. Một cái giỏ dương liễu kêu cọt kẹt khi phải chịu sức nặng của cái khối khoác áo choàng đen, lòm khòm. Co ro trong bóng tối, nó nguyền rủa Charlie Bone, lặp đi lặp lại.