Câu Hỏi Tình Yêu

Chương 4



Sáng thứ Bảy, tôi dậy muộn, chìm đắm trong dư vị ngọt ngào của cuộc hẹn với Luke. Tôi cảm thấy một cảm giác mãn nguyện mới - một cảm giác thực sự rằng cuộc đời tôi, vốn đã lâu lê lết trên bốn chân và tay, giờ lại đang tiến về phía trước trên hai chân. Chín giờ ba mươi, điện thoại đổ chuông. Có lẽ là Luke, gọi điện để chúc tôi buổi sáng tốt lành. Tôi để điện thoại kêu bốn hồi trước khi với tay lấy.

“Laura à?”

“Tom à! Chào!”

“Chào. Hình như em có vẻ vui vẻ.”

“Ừm,” Tôi nói. “Em cảm thấy vui vẻ. Còn anh thế nào?”

“Anh ổn cả - và xin lỗi vì gọi em vào thứ Bảy...”

“Anh có thể gọi em bất kỳ lúc nào, anh biết thế mà Tom.”

“Anh biết. Nhưng anh chỉ muốn hỏi em một câu hỏi rất nghiêm túc...”

“Vâng...” Tôi vừa nói vừa mỉm cười. “Và câu hỏi đấy có thể là gì nhỉ?”

“Em đã đọc tờ Daily Post ngày hôm nay chưa?”

“Chưa” Tôi nhổm dậy. “Sao thế?”

“Có một bài phê bình đánh giá cao về chương trình. Nerys gọi cho anh và anh chạy ra ngoài mua nó. Chúng ta đã có những bài báo khen ngợi rất nhiều, nhưng chúng đều là những tờ báo nhỏ. Nhưng đây là tờ báo lớn - và điều này thật tuyệt vời.”

Tôi giữ chặt chiếc chăn lông chim vào bờ vai trần. “Nó nói gì thế?”

“Bài báo của Mark McVeigh... người luôn luôn phê bình một cách - gì nhỉ?” Tôi có thể nghe thấy tiếng xột xoạt của tờ báo - “‘Dí Dỏm và Gay Gắt.’”

“Đúng hơn là mạnh và độc - anh ta thường được biết đến là Mark McVile[1].”

[1] Vile: thâm độc (ND)

“Ồ đối với em, anh ta không phải là gì khác mà là Mark Mc-đáng-yêu. Bài báo của anh ta có tiêu đề là ‘Quick-thông-minh’.”

“Lạy Chúa!”

“Anh ta thích tốc độ nhanh của chương trình,” Tom đọc. “Anh ta cũng thích, ‘sự kết hợp giữa hình thức đơn-giản và những câu hỏi phức-tạp,’ và trên hết, anh ta thích phong cách dẫn chương trình ‘tự tin và đầy vẻ am hiểu’ của em... Đây rồi. ‘Thực tế là Cô Quick không hề biểu lộ sự ngạc nhiên theo kiểu Robinson khi những người chơi trả lời đúng, hay vẻ giễu cợt của Paxmanesque khi họ trả lời sai. Điều này khiến cho cô gái trẻ thông minh này trở thành một thay đổi mới mẻ. Cô ấy là người kế thừa nghiễm nhiên của người dẫn chương trình đố vui trên truyền hình hay nhất nước Anh - Bamber Gascoigne. Cũng như với ông ấy, bạn cảm thấy mình ở trong bàn tay rất an toàn. Và, cũng như với ông ấy, bạn mong đợi cô Quick có thể trả lời hầu hết các câu hỏi - mà không cần gọi điện cho bạn.” Tôi cảm thấy bay bổng vì sung sướng.

“Anh đã nói với em rằng những nhà phê bình sẽ thích em rồi mà,” Tom tiếp tục. Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng di động anh ấy vang lên. “Ồ, giữ máy tí nhé, Laura... Xin chào?” Tôi nghe anh ấy nói. “ỒChào!...” Tôi tự hỏi anh ấy đang nói chuyện với ai. “Anh đang nói chuyện trên đường dây khác... Được, anh thích thế... vậy thì ok... anh có thể đến chỗ em...” Thật buồn cười - chúng tôi hiểu nhau rất nhiều, nhưng chúng tôi chưa bao giờ nói đến cuộc sống riêng của nhau. “Tại sao chúng ta không gặp ở Công viên Ravenscourt? Mười giờ ba mươi? Ở sân chơi? Tuyệt.” Tôi thấy mình đang băn khoăn đó là ai. “Xin lỗi, Laura. Anh đang nói gì nhỉ? Ồ, anh nhớ rồi - anh chỉ muốn cảnh báo em rằng các phương tiện truyền thông đã bắt đầu quan tâm đến em rồi đấy.”

Tôi cảm thấy bên trong tôi co rúm lại. “Đã?”

“Bởi vì số lượng người xem rất cao - thêm vào đó chương trình đã gây một tiếng vang thực sự. Bản nghiên cứu thị trường cho thấy những người xem thích nhìn thấy người dẫn chương trình bị mổ xẻ.”

“Ừm, đó là chiến thuật Ưu thế Sản phẩm Độc nhất của chúng ta. Nhưng em sẽ không tham gia những cuộc phỏng vấn bởi vì em biết họ sẽ hỏi em về Nick và em không muốn nói về chuyện đó.”

“Cũng được. Nhưng văn phòng báo chí của Channel 4 muốn em thực hiện vài việc quảng bá.”

“Một ít thôi - chỉ là câu hỏi về cái gì.”

“Tờ Daily Mail và Sunday Post đều muốn yêu cầu em cung cấp một vài mẩu tin ngắn trên trang phong cách sống của họ - Nerys đã gửi email chi tiết cho em. Cuối tuần vui vẻ nhé.”

Tôi bước đến máy vi tính, bấm vào hòm thư đến và đọc hai yêu cầu. Cả hai đều ở dạng điền vào chỗ trống bạn thường thấy rải rác trên tất cả tờ báo. Thường thì tôi thấy những mục này ngớ ngẩn như - Ngôi nhà nhỏ của tôi, Phòng ngủ Thứ hai của tôi - hoặc những tự thú khủng khiếp: Lỗi lầm Lớn nhất của tôi, Sự sa đọa của tôi, Ngày tồi tệ Nhất Cuộc đời tôi. Mục của tờ Sunday Post được gọi làNhững thứ Ghét Nhất, và tôi phải kê ra ba thứ. 1) Nerys, tôi nghĩ thầm, 2) Bà hàng xóm ầm ĩ, và 3) Cái kiểu mà Felicity cứ lảm nhảm về con cái. Tôi khó có thể dùng những điều đó, vì thế khi tôi tắm và mặc quần áo, tôi dành cho nó vài suy nghĩ nghiêm túc. Ba điều tôi ghét nhất... Người chen ngang vào hàng xếp hàng; bóng tối - tôi thực sự ghét bóng tối - và - à phải - những tù nhân đang trong thời gian thử thách bán chất tẩy rửa và khăn lau tận nhà, tôi không thể chịu đựng được họ, không phải tôi không biết thông cảm, nhưng bởi vì họ luôn xuất hiện vào buổi tối. Là một phụ nữ sống một mình, tôi thấy lo lắng khi gặp một người đàn ông ở ngưỡng cửa sau khi trời tối, nói rằng anh ta sắp được thả ra khỏi Ngục Wormwood Scrubs và tôi có hứng thú với chiếc găng tay cao su không? Họ dường như làm việc ở khu vực này rất nhiều, kết quả của việc đó là tôi đã có hai trăm cái khăn lau và ba mươi bình chất tẩy rửa Kinh ngạc.

Yêu cầu từ tờ Daily Mail là danh sách Năm Khoản Chi Tiêu Cuối Cùng Trên Thẻ Tín Dụng Của Tôi - vô thưởng vô phạt - và, nhân tiện, có những thứ tôi cần phải mua. Tôi chưa mua quà mừng lễ rửa tội cho Olivia. Và tôi muốn thứ gì đó đặc biệt để mặc - Felicity đã ban hành chỉ dẫn nghiêm ngặt với gia đình rằng quy tắc ăn mặc của chúng tôi là ‘sang trọng’.

Vậy là nửa tiếng đồng hồ sau, tôi chầm chậm lên đường đến Portobello, xuyên qua đám đông khách du lịch người Ý và Nhật, sau đó ghé vào một cửa hàng đồ cổ. Tôi mua cho Olivia một cái hộp đựng châu báu bằng bạc với đường viền nhung màu xanh dương đậm, sau đó rẽ xuống Westbourne Grove. Năm năm trước khu vực này tràn ngập những cửa hàng đồ cổ nhưng bây giờ nó giống Đường King thu nhỏ. Hay nói như thế này, nó có duy nhất một cửa hàng của Oxfam mà tôi từng đi qua thường xuyên treo biển ‘Khuyến mại Prada’.

Tôi mua một tờ Post sau đó ngồi xuống một chiếc bàn ngoài trời của quán Café 202, uống một tách cà phê sữa trong ánh nắng mùa xuân trong khi vui sướng đọc bài phê bình của Mark McVeigh. Sau đó tôi đi qua đường đến cửa hàng thời trang Agnès B. Khi thơ thẩn đi loanh quanh, tôi không những nhìn ngắm quần áo, mà còn nhâm nhi nhận thức khoan khoái rằng tiền nong không còn là một vấn đề làm bụng tôi quặn lại như thời gian dài vừa rồi. Trong phần lớn ba năm qua tôi đã chẳng mua gì mà không cần thiết. Nhưng bây giờ, với khoản lương dẫn chương trình đang đứng đầu các khoản thu nhập thường xuyên của tôi, tôi có thể nuông chiều chính mình. Vì thế tôi đi đến cửa hàng trang sức Dinny Hall và tiêu tốn hai trăm bảng cho một cặp bông tai vàng và ngọc trai, chỉ vì lý do đơn giản là tôi có thể mua. Cảm giác mới lạ được phung phí như thế này thật sung sướng. Ngoại trừ nó không hề giống sự hoang phí chút nào. Nó giống như phần thưởng dành cho mình vì đã sống sót sau một thời gian khó khăn đến vậy. Sau đó tôi tìm quần áo gì đó để mặc.

Tôi thử vài bộ váy liền ở Diane von Furstenberg, chân váy bằng vải chinffon nhẹ ở Joseph and Whistles, và áo len cashmere ở Brora, trước khi tôi sang L K Bennett và chọn một bộ vét lụa mềm mà tôi biết lên hình sẽ đẹp. Tôi không thích giày của họ lắm, vì thế tôi băng qua đường đến Emma Hope, và đợi người bán hàng lấy đôi giày buộc dây đỏ phía sau theo cỡ của tôi khi tôi liếc ra ngoài cửa sổ. Trái tim tôi ngừng lại. Đó là Luke. Anh đang bước qua phía bên kia đường, tay trong tay với Jessica, nét mặt anh sáng lên với tình yêu và tự hào.

Bản năng đầu tiên của tôi là chạy ra khỏi cửa hàng vẫy tay và gọi anh - nhưng anh trông quá hạnh phúc, tôi cảm thấy mình không nên xâm phạm. Jessica vừa đi vừa nhảy nhót, trong chiếc áo choàng màu xanh và đôi bốt chấm bi, bím tóc trắng-vàng của cô bé lúc lắc đằng sau. Kế đến chắc cô bé phải nói gì đó buồn cười bởi vì anh giật đầu lại, cười phá lên, rồi ôm chầm lấy cô bé. Tôi cảm thấy trái tim mình mở ra. Khi tôi nhìn họ bước qua vạch kẻ ở ngã tư đường, qua nhà thờ và đi xuống đường, cho đến khi họ sắp vượt khỏi tầm nhìn, tôi cho phép mình hình thành một chút tưởng tượng trong đó Luke và tôi sống cùng nhau - với Jessica, Magda đã đồng ý nhường quyền trông nom cho Luke để cô ta có thể dành thời gian cho lũ dê. Và ba người chúng tôi sẽ có một cuộc sống thật tươi vui...

Chúng tôi đi đến Công viên Holland vào thứ Bảy hàng tuần và chơi đùa ở sân chơi. Và khi Luke và tôi đẩy Jessica trên xích đu, con bé sẽ cười phá lên, đầu ngả ra sau, tóc tung bay; sau đó chúng tôi về nhà và uống trà. Tôi làm cho cô bé một chiếc bánh sô cô la đầy kem, cô bé bị dính lên mặt, vì thế tôi phải lau mồm và tay cho nó. Sau đó tôi giúp cô bé luyện đàn piano, đọc truyện, dạy cô bé khâu vá, hay giúp cô bé sắp xếp tủ quần ào. Và tôi kể cho cô bé nghe về những chiếc vé xem Hồ Thiên nga ở Covent Garden mà tôi đã kiếm được cho chúng tôi vào tuần tới, và về lần đầu tiên chúng tôi sẽ đi mua sắm cùng nhau như thế nào để mua cho cô bé vài thứ đặc biệt để mặc. Mặt cô bé sẽ rạng rỡ với niềm sung sướng bất ngờ.

Và vào buổi tối, cả ba chúng tôi sẽ xem một bộ phim cùng nhau, phim gì đó thật vui và bổ ích như, tôi không biết, Shrek, hay Nhật ký Công chúa - và Jessica sẽ xích vào gần Luke trên chiếc ghế sofa trong khi tôi tế nhị ngồi cách một khoảng xa. Và, khi chiếu hết đoạn kết, cô bé sẽ ngáp như một con mèo nhỏ, và Luke sẽ nói, “Được rồi, đã đến lúc đi ngủ thôi cô gái nhỏ - chúc-ngủ-ngon dì Laura đi nào.” Rồi Jessica đi đến trao cho tôi một cái ôm và tôi cảm thấy khuôn mặt nhỏ mềm mại của cô bé kề sát mặt tôi, tôi nhắc cô bé nhớ rằng ngày mai tôi sẽ đưa nó đi học cưỡi ngựa ở Công viên Hyde vì con bé say mê những con ngựa nhỏ, con bé thở dài hạnh phúc và sau đó, với sự vui sướng của tôi, tôi nghe cô bé thì thầm. “Ôi, con thật may mắn vì có dì là mẹ kế, dì Laura ạ.”

“Blah blah blah blah blah . . .”

Và tôi trả lời, “Ồ không đâu, Jess - dì mới thật may mắn vì có con. Dì yêu những cô gái nhỏ, dì chỉ đơn giản là yêu chúng, và con là cô gái nhỏ ngọt ngào nhất dì từng...”

“Blah blah blah blah giày đây, thưa cô?”

“Hả?”

Cô bán hàng xâm nhập vào sự tập trung. Cô ấy đang cầm một đôi giày buộc dây sau. “Giày của cô. Cỡ 41.” Tôi nhìn chằm chằm vào chúng. “Cô ổn chứ, thưa cô?”

“Cái gì cơ?”

“Cô khỏe không ạ? Cô có cần một ly nước không?”

“Ồ. Không...” Tôi nghĩ đến thứ Hai, và cuộc hẹn của tôi với Luke. Tôi mỉm cười. “Tôi không sao, cám ơn cô. Tôi rất tốt.”

“Con trông rất xinh và diện,” Mẹ tôi nói khi tôi gặp bà và bố ngoài nhà thờ St Mark lúc hai giờ rưỡi ngày hôm sau.

“Mẹ cũng thế,” tôi nói khi hôn bà - hay là đang cố gắng; hai chiếc mũ của chúng tôi va vào nhau. “Mặc dù nói thật là con thấy như thế này hơi quá diện thì phải.”

“Mẹ cũng thế,” mẹ tôi bày tỏ. “Nhưng dù sao không phải ngày nào cũng là ngày lễ rửa tội của đứa cháu đầu tiên, và Fliss của chúng ta nói nó muốn chúng ta ăn diện.”

Chúng tôi quá lo lắng về việc đến muộn nên đã đến sớm hơn đúng hai mươi phút. Vì thế chúng tôi đi vào trong và ngồi xuống hàng ghế thứ ba phía tay phải. Những tia sáng mặt trời mùa xuân chiếu qua những tấm kính màu, tán xạ thành những mảng màu như những mảnh vỡ của một chiếc cầu vồng. Chúng tôi hít vào mùi hương ngọt ngào của sáp ong và phấn hoa. Khi đàn piano bắt đầu chơi, tôi xem xét trình tự Buổi lễ sang trọng mà Felicity đã đặc biệt đặt in. Tôi đọc lời đề tặng - một đoạn trong một bài thơ của Emily Dickinson.

Nếu như biển rẽ ra

Và cho thấy một mặt biển nữa -

Và cứ thế - một mặt biển nữa...

Đấy chắc là cảm xúc mà bạn cảm thấy khi trở thành bố mẹ.

“Hãy nhìn tất cả những câu nói và bài thánh ca dễ thương này,” tôi nghe mẹ thì thầm bên cạnh. “Nó hơi quá trang trọng, đúng không?” bà thêm vào với một tiếng cười khúc khích.

“Tất nhiên.”

Nhưng điều đó đã là hiển nhiên khi thiệp mời đến. Tấm thiệp cứng đến nỗi nó thực sự có thể tự đứng được. Những dòng chữ in nghiêng màu đen dập nổi uốn lượn rất rõ ràng đến mức bạn có thể đọc nó với đầu ngón tay như chữ Braille. Bấp chấp tình trạng tài chính eo hẹp của họ, Felicity bác bỏ ý kiến về một lễ rửa tội đơn giản trong phạm vi gia đình để chọn một buổi lễ hoang phí hơn. Đằng sau chúng tôi, sau chiếc đàn organ, là một đội hợp xướng lớn đã sẵn sàng. Phía trước chúng tôi là một đội bốn người chơi đàn dây đã kín đáo xuất hiện. Hai bên bệ thờ là hai lẵng hoa trắng lớn có kích thước của một chiếc tháp. Phía sau mỗi hàng ghế đều treo một bó hoa cỏ chân ngỗng lớn màu trắng và hồng.

“Thế này thực sự giống với một đám cưới hơn,” mẹ nói, khi Hope và Mike đến và chen qua chúng tôi.

“Một đám cưới Hoàng gia,” Hope nói thêm với một nụ cười mỉm. “Chị ấy có một thợ chụp ảnh chuyên nghiệp ngoài kia và ai đó ghi hình lại toàn bộ buổi lễ.”

“Chơi trội,” Mike thốt ra. Tôi liếc nhìn cậu ấy. Bình thường cậu ấy vẫn vui vẻ, nhưng tôi nghĩ câu nói đấy hơi có ý châm chích.

“À, tạo sao chị ấy không đi đến thành phố?” Hope nói thẳng. Em gái tôi mở chiếc túi Hermès Birkin và lấy ra một hộp phấn đắt tiền. “Rốt cuộc thì hôm nay là ngày đặc biệt của chị ấy.”

Tôi nhớ ‘ngày đặc biệt’ cuối cùng của Felicity mười hai năm trước, tôi đã đau khổ như thế nào. Còn hôm nay tôi thấy phấn chấn như thế nào, một sự đối nghịch lý thú nhưng không mong đợi.

“Con trông thật nổi bật, Hope,” mẹ tự hào nói. Và đấy là sự thật.

Hope luôn xuất hiện không chê vào đâu được trong những bộ đồ kèm phụ kiện hoàn hảo và đắt tiền, đôi giày vừa khít, quần bó ống vải bóng, trang điểm nhẹ nhàng, mái tóc hoàn hảo bóng mượt ôm lấy khuôn mặt như một cái mũ bảo hiểm. Em tôi có làn da ngăm ngăm và khổ người nhỏ xinh - một hình ảnh đối nghịch của Fliss, người luôn mập mạp, với làn da trắng như sữa và tóc vàng. Tôi không giống ai trong hai người - gọn gàng, tóc xoăn, và những đường nét hơi góc cạnh và mạnh mẽ. Luke thường nói nếu tôi là một bức tranh, tôi sẽ là một bức tranh của Modigliani, Felicity, tươi sáng và mới mẻ là bức tranh trong sáng của Rubens trong khi Hope...

Em gái tôi là gì nhỉ, tôi tự hỏi khi tôi liếc trộm nó. Một bức tranh của Dora Carrington, có lẽ thế? Nhỏ nhắn và sắc nét. Khó hiểu. Ấn tượng. Ở em gái tôi thường toát lên vẻ hơi lạnh lùng. Nó đang lật qua những bài hát thánh ca, đánh dấu những trang có liên quan bằng giấy ghi chú Post-it nhỏ xíu.

Tôi luôn thấy kinh ngạc khi hai chị em gái của tôi được sinh ra bởi cùng bố mẹ. Trong khi Fliss bừa bộn, cởi mở và bộc phát, Hope lại có tính trật tự cao, kín đáo và tự chủ. Gần giống như là con bé là người lớn nhất có trách nhiệm, và Fliss là một đứa bé hư hỏng. Tôi luôn là người đứng giữa hai người. Khi chúng tôi còn nhỏ, chúng tôi phát hiện ra rằng mẹ đã có thai một lần nữa giữa Fliss và tôi nhưng không giữ được. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về đứa bé đã mất đó...

Bây giờ chúng tôi có thể nghe thấy những cuộc nói chuyện khe khẽ từ phía sau. Những hàng ghế bắt đầu được lấp đầy.

“Fliss đã mời bao nhiêu người?” Bố hỏi khi ông nhìn nhanh ra phía sau chúng tôi.

“Một trăm năm mươi,” Hope nói khi nó phủi một hạt bụi tưởng tượng từ măng sét tay áo. “Con nghĩ rằng vì hôm nay là ngày Chủ nhật, số lượng đến dự sẽ kha khá - có lẽ là bảy mươi phần trăm - vậy chúng ta sẽ có ít nhất khoảng một trăm người.”

“Lố bịch,” Mike lẩm bẩm và khoanh tay lại. Nếu tôi không thích cậu ấy, tôi sẽ cảm thấy giận dữ trước lời châm chích lần thứ hai này, nhưng tôi quyết định rằng sự cau có của cậu ấy là do stress. Cậu ấy và Hope đều làm việc trong Thành phố - Hope là trưởng phòng quan hệ công chúng cho Sở Giao dịch Kim khí, cậu ấy là Phó chủ tịch của một ngân hàng đầu tư - và tôi biết cậu ấy thường làm việc không màng giờ giấc trong những dự án lớn. Nhưng, mặc dù cậu ấy trông có vẻ mệt mỏi và tôi để ý rằng mái tóc sẫm màu cắt quá ngắn của cậu ấy đã bạc hơn trước đây, tôi cảm thấy vẻ cáu kỉnh của cậu ấy là do điều gì đó hơn là mệt mỏi. Cậu ấy bực mình như thể thực sự không muốn có mặt ở đây. Nhưng cũng có thể lễ rửa tội làm cậu ấy chán ngắt.

Mike và Hope không có con - do sự đồng thuận hai bên. Mike không bao giờ thể hiện một chút xíu quan tâm nào và Hope luôn đùa rằng nó là một người ‘chống-đối-việc-sinh-nở’. Và đấy không phải là một chiếc khiên để bảo vệ nó trước thất vọng có thể xảy ra - đấy là một lựa chọn thành thật và cố ý. “Em không có cảm giác muốn làm mẹ,” em gái vui vẻ nói khi chủ đề này được nêu lên. “Hoàn toàn không có - không quan tâm.” Em gái tôi luôn như thế. Ví dụ, khi nó lên mười tuổi, bố mẹ tôi cho nó một con thỏ, nhưng nó từ chối. Vì vậy họ đưa cho nó một con chuột nhảy, và nó cũng lịch sự khước từ. Em tôi giải thích rằng nó không muốn trông nom một con thỏ hay một con chuột nhảy hay một con chuột, thực ra là, bất cứ cái gì, cám ơn - và khi trưởng thành, sự kháng cự đó lan sang cả trẻ con. Rất lâu trước đây con bé nói với tôi rằng nó không muốn chịu trách nhiệm đối với những đứa trẻ, hay những phi vụ ‘náo động’ và ‘lộn xộn’.

Nhưng mà Hope vẫn tử tế với con cái của người khác đấy nhé. Nó sẽ đu đưa chúng, chơi trò ‘ú òa’, và ‘vòng quanh vườn’ với chúng - nhưng sau đó em tôi thực sự vui vẻ trả lại chúng. Con bé và Mike đã kết hôn sáu năm. Và trong cuộc hẹn đầu tiên, nó đã nói với cậu ấy rằng nó không muốn có con, và rằng nó sẽ không bao giờ thay đổi suy nghĩ, vì thế cậu ấy cần biết ngay từ đầu. Bởi vì cậu ấy quá say mê con bé nên cậu ấy chấp nhận điều đó. Felicity đã một lần hỏi cậu ấy có buồn lòng về chuyện này chưa. Cậu ấy chỉ nhún vai và nói đó là ‘một câu hỏi của tình yêu’.

Nhưng cậu ấy và Hope có một cuộc sống tuyệt vời. Họ có một ngôi nhà lớn ở Holland Park - tráng lệ, đồng bộ với mọi tiện nghi hiện đại, bao gồm một lò vi sóng trị giá đến sáu ngàn bảng, nhưng hiếm khi sử dụng bởi vì họ hay ăn ở ngoài hầu hết thời gian. Họ có những kỳ nghỉ tuyệt diệu - bạn nên nghe họ kể lể về việc bay trên một chiếc Concorde là như thế nào! Cuối tuần họ đi đến Paris và Prague. Hope đã có đúng cuộc sống mà con bé muốn. Tôi không nghĩ con bé cho phép bất cứ cái gì đi sai hướng.

Tôi liếc ra phía sau nhà thờ. Fliss và Hugh vẫn chưa đến. Tôi không thấy khó chịu gì. Đứng cạnh bố mẹ, trò chuyện vui vẻ cũng là một chuyện dễ chịu rồi. Họ không thể đến Luân Đôn thường xuyên vì khu nhà trọ - một ngôi nhà nông thôn lớn - thêm nữa là họ đã sống quá lâu ở miền bắc. Chúng tôi lớn lên ở Ealing, nhưng năm năm trước họ đã chuyển về Nether Poppleton, một ngôi làng xinh đẹp ở Yorkshire nơi mẹ lớn lên.

“Giờ thì, Laura của chúng ta,” mẹ nói với tôi khi đàn organ bắt đầu chơi một khúc nhạc của Pachabel. “Mẹ không gặp con nhiều như mong muốn, vì thế hãy kể cho mẹ nghe...” tôi gồng mình - “cuộc sống riêng tư của con như thế nào rồi? Con đã có người bạn mới nào chưa?” bà hỏi đầy ý nghĩa. “Mẹ biết là hôm nay Fliss đã mời một hoặc hai anh chàng độc thân vì con đấy.” Trái tim tôi chùng xuống. Tôi đã quên khuấy chuyện này.

“Chị ấy không cần họ đâu,” Hope nói khi nó phủi bụi cho đôi giày Gucci với một chiếc khăn lụa. “Chị ấy đang hẹn hò với Luke.”

“Chị chưa hề nói với em,” tôi phản đối.

“Felicity kể với em. Chị biết chị ấy ba hoa thế nào mà. Chị ấy gọi điện cho em rằng có chuyện rất đặc biệt, chị ấy rất hào hứng với chuyện đó.” Tôi đảo mắt.

“Luke?” Mẹ tôi ngạc nhiên nhắc lại. “Luke ở đại học à?” Tôi cảm thấy máu tràn lên mặt. “Con lại đang gặp gỡ Luke?”

“À...” Tôi không muốn cường điệu tình huống này. “Con chỉ vừa gặp lại anh ấy, có thế thôi.” Tôi kể cho mẹ về sự hiện diện bất ngờ của anh ấy trong chương trình.

“Ồ mẹ thích Luke!” bà thốt lên. Đây là câu mà bà vẫn nói sau khi chúng tôi chia tay, giờ tôi đã nhớ ra. “Mẹ thích Luke,” mẹ tiếc nuối nói, khoảng chín mươi lần một ngày. “Ồ, mẹ rất thích cậu ấy.” Nó đã khiến tôi điên lên. “Derek...” bây giờ mẹ tôi đang thúc vào sườn của Bố. “Con bé lại đang gặp gỡ Luke.”

“Ai cơ?”

“Luke. Laura chúng ta lại đang gặp Luke. Ông nhớ Luke không? Anh chàng con bé quen ở Cambridge. Ông biết đấy, anh chàng đã làm tan vỡ trái tim con bé.”

“Mẹ à!”

“Xin lỗi, con yêu, nhưng thính giác của cha con không còn được như trước nữa. Nhưng mẹ thích Luke,” bà nói lại. “Cậu ấy rất vui vẻ.” Điều này tôi biết, là một lời chỉ trích với Nick, người mà họ luôn thấy quá nghiêm túc - điều mà có thể là lý do đầu tiên tôi rung động trước anh ấy. Felicity, đặc biệt, chưa bao giờ nhiệt tình với Nick.

“Nghiêm trang đến chết tiệt,” tôi thoáng nghe thấy chị ấy nói với bố mẹ một tuần trước đám cưới của chúng tôi. “Con biết cậu ấy là một người tốt, nhưng cậu ấy chẳng vui chút nào, đúng không?” Điều này đã làm tôi bứt rứt. Bởi vì tôi biết chị ấy đúng. Nick không phải là người sôi nổi và dí dỏm. Nhưng anh ấy thú vị, tình cảm, đáng tin và tử tế; và anh ấy ‘an toàn’. Hoặc tôi đã nghĩ vậy.

“Mẹ nhớ Luke luôn sẵn có vài mẩu thông tin vô bổ,” mẹ tôi khen ngợi. “Vài thứ cậu ấy thường tuôn ra như kiểu - thế nào nhỉ? - à, đúng rồi, một con muỗi có bốn mươi sáu cái răng. Con có thể tưởng tượng được không? Bốn mươi sáu cái răng! Một con muỗi! Mẹ chưa bao giờ quên được điều đó. Ý mẹ là, chúng có nhiều răng hơn chúng ta nhỉ?”

“Không phải nếu bà tính cả răng sữa của chúng ta,” bố tôi nói. “Chúng ta sẽ có được năm mươi hai cái răng.”

“Số răng của con muỗi không phải bốn mươi sáu,” tôi nói. “Mà là bốn mươi bảy. Và trong bất cứ trường hợp nào đó không phải là những thông tin vô bổ, mẹ à.”

“Không phải?”

“Không. Đó là những thông tin vô nghĩa.”

“Giống nhau mà.”

“Không, không hề giống nhau - phân biệt hai điều đó rất quan trọng. Những thông tin vô bổ là những thông tin phổ biến - ai làm gì cho ai trong những vở kịch truyền hình, hay những cầu thủ bóng đá được trả lương bao nhiêu, hay ai sơn móng chân cho Victoria Beckham. Những Thông tin Vô nghĩa rất khác biệt - đó là những thông tin thú vị, nhưng hoàn toàn không liên quan đến sự thật, ví dụ, sự thật là Anne Boleyn có ba vú.”

“Thật không?” Họ đều hỏi.

“Vâng - và sáu ngón tay trên bàn tay trái. Hay sự thật là trẻ con không có xương bánh chè.”

“Thật sao?”

“Tất nhiên là không - Trẻ con chưa phát triển xương bánh chè cho đến khi lên hai tuổi. Hoặc sự thật rằng một con bạch tuộc có ba trái tim.”

“Thật á?”

“Đó là những Thông tin Vô nghĩa,” tôi giải thích. “Luke luôn rất giỏi về khoản này,” tôi tự hào thêm vào. Giờ tôi nhớ lại, đó chính là cách chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên.

Tôi đã chú ý đến anh ở trong trường, tất nhiên, nhưng tôi cố tình phớt lờ anh bởi tôi thấy anh quá hấp dẫn, nhưng biết rằng anh không thuộc kiểu của mình. Nhưng sau đó trong một buổi tối, anh len lén đến bên tôi ở một bữa tiệc, nơi tôi đang đứng dựa vào một bức tường quan sát mọi người khiêu vũ. Anh chỉ đứng đó, uống bia và không nói gì. Sau đó, không hề giới thiệu, và không thực sự nhìn vào tôi, anh nói, “Em có biết dấu vân tay của gấu koala và dấu tay người không thể phân biệt được không?”

“Thật ư?” Tôi trả lời từ tốn bất chấp sự thật là trái tim tôi đang chạy đua. “Hiển nhiên là điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn trong một hiện trường vụ án.” Anh ấy uống một ngụm bia nữa. “Thậm chí, một vụ án xử sai.”

“Thật tệ nhỉ?”

Anh tiếc nuối gật đầu. “Đúng thế. Và em có biết rằng... một con ốc sên chỉ giao cấu một lần trong cả đời.”

Tôi liếc nhìn hình dáng của anh và cảm thấy chân mình biến thành cao su. “Em không thể nói rằng em biết điều đó, không?”

“Và em có biết rằng...” và bây giờ anh nhìn vào tôi - “Cả Adolf Hitler và Napoleon chỉ có một tinh hoàn?”

“Cái gì? Ai trong hai người họ?”

Anh uống bia lần nữa, sau đó lắc đầu. “Cả hai người.”

“Điều đó thật thú vị,” tôi nói.

Và sau đó vài cô gái xuất hiện kéo anh ra sàn nhảy, và tôi không có cơ hội để nói chuyện lại với anh. Nhưng tất cả những lần chúng tôi gặp sau đó, thường là trong thư viện, anh ấy lò dò đến bên tôi và nói, rất nhỏ nhẹ, “Em có biết...?” theo sau là điều gì đó nghe có vẻ hấp dẫn, nhưng một trăm phần trăm là những điều vô ích, cho đến ngày khi anh ấy đến bên tôi và nói. “Em có biết...?”

“Vâng?” Tôi lịch sự trả lời.

“Rằng anh đã yêu em rồi không?”

“Thế chuyện gì đã xảy ra với Luke sau đó?” Bây giờ Bố tôi đang hỏi.

“Ly dị. Có một đứa con gái nhỏ. Một phòng trưng bày nghệ thuật. Fliss đâu rồi nhỉ?” Tôi liếc lại phía sau nhà thờ. Khi tôi làm như thế, một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi đeo kính và đầu hói ngồi sau khoảng năm hàng ghế vẫy vẫy tôi. Vì tôi không có tí chút ý tưởng mơ hồ nào về việc anh ta là ai, tôi giả vờ không chú ý, dù sao đi nữa, Felicity vừa mới đến. Tôi nửa mong đợi được nghe bài “Nữ hoàng Sheba giá lâm” khi chị ấy tiến vào lối đi với dáng vẻ trang trọng. Felicity thích trở thành trung tâm của sự chú ý. Chị ấy nên trở thành một người dẫn chương trình truyền hình, chứ không phải tôi.

Hugh đang bế Olivia, trông như thiên thần trong chiếc váy rửa tội lụa viền ren cổ điển thêu tay, cộng thêm chiếc yếm dãi rời xếp nếp để đề phòng con bé trớ. Felicity trông cũng tuyệt vời một cách đáng ngạc nhiên trong bộ đồ mới, và nhất định là chị ấy đang mặc quần gen vì chị ấy trông thực sự không béo lắm. Nhưng bên dưới chiếc mũ to, nụ cười cứng nhắc và lớp trang điểm chuyên nghiệp, tôi có thể thấy rằng chị ấy đang tức tối.

“Mọi thứ vẫn tốt đẹp đấy chứ?” Bố thì thầm khi chị ấy ngồi xuống trước chúng tôi.

“Không!” Chị ấy gắt gỏng, dù vẫn mỉm cười như một người có thể nói mà không máy môi. “Tên cha xứ khỉ gió hủy hẹn - ông ta bị cúm. Vì thế họ đào đâu ra một tên thay thế đần độn nào đó - người đàn ông đó là một tên đại ngốc.” Đột nhiên vị cha xứ đang được nói đến xuất hiện. Anh ta trông khoảng hai mươi tuổi - nhưng có thể là gần ba mươi. Anh ta bị viễn thị nặng, đôi mắt bơi bơi phía sau đôi mắt kính dày sụ và lỗi mốt như cá trong một cái bát.

“Chào mừng đến với nhà thờ St Mark,” anh ta nói với vẻ đầy nhân từ. Anh ta giơ tay ra. “Chào đón tất cả các con. Thật là một đám đông đáng nể!” anh ta thêm vào khi đôi mắt tập trung lại và nhận thấy một cuộc tụ tập với số lượng người khác thường - chúng tôi phải có đến hơn một trăm người. “Chúng ta ở đây để làm lễ rửa tội thiêng liêng cho đứa trẻ đáng yêu này - Olivia Clementina Sybilla Alexandra Margarita..."

“...Piña Colada,” tôi nghe Mike mỉa mai lẩm bẩm. Hope thúc khủy tay vào sườn anh ấy.

“...Florence Mabel Carter,” vị cha xứ kết thúc ngọt xớt, “và hãy chào đón cô bé đến với ngôi nhà của Chúa. Vì thế bây giờ chúng ta hãy vui vẻ hát bài thánh ca đầu tiên, ‘Mọi vật đều rạng rỡ và tươi đẹp’.”

Thực ra anh ta điều hành buổi lễ càng ngày càng tốt, mặc dù anh ta hơi giật mình bởi số lượng cha mẹ đỡ đầu. Có đến năm bà mẹ đỡ đầu - bao gồm Hope và tôi với sự khăng khăng của Felicity, ngay cả khi chị ấy biết rằng tôi không phải là một tín đồ - và năm ông bố đỡ đầu. Thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ việc này thật lố bịch - mỗi chúng ta chỉ có một mẹ và một bố đỡ đầu.

“Các con có khước từ quỷ Satan không?” vị cha xứ hỏi khi chúng tôi đứng lên phía trước. Tôi luôn thấy phần này nguyên sơ một cách cảm động.

“Chúng con có,” chúng tôi nghiêm trang trả lời.

“Và tất cả những việc làm của hắn ta?”

“Chúng con có.”

“Và tất cả những lời hứa hão huyền của hắn?”

Hầu hết, tôi nghĩ. Nhưng rồi - và khi đó tôi hiểu ra phản ứng của Felicity - vị cha xứ rao giảng một bài giảng đạo làm cuộn ngón chân người khác, và tất cả những thứ như một lễ rửa tội có nghĩa là gì. Nó mang hình dáng của một tên ngốc - ở trình độ Hỏi và Đáp - cứ như là chúng tôi đang ở trong một Trường học Chủ nhật.

“Bây giờ... Jesus là con của...?” Anh ta nhìn chúng tôi đầy mong đợi, sau đó cụp tay đằng sau tai phải. “Cố lên nào - ai có thể nói với cha? Ai là Cha của Jesus nhỉ?” Một sự im lặng tĩnh mịch diễn ra theo đó đến mức chúng tôi có thể nghe thấy hơi thở của người khác. “Nào, nào - cha biết tất cả các con biết mà, nhưng cha chỉ muốn các con nói ra. Nào. Tất cả hãy nói to lên được không nào? Jesus là Concủa...?”

“Chúa?” Bố dũng cảm nói to lên.

“Phải! Rất tốt! Hoàn toàn đúng! Và ai là Thánh T... ai là người giúp Chúa, đặc biệt trong lễ ban phước của lễ rửa tội? Thánh T... ai nào?” Chúng tôi quá ngây người vì bối rối để trả lời. “Thánh Tiiii...” anh ta tiếp tục gợi ý.

“Nhà du hành vũ trụ.” Tôi nghe Mike lẩm bẩm.

“Không - không phải Thánh Du hành vũ trụ,” vị cha xứ khoan dung lắc lắc đầu đáp lại.

“Tinh thần!” Hope nói to để che giấu sự xấu hổ trước sự thô lỗ của Mike. Vị cha xứ cười rạng rỡ với con bé. “Phải rồi! Đúng thế! Là Thánh Tinh thần.” Từ phía trước tôi nghe tiếng thở dài chịu đựng của Felicity. “Và ai có thể nói với cha họ của vị John mà Jesus đã rửa tội trên Dòng sông Jordan?” anh ta tử tế hỏi. “Đây là một manh mối - không phải John Lennon, mặc dù vài người nói như thế. Thực ra là John...?” Anh ta cụp bàn tay sau tai lần nữa. “Nào nào các giáo dân. Bắt đầu với một chữ B... ? Buh... Baa... Baaaa...?” Đến bây giờ bạn đã có thể sử dụng ngón chân của chúng tôi để kéo một cái nút bấc ra khỏi một chai rượu vang Chardonnay. Thực tế là tình trạng bối rối này thật quá hiển nhiên đến mức Olivia cũng nhận thấy, và lần đầu tiên, con bé bắt đầu khóc. Giả thiết của tôi là Felicity đã véo nó - nếu thế, đấy đúng là một mưu mẹo có tác dụng. Con bé bắt đầu gào lên như một cái còi báo động, bài giảng đạo khủng khiếp ngừng phụt, và có hàng loạt những tiếng thở dài nhẹ nhõm. Sau đó có thêm hai bài giảng đạo, một bài thánh ca khác, một bài ru con của Micronesia do đàn hợp xướng biểu diễn, và thế là xong.

“Tạ ơn Chúa,” Felicity lẩm bẩm, vẫn mỉm cười như một thí sinh trong một chương trình trò chơi truyền hình. “Và nghĩ xem chị đã tài trợ cho nhà thờ này hai trăm bảng! Nếu chị biết chúng ta vướng vào nghệ sĩ kịch câm này, chị sẽ chỉ đóng góp năm mươi thôi. Dù sao đi nữa,” chị ấy đưa Olivia cho Hugh, “ít nhất chị sẽ không phải bận tâm lần nữa cho đến khi con bé làm lễ kiên tín. Được rồi - hãy về nhà với champagne và bánh thôi.”

Đối với những người chưa bao giờ đến nhà Felicity đều biết được đó là nhà nào. Những quả bóng bay màu trắng và hồng viết tên Olivia bay phất phới từ cổng và có một chùm hoa màu trắng lớn ở cửa. Chúng tôi tràn vào bên trong, và với sự giúp đỡ của một cái rạp bằng vải sọc hồng và trắng nhỏ, bằng cách nào đó chúng tôi đều chen vào được. Khi tôi đang tiến về một người họ hàng xa không gặp nhiều năm, người đàn ông vẫy tôi ở nhà thờ xuất hiện cạnh tôi, với một biểu hiện mong đợi nóng vội trên mặt anh ta.

“Laura?” anh ta gọi. Anh ta đang chặn ngang đường tôi. Tôi thấy việc này hơi bất lịch sự.

“Vâng?” tôi trả lời, trong khi ngây ra nhìn anh ta. “Tôi không nghĩ chúng ta...”

Anh ta đẩy một bàn tay xương xẩu về phía tôi. “Norman Scrivens.” Chúa tôi... Tôi kinh hoàng - vì đây, giờ tôi đã hiểu, là ‘cuộc hẹn’ của tôi! “Felicity bảo tôi tìm em,” anh ta vui vẻ giải thích.

“Thật ư?” tôi yếu ớt nói. Tôi cảm thấy mắt anh ta lướt qua tôi, tán thưởng tôi. Cái nhìn chăm chú của anh ta khiến tôi nôn nao.

“Vậy là tôi ở đây!” Anh ta nói với vẻ liều lĩnh khôi hài. “Rất hân hạnh được gặp em.” Bàn tay anh ta khô như da rắn. “Tôi quen Felicity qua trường học.”

“Thật ư?”

“Cô ấy dạy con gái tôi vài năm trước.”

“Tôi hiểu rồi.”

“Một buổi lễ rửa tội rất hay,” anh ta bình luận. “Nếu thêm một chút trang trọng nữa,” anh ta vu vơ thêm vào; sau đó đảo mắt - gã chết tiệt! Hắn ta thực sự nghĩ rằng phỉ báng chị tôi sẽ khiến hắn đáng yêu hơn trong mắt tôi sao?

“Tôi nghĩ nó đã được hoàn thành một cách đáng hài lòng,” tôi lạnh lùng nói. “Felicity đã vất vả rất nhiều.”

“À phải, tất nhiên, nhưng vị cha xứ không phải là một người gây được cảm tình, đúng không?” anh ta cười điệu. Không đáng ghét bằng một nửa anh, tôi muốn nói thế. Quan sát gần hơn, anh ta hói như một con rùa và, trông như gần sáu mươi tuổi. Anh ta có một khuôn mặt cứng, mỏng, với đôi mắt xanh lơ ti tí đằng sau một cặp kính gọng thép và khi anh ta cười - một cách ngốc nghếch, giống như bây giờ - cổ anh ta rụt vào giữa một đống nếp nhăn.

“Felicity kể với tôi tất cả về em,” anh ta bình luận. Anh ta thực sự đã chép môi.

“Vậy à?” Ý nghĩ đó khiến tôi chìm trong kinh hoàng.

“Và tất nhiên tôi nhận ra em trên TV,” anh ta nhiệt tình thêm vào. Vậy là anh ta làm việc ở nhà. “Tôi phải nói rằng em là một cô gái thông minh, phải không?” Tôi thấy cằm mình xệ xuống. “Những thứ em biết.” Tôi gây tê chính mình trước nỗi kinh hoàng bằng một ngụm lớn champagne khác. “Quadrimum...” anh ta cười khoái trá. “Xin lỗi, tôi ngờ ngợ rằng từ đó ở trong vài bài thơ La tinh hoặc những bài thơ học ở trường. Cực kỳ nhàm chán,” anh ta bổ sung.

“Không phải. Đó là thơ của Horace và nó là một bài thánh ca đối với niềm vui của cuộc sống và tuổi trẻ. Horace đã tạo ra câu nói “carpe diem.” Những bài thơ của ông rất đẹp. Chúng khiến anh nghĩ lại về cuộc đời mình.”

“Carpe diem, ồ? Dù sao, tôi cũng biết khá nhiều về rượu,” anh ta tiếp tục. Kế đến anh ta lao vào một cuộc độc thoại chán ngắt làm tê liệt trí não người khác về ‘hầm chứa rượu lớn’ trong ‘nhà’ anh ta - ‘ở Chelsea,’ anh ta thao thao một cách tự nhiên, cứ như là tôi thèm quan tâm! - và anh ta thích ‘lái xe đến Pháp nghỉ ngơi’ như thế nào nhưng cũng cực thích ‘đi bộ leo đồi’ và ‘thu thập đồ cổ’. Sau mười phút như thế này, tôi đang tự hỏi tại sao anh ta không dán một tấm Biển quảng cáo về bản thân lên trán để tiết kiệm hơi sức cho rồi.

“Ừm, rất vui được gặp anh,” tôi nói với vẻ lịch sự hết mức có thể. “Nhưng tôi phải đi một vòng.”

“Tất nhiên - chúng ta nói chuyện tiếp sau nhé.”

Tôi không trả lời.

Tôi bước ra ngoài rạp và nói chuyện với dì và chú, nhưng trong vòng đôi phút tôi đã nhận thấy Scrivens ở trong phạm vi tầm nhìn của tôi. Tại sao anh ta không thể nhận thấy ám chỉ đó nhỉ? Khi tôi đi vào phòng ăn và nói chuyện với những người ở đó và, trong hai hoặc ba phút, anh ta cũng ở đấy. Để làm anh ta nhụt chí, tôi tập trung vào cuộc nói chuyện với một đồng nghiệp của Hugh, người đang hành hạ tôi về những câu đố.

“Anh có thể làm gì để tăng cơ hội của mình?” anh ta hỏi.

Tôi nói với anh ấy rằng có nhiều cách - ví dụ, bạn có thể học các nguyên tố trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, hay thủ đô của các nước trên thế giới, hồ sơ chính thức của các tổng thống Mỹ, hoặc vua và nữ hoàng Anh, những từ chính trong những tác phẩm nổi tiếng, những sự kiện lịch sử vang dội, hay những hành tinh trong hệ mặt trời, hoặc lựa chọn từ đúng cho danh từ tập hợp - từ tôi thích nhất trong số đó là một ‘đàn’ sứa, tiếp đó là một ‘bầy’ quạ.

“Và tất nhiên anh phải đọc báo chí, nghe đài, xem TV và nói chung là hay để ý. Nhưng yếu tốt chính anh cần để trả lời hết những câu đố là có đầu óc của một con châu chấu. Khả năng nắm bắt nhanh đã cho phép tôi làm việc này rất tốt,” tôi chếnh choáng đùa cợt. “Để giải quyết tốt những câu đố thực sự không phải là vấn đề thông minh, cũng như trí nhớ và khả năng nhớ lại, có nghĩa là anh không thể mất quá nhiều thời gian vào một thứ nào đó. Nghĩ đến cái gì đó hơn ba giây và anh sẽ lún sâu vào sai lầm tình dục của Henry VIII hay bất kể thứ gì và rồi một tiếng đồng hồ trôi qua và anh lãng phí cơ hội biết thêm cả trăm thứ hời hợt nhưng lại thú vị hơn.” Tôi uống thêm một ngụm champagne lớn nữa. “Ai quan tâm đến động cơ tâm linh hay hiểu biết sâu sắc trong lĩnh vực kiến thức chung cơ chứ?” tôi kết luận vui vẻ.

Trong lúc đó Hugh đang tán chuyện sôi nổi với một người bạn đại học của Felicity - một luật sư tên là Chantal Vane. Fliss dường như thần tượng cô ta, nhưng tôi chưa bao giờ có cảm tình với cô ta - cô ta là một con cá ướp lạnh.

“Thêm champagne không, thưa cô?”

Trước sự ngạc nhiên của tôi, ly rượu lại cạn một lần nữa. “Tại sao không?” Nhưng đến giờ tôi đã biết, sự thật là, tôi đang say. Niềm vui đã khiến tôi uống nhiều hơn bình thường. Tôi đang ở với gia đình mình. Tôi cảm thấy an toàn, lòng tự tin của tôi lên cao. Tôi đã có một thời gian dài lo lắng và đau khổ, nhưng giờ mọi thứ đều có vẻ tốt. Nhưng tôi vẫn có cảm giác đôi mắt Scrivens dán vào tôi, cố gắng bắt liên lạc. Và - ôi không - tôi có thể cảm thấy hắn ta tiến về phía tôi lần nữa. Tại sao người đàn ông này không đọc được ngôn ngữ cơ thể của tôi nhỉ? Tôi có lẽ sẽ đứng đây và hét lên “Biến đi!” Vì thế tôi lao lên tầng trên đến phòng khách mà bây giờ khách khứa đang bắt đầu thưa thớt dần. Tôi có một cuộc nói chuyện ngắn ngủi với người hàng xóm bên cạnh mà tôi đã gặp trước đây, và tôi uống thêm một ly champagne khác. Sau đấy đột nhiên Scrivens lại xuất hiện lần nữa.

“Laura - đây,” anh ta đưa danh thiếp cho tôi. “Chúng phải ăn trưa lúc nào đó. Em có danh thiếp không - hay tôi sẽ gọi cho em ở chỗ làm?”

Tôi cố gắng nghĩ ra một cách giải thoát mình mà không xúc phạm người khác. “À...” Tôi có thể nói tôi cần vào nhà tắm, nhưng điều đó nghe có vẻ thô thiển...

“Tôi biết một chỗ rất tuyệt ở St. James. Vậy em có danh thiếp không?” Anh ta nhắc lại.

Hoặc tôi có thể giả vờ vừa nhìn thấy ai đó mà tôi đã không gặp trong hai mươi năm, nhưng bây giờ căn phòng đã trống rỗng. “Tôi e rằng tôi không còn cái nào ở đây, không.”

“Có ngày nào đặc biệt phù hợp với em không?” anh ta khăng khăng.

Hoặc là tôi có thể ngất xỉu... “Thứ Sáu thường rất tiện...” anh ta tiếp tục. Nhưng mà - khiếp quá - anh ta có thể cố gắng làm tôi tỉnh lại. “Hoặc, tất nhiên, nếu nghỉ trưa khó khăn cho em, chúng ta có thể ăn tối - thực ra, đúng rồi, bữa tối sẽ tốt hơn cho tôi.”

Tôi có thể ngã xuống. Tôi cảm thấy nguy hiểm khi làm thế ngay bây giờ khi đột nhiên nhận ra mình đã uống nhiều như thế nào, cộng thêm hơi thở có mùi của anh ta khiến tôi phát ốm.

“Ừm...” tôi lắp bắp, hơi lắc lư. Hoặc tôi có thể chỉ nói, “Tôi xin lỗi, nhưng tôi phải đi bây giờ. Tạm biệt.”

“Được rồi...” anh ta nói trong khi rút quyển lịch ra. “Hãy định ngày ngay bây giờ. Như em nói, ‘carpe diem’ và như thế. Vậy... khi nào nhỉ?”

“Không bao giờ,’ tôi muốn nói. “Sẽ không bao giờ.” Và tôi vừa mới đang cầu nguyện ai đó xuất hiện và cứu tôi thoát khỏi sự đeo bám và quan tâm không được chào đón của anh ta, thì - Hallelujah[2]! - điện thoại của tôi đổ chuông.

[2] Một bài hát ca ngợi Chúa.

“Ồ, tôi thật xin lỗi,” tôi nói khi tôi lục lọi trong túi. Tôi nhìn số gọi. Đó là Luke. “Chào!” tôi nói với vẻ vui vẻ lộ liễu. “Thật tuyệt khi anh gọi. Xin lỗi!” Tôi vui sướng máy miệng nói với Norman. Anh ta có vẻ mất hứng, và sau đó tức tối nhận ra tôi đang tiếp tục cuộc gọi. Anh ta quanh quẩn một lúc, sau đó quay gót và xuống tầng dưới. Tôi chạy lên tầng trên đến phòng ngủ của Felicity, đóng cửa và nằm sụp xuống giường.

“Em sao thế?” Tôi nghe Luke hỏi khi tôi đang nhìn chằm chằm vào trần nhà. Tôi nhắm mắt lại, và thế là căn phòng bắt đầu quay tròn. “Hơi say - nhưng mặt khác tốt cả.”

“Anh hy vọng em không ngại khi anh gọi cho em trong lễ rửa tội.”

Tôi nhìn vào đường viền đắp nổi trên trần nhà. Những hình ô van và ngọn mác đang mờ đi, “Hoàn toàn khác hẳn - em rất vui, nói thật với anh đấy.”

“Tại sao?”

“Bởi vì em đang bị một gã đáng sợ quấy rầy.”

“Thật à? Ai thế?”

“Ôi, một nhà môi giới chứng khoán, Norman Scrivens. Felicity đang cố gắng gán ghép em cho anh ta.”

“Chị ấy làm thế thật à?”

“Vâng. Nhưng đó là trước khi chị ấy biết em gặp anh. Cho dù thế, em không biết chị ấy đang nghĩ gì! Hắn ta ít nhất cũng năm mươi tuổi, quá già và hoàn toàn không hấp dẫn. Hắn ta gầy, hói, đeo kính - và tẻ ngắt. Felicity nói hắn đang tuyệt vọng muốn quen ai đó bởi vì vợ hắn ta bỏ đi - em không ngạc nhiên vì cô ta làm thế.”

“Đừng khó khăn thế, Laura. Em không thể đổ lỗi cho gã tội nghiệp đó vì đã cố gắng.”

“Em đoán là em hơi tàn nhẫn. Nhưng đó là vì em uống quá nhiều champagne...” tôi nhắm mắt lại lần nữa. “Và bởi vì hắn ta đã quấy nhiễu em cả buổi chiều và bởi vì hắn ta không tôn trọng bài thơ thứ chín của Horace, một trong những bài thơ hay nhất em từng đọc - em thường đọc lại nó cho anh, nếu anh còn nhớ? - và ối... em bị chóng mặt - giữ máy nhé! Hic! - ối chết tiệt. Giờ em còn bị nấc nữa. Nhưng hắn ta thực sự - hic! - rất huênh hoang, Luke - cố gắng bắt em đồng ý một cuộc hẹn. Hắn ta thậm chí đã - hic! - lấy sổ lịch ra! Nhưng sau đó - hic!¬¬ - tạ ơn Chúa, anh đã gọi; nhưng dù thế nào đi nữa - hic! - vì lý do quái quỷ nào mà hắn ta cho rằng em sẽ quan tâm tí nào cơ chứ. Hắn ta quá già, và, thành thật mà nói, rất khủng khiếp - cộng thêm hơi thở của hắn ta có mùi nữa!”

“Ôi trời!”

“Chính xác. Ôi trời. Ôi Chúa ơi - hic! - em đã uống quá nhiều champagne rồi. Chắc là em sẽ ốm thôi. Không biết Fliss có nước ở đây không.” Giờ tôi đang dùng một bàn tay đẩy người lên và nhìn vào chiếc bàn cạnh giường, với những hộp kem, sách, khăn lau cho trẻ và một bóng đèn đỏ nhỏ xíu đang sáng rực. “Cái gìii?” tôi lẩm bẩm. Tôi nghiêng về phía trước, liếc thấy cái hộp màu trắng. Và sau đó tôi nhận ra nó là cái gì.

“Ôi. Chết tiệt.”