Cẩm Khê Di Hận

Chương 5: Chí làm trai dặm nghìn da ngựa



Hoài-Nam vương nói:

– Đúng ra triều đình tôn trọng lời hứa đó. Song vì Lĩnh Nam giúp Thụcđánh chiếm Kinh-châu, Hán-trung, Ích-châu và Trường-an. Đó là Lĩnh Namphụ triều đình, chứ không phải triều đình phụ Lĩnh Nam.

Đào Kỳ gật đầu:

– Bây giờ chúng ta làm lại. Cái thân Đào Kỳ này, hay tất cả anh hùngLĩnh Nam có mặt ở đây, sinh ra chỉ để phục hồi cố thổ. Tôi nguyện chịuchết, để Khất đại phu trị cho Hoàng-thượng và các vị. Tôi xin một điều:Hoàng-thượng ban chỉ tuyên cáo với sĩ dân thiên hạ: Lĩnh Nam,Trung-nguyên đời đời giao hảo, không xâm phạm nhau. Khi Lĩnh Nam đượcphục hồi, được an vui, cái thân Đào Kỳ này sống hay chết không quan hệnữa. Khất đại-phu sẽ trị bệnh cho các vị. Còn tôi, tôi chịu chết.

Hoàng Thiều-Hoa chạy lại ôm lấy đầu Đào Kỳ:

– Tiểu sư đệ! Tiểu sư đệ không thể chết. Không nên hy sinh như thế. Muôn ngàn lần tiểu sư đệ không chết được. Trần Quốc cũng nói:

– Đào tam ca! Người định chết thực sao? Dĩ nhiên người không sợ chết.Chết đối với chúng mình không phải điều khổ sở. Nhưng... nhưng ngườichưa trông thấy Lĩnh Nam phục hồi mà chết. Em... thì em... không đangtâm.

Đào Thế-Kiệt vẫy Trần Quốc lại gần. Ông xoa đầu nàng:

– Cháu nên biết rằng toàn thể Đào gia, toàn thể phái Cửu-chân, hay toànthể chúng ta có chết đi, mà Lĩnh Nam được phục hồi thì cũng vui lòng.Cháu thử nghĩ xem. Trời tháng chạp lạnh buốt xương, cháu cùng với độiGiao-long binh, đội nghĩa sĩ Cối-giang lặn qua Kim-sa-giang đánhĐộ-khẩu. Chắc tất cả đều nghĩ: Đánh được Độ-khẩu, rồi chết cũng cam tâm. Đánh Độ-khẩu là việc nhỏ mà còn thế, phục hồi Lĩnh Nam là việc lớn biết bao... Anh Kỳ chết cho Lĩnh Nam, là điều chúng ta cầu mà không được.

Đào Kỳ nói:

– Dù không chết vì Lĩnh Nam, nếu đổi cái chết của ta, lấy sự sống củamười ba người. Tôi cũng sẵn sàng. Em đừng cản ta. Sau khi ta chết, emgiỏi thủy tính nhất. Em sẽ làm Đô-đốc thống lĩnh hải quân Việt. Như vậyta mừng lắm rồi. Sư muội! Ta nhờ sư muội một việc được không?

Trần Quốc nói trong nước mắt:

– Đại ca dạy gì, em xin tuân lệnh.

Đào Kỳ cười:

– Điều này dễ thôi. Hồi mười ba tuổi, giữa chợ Long-biên, ta giết támtên quân Hán cứu Tử-Vân. Tử-Vân hiện làm đệ tử sư bá Nguyễn Tam-Trinh.Ta muốn khi về Lĩnh Nam, em truyền bản lĩnh Giao-long cho Tử-Vân. Điềuthứ nhì, khi anh hùng họp bầu Lĩnh Nam hoàng đế, em đừng bầu cho phụthân ta. Xét về chí lớn, phụ thân ta xứng đáng làm hoàng đế. Song cả đời người lao tâm khổ tứ. Người chỉ mong đất nước thanh bình, ngao du sơnthủy,mà bắt người làm Hoàng-đế thì khổ biết bao?

Trần Quốc hỏi:

– Vậy ai sẽ làm hoàng đế Lĩnh Nam?

Đào Kỳ chỉ Trần Tự-Sơn:

– Người mà ta muốn tôn làm hoàng đế là Nghiêm... à quên Trần đại ca. Nếu đại ca từ chối, ta tôn Đặng đại ca, hay nhị Trưng cũng được. Hoặc cóthể tôn Đô Dương.

Hoàng Thiều-Hoa nói với Quang-Vũ:

– Hoàng thượng! Ngươi hãy ban một tờ đại cáo thiên hạ đi thôi. Nếu chậm trễ, e tiểu sư đệ đổi ý.

Quang-Vũ vẫy tay gọi tên thị vệ bịt mặt:

– Giả tể tướng! Ngươi hãy vì trẫm, soạn một bài đại cáo với thiên hạ ngay tại đây.

Bây giờ mọi người mới biết tên thị vệ bịt mặt là tể tướng Giả Phục. Giả Phục lấy bút mực. Y cầm bút viết liền:

Thừa thiên hưng vận, Đại Hán hoàng đế, đại cáo với thiên hạ:

Kể từ khi vua Đế-Minh cháu ba đời của vua Thần-Nông, đi tuần thủ phươngNam, đến núi Ngũ-Lĩnh gặp một vị tiên nữ, kết hôn với nhau sinh thái tửtên Lộc-Tục. Ngài tuyên cáo với trời đất rằng từ núi Ngũ-lĩnh về Namphong cho con thứ Lộc-Tục. Từ núi Ngũ-lĩnh về Bắc phong cho thái tử. Từđấy Trung-nguyên ở bắc, Lĩnh Nam ở Nam. Cương thổ trải qua trên hai ngàn năm. Phong tục, tiếng nói, văn hóa có khác.

Vừa rồi Vương Mãng soán vị. Trẫm được hiệp sĩ võ lâm Lĩnh Nam TrầnTự-Sơn, xả thân, một đêm đánh hai mươi trận, bị thương mười lăm lần cứugiá. Trẫm cùng Tự-Sơn kết nghĩa huynh đệ. Tự-Sơn giúp trẫm khởi binh ởCôn-dương. Trung hưng Hán thất. Kịp đến khi Đặng Vũ, Ngô Hán, Mã Việnbất lợi. Trẫm phong Trần Tự-Sơn làm Lĩnh-nam vương. Vương được các anhhùng Lĩnh Nam phò tá, giúp trẫm đánh Thục.

Trước đất trời, trẫm nguyện rằng: Kể từ nay và mãi mãi về sau này, tôntrọng lĩnh thổ Lĩnh Nam. Lĩnh Nam, Trung-nguyên giữ tình huynh đệ, sốngthái bình cạnh nhau. Nếu trẫm không giữ lời, giòng họ Lưu tuyệt tử,tuyệt tôn.

Vậy trẫm đại cáo cho sĩ dân thiên hạ đều biết.

Niên hiệu Kiến-vũ thứ mười lăm, nhằm năm Kỷ-hợi (39 sau Tây-lịch), tháng hai ngày 12.

Khâm thử.

Cùng thề với trẫm còn có:

– Tuyên từ, ôn huệ, chí đức, văn nhu, hoàng thái hậu, họ Hàn.

– Hoàng thúc Hoài-nam vương, Lưu Quang.

– Hoàng thúc Tần vương Lưu Nghi.

– Tể tướng Giao-đông hầu Giả Phục.

Đô Dương vốn kinh nghiệm về triều Hán. Chàng nói:

– Thần dám xin hoàng thượng cho khắc mộc bản. Nội trong mười ngày gửibản đại cáo này tới khắp thiên hạ. Khắp cả Trung-nguyên lẫn Lĩnh Nam,đến từng trang, từng ấp, từng làng, từng xóm.

Quang-Vũ nhìn Đô Dương:

– Tân-bình hầu! Ngươi thực minh mẫn. Tiếc rằng trẫm không biết tài ngươi. Nếu không cũng phong tước Công, tước Vương cho ngươi.

Sún Rỗ xì một cái:

– Ông vua Hán ơi! Ông nói thối bỏ mẹ đi í. Nếu ông biết tài Đô đại ca,rồi cũng đến như Nghiêm đại ca... à quên Trần đại ca mà thôi.

Đoàn Chí quát:

– Chú em! Chú không được nói hỗn láo với Thiên-tử. Chú đừng quên ở đâyta có cả vạn kị binh. Ta chỉ phất tay một cái, binh sĩ của ta sẽ băm chú ra như băm chả.

Sún Rỗ cười khảy:

– Đoàn tướng quân! Nghe nói ông có tài kiêm cả văn lẫn võ. Tôi vẫn phụcông. Nay nghe ông nói mấy câu vừa rồi, tôi thấy ông dốt đếch chịu được.Ông vua của ông vừa tuyên cáo Lĩnh Nam, Trung-Nguyên cương thổ có khác.Thế thì cái ông Lưu Tú kia làm Thiên tử Trung-nguyên, chứ đâu có phảiThiên-tử Lĩnh Nam mà bảo tôi hỗn láo ?

Lời nói của Sún Rỗ tuy ngỗ nghịch, song có đạo lý. Hoài-nam vương khôngbiết nói sao. Ông vốn người tài trí. Ông muốn nhân đây hỏi thăm tìnhhình Lĩnh Nam:

– Tôi hỏi chú, thế ai làm Thiên-tử Lĩnh Nam?

Sún Lé xen vào:

– Lĩnh Nam không có Thiên-tử, chỉ có Hoàng-đế mà thôi. Hoàng-đế sẽ doanh hùng thiên hạ cử lên. Hoàng-đế là người làm việc vì dân, chứ khôngphải dùng sức mạnh chiếm được ngôi vua, rồi xưng là Thiên-tử. Hoàng-đếLĩnh Nam cuối cùng là vua An Dương. Thì ngài tuẫn quốc lâu rồi. Ngài cóđể di chiếu lại cho giòng dõi Tể-tướng Trần Tự-Minh. Người giữ di chiếutức Trần đại ca. Vậy Trần đại ca làm Hoàng-đế Lĩnh Nam.

Trần Tự-Sơn lắc đầu:

– Đào Nhất-Gia. Sư đệ nói sai rồi. Trong chiếu chỉ, vua An-Dương có dặnrằng: Sau khi phục Lĩnh Nam, chúng ta bầu cử người tài trí làm vua. Vìvậy hiện ta không phải Hoàng-đế Lĩnh Nam.

Sún Lé bướng bỉnh:

– A thì ra thế. Vậy trong lòng tiểu đệ, muốn bầu sư phụ làm Hoàng-đế. Thế thì Hoàng-đế Lĩnh Nam là sư phụ của ta.

Sún Rỗ lắc đầu:

– Lé ơi! Mắt mày lé rồi, nên mày nhìn cái gì cũng méo hết. Làm vua Hánthì mới sướng. Này nhé, thích con gái đẹp, giết chồng nó đi, cướp lấyvợ. Ai lập công ít, thì cho làm quan nhỏ. Ai lập công nhiều thì giết đi. Thích ăn gì thì ăn, thích giết ai thì giết. Chứ còn làm vua Lĩnh Namphải lo cho dân sung sướng, đất nước mạnh. Sư phụ già rồi, để cho sư phụ nghỉ ngơi chứ? Huống hồ Tam sư huynh dặn sư tỷ Trần Quốc, mày khôngnghe thấy sao?

Sún Cao hỏi:

– Vậy bầu ai bây giờ?

Sún Rỗ chỉ Đặng Thi-Sách:

– Tao nghĩ bầu Đặng đại ca làm Hoàng-đế thì đúng hơn.

Sún Lùn chỉ Hoàng Thiều-Hoa:

– Tao muốn bầu sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa làm Hoàng-đế. Lĩnh Nam có mộtHoàng-đế đẹp như tiên nữ, hiền lành, nhu nhã. Còn Trung-nguyên có ôngHoàng-đế Quang-Vũ mặt như cái lưỡi cày!

Sợ để Lục Sún đùa mãi, làm cho Quang-Vũ mất hết thể diện. Trần Tự-Sơn ngắt lời chúng:

– Các sư đệ không nên bàn truyện Lĩnh Nam ở đây. Đợi về nước rồi mới bàn.

Phương-Dung đứng trước hoàn cảnh Đào Kỳ tự nguyện hy sinh bản thân, cứumười mấy người sống, cho Lĩnh Nam được yên ổn. Lòng đau như dao cắt,nàng tự nguyện:

– Sau khi Đào đại ca chết. Ta phải can đảm sống, đợi phục hồi Lĩnh Namtrọn vẹn, ta sẽ tự tử theo. Ta chẳng nên khóc lóc làm gì. Khóc chỉ lộcái yếu hèn trước người Hán.

Nàng nói với Khất đại phu:

– Theo võ đạo Lĩnh Nam. Đại phu chữa cho người ngoài trước, cho ngườinhà sau. Ở hoàn cảnh bình thường thì thế. Còn ở đây do đại nghiệp LĩnhNam. Phàm đại nghiệp Lĩnh Nam, phải để người có quyền hành trong vụ nàyquyết định. Bàn về đạo lý phục quốc phải hỏi ý kiến Đào, Đinh hầu hoặcĐặng đại ca với nhị Trưng.

Khất đại phu hỏi Đào Thế-Kiệt:

– Lão phu quên mất. Phương-Dung nhắc mới nhớ. Việc trị bệnh hôm nay vì đại nghiệp Lĩnh Nam. Vậy xin thỉnh ý Đào hầu.

Đào Thế-Kiệt nói:

– Không phải tôi đem lòng dạ tiểu nhân mà đo người. Vì từ trước đến nay, Lĩnh Nam chúng ta chịu biết bao cảnh gian dối: Từ vụ Trần Tự-Sơn, đếncác anh hùng tham chiến Trung-nguyên. Thêm vào lời hứa ở lầu Thúy-hoa,điện Vị-ương tại Trường-an. Lần này phải cẩn thận hơn. Vậy xin đại phutrước chữa cho người nhà rồi tới các bầy tôi nhà Hán. Còn Kiến-Vũ hoàngđế đợi khi bản đại cáo này gửi tới khắp thiên hạ. Bấy giờ đại phu trịbệnh cho người cũng còn kịp.

Quang-Vũ nói với Hoài-nam vương:

– Xin hoàng thúc khẩn cho khắc mộc bản, in ra một trăm vạn tờ, gửi đi khắp nơi ngay lập tức.

Hoài-nam vương gọi một võ tướng lại dặn dò, rồi trao bản đại cáo cho y. Viên võ tướng phi ngựa về Lạc-dương tức thời.

Khất đại phu bảo Trần Năng:

– Con trị cho Sún Rỗ trước.

Trần Năng vận khí, hướng đỉnh đầu Sún Rỗ phóng chỉ. Véo một tiếng. Người Sún Rỗ rung động mãnh liệt. Nó ngồi im vận khí chịu đựng. Một lát người đỏ bừng. Trên đầu hiện ra một đám khói trắng.

Trần Năng thu chỉ về nói:

– Sư thúc Đào Nhị-Gia. Ngươi chỉ bị trúng độc ngoài da, nhẹ thôi. Công lực của ngươi lại không mạnh, hoá giải dễ dàng.

Nàng hướng Trần Quốc điểm đến véo cái nữa. Trần Quốc rung động ngườithực mạnh. Một làn khói trắng bay lên. Trần Năng thu chỉ về nói:

– Giao-long nữ! Bệnh của ngươi khỏi rồi.

Giao-long nữ kính cẩn chắp tay:

– Đa tạ sư thúc.

Giao-long nữ gọi Trần Năng bằng sư thúc, vì Khất đại phu ở vai thúc phụTrần Quốc-Hương. So vai vế, Trần Năng bằng vai với sư phụ Giao-long nữ,nên nàng gọi bằng sư thúc.

Trần Năng tiếp tục trị cho bọn đệ tử Lê Đạo-Sinh. Bọn này với nàng đềucùng một môn phái. Công lực nàng cao hơn chúng gấp bội. Nàng trị rất dễdàng.

Quang-Vũ quay lại Công-chúa Vĩnh-Hoà nói:

– Công-chúa! Hơn năm nay trẫm không được tin tức của Công-chúa. Vậy Công-chúa ở đâu?

Công-chúa Vĩnh-Hoà đáp:

– Tâu hoàng-thượng, thần cùng với Chu, Triệu quận-chúa đi Khúc-giang thuộc Nam-hải, học nghề với Khúc-giang ngũ hiệp.

Rồi nàng kể truyện trên đồi Vương-sơn. Trương Linh vô lễ ra sao. Nàng gặp Hàn thái-hậu thế nào.

Quang-Vũ nói với Trần Tự-Sơn:

– Trần hiền đệ. Trước đây mấy năm, trẫm có ý chờ Công-chúa Vĩnh-Hoà lớnlên sẽ gả cho hiền đệ. Song từ hồi ấy đến giờ, trẫm không gặp lại hiềnđệ. Hôm ở Lạc-dương, vì phẫn chí hiền đệ nhục mạ, tuyệt tình với trẫm.Truyện đó đã qua. Bây giờ chúng ta thành anh em thực sự chứ không còn là anh em kết nghĩa nữa. Mẫu hậu của trẫm là dưỡng mẫu của hiền đệ. Trẫmquyết định gả công chúa Vĩnh-Hoà cho hiền đệ. Vậy hiền đệ nghĩ sao?

Trần Tự-Sơn đáp:

– Đa tạ hồng ân của hoàng thượng. Đệ đã có vợ rồi!

Hoài-nam vương vỗ tay cười:

– Anh hùng trong thiên hạ hiện nay, ngoài Hoàng-thượng chỉ có Vương gia. Trai năm thê bảy thiếp là thường. Vương-gia đã có Hoàng vương-phi. Bâygiờ thêm Công-chúa nữa. Đâu có gì trái với đạo lý đâu?

Trần Tự-Sơn nói:

– Thiều-Hoa đối với tôi, không nằm trong nghĩa phu thê thông thường nhưbất cứ cặp phu thê nào khác. Khi tất cả người Việt Lĩnh Nam đều gọi tôilà chó Ngô, là Hán bốn chân. Thì Hoàng muội chỉ nhìn thấy ở tôi mộtngười hiệp nghĩa. Hồi tôi mang quân đánh Đinh, Đào trang, gặp Hoàng muội tại trận tiền. Giữa lúc Đinh, Đào trang tan nát. Hoàng muội thấy rõ tôi không phải bọn ác Hán. Hoàng muội chịu làm vợ tôi. Hoàng muội đẹp nhấtLĩnh Nam, lại ôn nhu văn nhã. Hoàng muội giúp tôi xông pha trận tiền.Trải biết bao hiểm nguy. Cho nên, tôi nghĩ: Tôi có chết đến mấy lần, đểđược người vợ như Hoàng muội, tôi cũng cam tâm. Tình thì vợ chồng, songân nghĩa, tri kỷ, trong thế gian không ai có thể bì được. Tôi... Tôi đãthề, cả đời chỉ sủng ái Hoàng muội mà thôi. Xin Hoài-nam vương hiểu chotôi.

Hàn Tú-Anh nắm tay Trần Tự-Sơn:

– Con xứng đáng là đứa con mà má kỳ vọng. Phải! Phàm anh hùng, phải biết trọng tình nghĩa phu thê sâu đậm đó.

Bà nắm tay Công-chúa Vĩnh-Hoà:

– Công-chúa, ngươi với Hoàng-thượng là chị em. Ta là thím, là sư thúccủa ngươi. Trước đây, ta cũng ước ao hỏi ngươi làm vợ cho Tự-Sơn. Từ khi gặp Thiều-Hoa, ta khuyên Tự-Sơn, vĩnh viễn chỉ sủng ái có nàng mà thôi. Ta sẽ tìm người anh hùng, để gả cháu. Trên thế gian này, ngoàiThiều-Hoa ra, không ai có vẻ đẹp quyến rũ như cháu.

Quang-Vũ bảo Tự-Sơn:

– Thôi trẫm không ép hoàng đệ nữa.

Quang-Vũ quay lại nhìn Đô Dương:

– Đô-Dương! Hiện tuổi ngươi đã trên ba mươi. Đến nay vẫn chưa có vợ. Vậy trẫm gả Chu quận chúa cho khanh. Chu quận chúa vừa xinh đẹp, vừa ôn nhu văn nhã. Một giai nhân hiếm có trên thế gian.

Đô Dương khẳng khái:

– Đa tạ hoàng thượng. Khi làm Thái thú Phù-phong, tước Tân-bình hầu, thì thần gặp sư muội Giao-Chi. Giao-Chi thuyết thần trở về với Lĩnh Nam. Từ đấy bọn thần thành đôi bạn. Nay nàng chết chưa nguội xác, thần... thầnkhông lòng dạ lấy bất cứ người con gái nào trong thiên hạ làm vợ. Đa tạhồng ân của Hoàng-thượng.

Đô Dương nói với Hoài-nam vương:

– Vương gia. Thần xin Vương-gia ban cho một tấm lệnh bài, để thần đi Mang-sơn tìm xác Giao-Chi chôn cất cho ấm áp thân nàng.

Hoài-nam vương móc lệnh bài đưa cho Đô Dương:

– Đô thái-thú cầm lấy mà đi.

Đô Dương nói với Sún Lé:

– Sư đệ cho ta mượn mười Thần-ưng được chăng?

Sún Lé cầm tù và thổi lên ba hồi. Mười Thần-ưng bay từ xa đến đậu trướcmặt nó. Nó chỉ trỏ, huýt sáo mấy lần như ra lệnh. Nó lại dạy Đô Dươngcách điều khiển Thần-ưng. Rồi giao cho chàng chiếc tù và.

Đô Dương nhảy lên ngựa, phi xuống đồi. Mười Thần-ưng bay trên đầu chàng.

Đặng Thi-Sách nói với Trần Tự-Sơn:

– Trần vương gia. Xin Vương-gia cùng Thái sư thúc về Lạc-dương trị bệnhcho Hoàng-thượng với Lê thái sư thúc. Chúng tôi lên đường ngay.

Anh hùng Lĩnh Nam chia làm hai đoàn. Theo Trần Tự-Sơn đi Lạc-dương có Hoàng Thiều-Hoa, Khất đại phu, Tiên-yên, Trần Năng.

Còn lại Đào Thế-Kiệt, Đặng Thi-Sách, Phương-Dung, Đào Kỳ, Chu Bá, ĐặngĐường-Hoàn, Cao Cảnh-Sơn, Cao Cảnh-Minh, Giao-long nữ, Phật-Nguyệt, LụcSún... lên đường đi hồ Động-đình.

Đào Kỳ tuy bị trúng độc. Song chàng chỉ đau đớn khi lên cơn. Còn chàngvẫn đi đứng bình thường. Đoàn người cỡi ngựa về hướng Nam. Lục Sún đicạnh Đào Thế-Kiệt nghe sư phụ dạy dỗ. Ban ngày ông giảng đạo lý, lịchsử. Đêm ông dẫn chúng ra chỗ vắng luyện võ. Đào Thế-Kiệt nổi tiếng đệnhất hào kiệt. Ông có thiên tài dạy học. Gặp Lục Sún thông minh, lanhlợi, chúng luyện võ rất mau.

Hơn nửa tháng sau, đoàn người đi vào địa phận Nam-dương. Chu Bá nói:

– Nam-dương đang có chiến tranh. Quân Thục, Hán giao tranh bất phân thắng bại. Chúng ta nên tránh ra đường khác.

Sún Đen cãi:

– Chu sư thúc! Chúng ta nên đến thăm Thục một phen. Chúng cháu vớiTrường-sa vương Công-tôn Thiệu đánh nhau chán rồi kết huynh đệ. Chúngcháu muốn gặp nghĩa huynh một lần cho thỏa lòng mong nhớ.

Đặng Thi-Sách cũng nói:

– Đúng đó! Sư thúc! Đệ tử với Công-tôn Thiệu kết bạn trên núi Thiên-sơnhơn mười năm trước. Bây giờ chúng ta nên tới dinh Thục, để cháu gặp lạinghĩa huynh một phen.

Đang đi, Sún Rỗ chỉ phiá trước nói:

– Trong rừng kia có phục binh. Phục binh người nhà, chứ không phải kẻ thù.

Đặng Thi-Sách hỏi:

– Sao sư đệ biết?

Sún Rỗ chỉ Thần-ưng đáp:

– Thần ưng đang tuần hành trên không. Thấy có phục binh ở dưới, chúnglao xuống nhìn. Chúng xuống tới nơi, nhận ra người nhà. Chúng lại baylên. Nếu gặp người ngoài chúng đã nhào xuống tấn công rồi.

Sún Lé cầm tù và thổi lên ba hồi. Thì từ khu rừng phiá trước, hai convật lao như bay tới. Đó là hai con cọp màu vàng. Chúng thấy Lục Sún thìnhảy lại vờn, đùa với nhau. Lục Sún ôm cổ, xoa đầu chúng, tỏ vẻ nhớnhung, sau thời gian dài xa cách.

Lục Sún nói với Đào Thế-Kiệt:

– Chỉ huy đoàn phục kích chính thị Hoàng Hổ tướng.

Một lát sau quả nhiên Hoàng Hổ tướng chạy lại chào mừng quần hùng. Nócho biết: Trưng Nhị sai nó dẫn mười Thần Hổ đi tuần thám, để bắt tế tácbên Hán. Sún Lé giới thiệu Hoàng Hổ với mọi người. Hoàng Hổ viết mấychữ, sai Thần-ưng về trước báo tin cho Trưng Nhị.

Đoàn người đi nửa buổi nữa, thì xa xa đoàn quân uy nghi, cờ xí phấtphới, gươm đao sáng choang. Trên cờ soái có chữ Trường-sa vươngCông-tôn. Đặng Thi-Sách, Lục Sún phi ngựa tới trước hỏi:

– Có phải Công-tôn sư huynh đó không?

Công-tôn Thiệu xuống ngựa. Một tay bế bổng Sún Lé lên. Một tay nắm Đặng Thi-Sách:

– Đặng hiền đệ! Tây-vu thiên ưng lục hiền đệ. Hôm nay ta được gặp cáchiền đệ đây thực thỏa lòng mong nhớ. Anh em chúng ta phải nói truyện mấy ngày mấy đêm mới đã nhớ!

Đặng Thi-Sách giới thiệu các anh hùng Lĩnh Nam với Công-tôn Thiệu.

Đào Kỳ hỏi:

– Công-tôn vương gia! Sư tỷ Trưng Nhị hiện ở đâu?

Công-tôn Thiệu chỉ về phiá sau:

– Ta được tin báo, vội vã lên ngựa đi trước. Trưng cô nương với anh hùng Lĩnh Nam sẽ đến sau.

Hai đoàn người nhập làm một. Truyện trò nổ như bắp rang. Một lát TrưngNhị, Hồ Đề, Lê Chân, Lại Thế-Cường, Vi Đại-Lâm, Vi Đại-Sơn, Hổ tướng,Báo tướng đã đến. Chào hỏi rối rít. Hai bên cùng kể truyện những biến cố xảy ra, từ khi rời Dương-bình-quan.

Hồ Đề nghe Đào Thế-Kiệt thu Lục Sún làm đồ đệ. Nàng đến trước mặt ông chắp tay hành lễ:

– Tiểu nữ đa tạ Đào-hầu đã mở lượng hải hà, nhận Lục Sún làm đệ tử. Chỉcần Lục Sún học được một phần trăm những gì sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa đãhọc. Chúng cũng sẽ trở thành đại tướng quân.

Đào Thế-Kiệt cười:

– Hồ thống-lĩnh dạy quá lời. Không biết sau này, tôi sẽ dạy chúng nhữnggì, khó mà đoán được. Có điều tôi biết ngay từ bây giờ: Là tôi yêuthương chúng như Thiều-Hoa, như Nghi-Sơn, Biện-Sơn.

Hồ Đề thấy Sún Lé ngồi trên mình ngựa, tay cầm cuốn sách đọc, nàng phì cười chế nhạo:

– Sư đệ chỉ biết có năm sáu chữ thì hiểu gì mà đọc sách?

Sún Lé bỏ sách vào túi nói:

– Từ khi đến Dương-bình-quan gặp Hoàng sư tỷ. Mỗi ngày sư tỷ bắt bọn emhọc hai mươi chữ. Tính chung gần hai trăm ngày qua, chúng em học đượcbốn ngàn chữ. Cho rằng quên một phần, cũng còn ba ngàn chữ. Em đọc TônTử binh pháp, mà không bí một chữ nào cả.

Tới bản dinh Thục. Công-tôn Thiệu truyền mở tiệc đãi khách. Đào Thế-Kiệt hỏi thăm quân tình, chiến cuộc đôi bên. Trưng Nhị đáp:

– Đặng Vũ là tướng lão luyện. Y trấn thủ trong thành Nam-dương quá kiêncố. Tôi với Trường-sa vương công thành nhiều lần, đều thất bại. Hiện hai bên cầm cự nhau ở đây.

Sún Cao lắc đầu:

– Em không tin. Sự thực sư tỷ chỉ muốn hù Đặng Vũ. Chứ nếu sư tỷ dồn hết lực lượng, gì mà không đánh được.

Hồ Đề hỏi:

– Có lý nào như thế?

Sún Cao bàn thêm:

– Thục mới chiếm được Kinh-châu. Phía nam, thì Quế-lâm, Nam-hải chưaphục hồi. Coi như còn trong tay Hán. Phía bắc thì Đặng Vũ cầm hai mươivạn quân đe dọa. Phía Đông, thì đất Nam-xương Mã Viện cầm mười lăm vạnquân. Quân tướng Kinh-châu là quân Hán mới hàng, lòng dạ khó lường. NếuThục tiến chiếm Nam-dương, thì binh hao, tướng tổn. Thảng hoặc Mã Việncũng kéo quân vây phủ, thì chỉ có chết. Vì vậy Công-tôn sư huynh mớikhông chiếm Nam-dương.

Đào Thế-Kiệt khen:

– Con sáng suốt lắm. Nhận xét như vậy rất chí lý.

Công-tôn Thiệu hỏi Lục Sún:

– Các sư đệ tới đây. Ta muốn nhờ các sư đệ đánh thành Nam-dương. Không biết các sư đệ có giúp ta không?

Sún Lé lắc đầu:

– Không!

Công-tôn Thiệu chưng hửng:

– Tại sao thế?

Sún Lé đáp:

– Sư phụ dạy Phàm làm người phải biết giữ cái Nghĩa. Khi bọn em theo đạo Kinh-châu đánh Thục, Đặng-Vũ đối xử với bọn em rất tử tế. Đặng dạy bọnem cách xung phong hãm trận, cách tổ chức quân đội. Về tư cách đối xử,Đặng với chúng em như anh em trong nhà. Đặng dạy chúng em học, Đặng làthầy. Bây giờ chúng em dùng cái tài Đặng dạy chúng em, mà đánh Đặngchẳng hóa ra mình thành phường bất nhân, bất nghĩa hay sao ? Chúng emquyết không làm.

Sún Rỗ cũng nói:

– Nhớ ơn biểu hiện tính của người thường. Báo đức mới đúng lẽ của liệtsĩ. Đặng Vũ kia làm nanh vuốt cho Hán. Đặng không hại chúng em. Đặng đãi chúng em như tình ruột thịt, vì trọng tài của chúng em. Như vậy Đặngthành tri kỷ của chúng em. Đánh tri kỷ thì còn đâu là hiệp nữa?

Trưng Nhị đưa mắt nhìn Đào Thế-Kiệt. Vì nàng thấy lý luận của các Sún giống lý luận của Thiều-Hoa, Đào Kỳ. Nàng nói thầm:

– Ông cụ họ Đào này gớm thật. Chỉ mới nhận Lục Sún làm đệ tử có hơn nửatháng, mà ông đã nhét vào đầu chúng những tư tưởng kinh thế hãi tục.

Sún Cao nói với Đào Thế-Kiệt:

– Sư phụ! Chúng con xin phép sư phụ vào thành thăm Đặng Vũ một lần chophải đạo. Dù sao Đặng Vũ cũng dạy hành binh, xung trận, binh pháp chobọn con.

Đào Thế-Kiệt gật đầu:

– Các con làm thế đúng với võ đạo nhà ta.

Sún Đen lấy giấy viết mấy chữ, sai Thần-ưng bay vào thành Nam-dương.

Một lát Thần-ưng bay ra, mang theo bức thư. Sún Lé cầm lấy đọc. Nó nói:

– Đặng Vũ chuẩn bị đón bọn mình rồi đấy.

Đào Thế-Kiệt bảo Sún Lé:

– Phàm hành sự phải cho quang minh chính đại. Thục, Hán đang giao chiến. Các con vào thăm tướng Hán, cần phải đưa thư cho Trường-sa vương coi,hầu tránh hiểu lầm nhau.

Sún Lé cầm thư kính cẩn trao cho Công-tôn Thiệu. Cả sáu đứa cùng lênngựa đến cửa Nam thành Nam-dương. Trên thành phát ba tiếng pháo. Cửa mởrộng. Đặng Vũ đứng ở cổng thành đón Lục Sún. Đặng nói:

– Hôm nay ta được hân hạnh đón tiếp sáu vị hiền đệ. Nào chúng ta vào thành cùng nhau đàm đạo.

Đặng Vũ mời Lục Sún vào trướng. Đặt tiệc mời. Trong tiệc Đặng Vũ hỏi:

– Ta với Thục đang đánh nhau. Lĩnh Nam giúp Thục. Vậy các hiền đệ có dùng Thần-ưng đánh ta không?

Sún Rỗ lắc đầu:

– Không! Một trăm lần không.

Đặng Vũ nói:

– Ta muốn chính miệng các đệ nói ra cho tướng sĩ cùng nghe. Chứ các hiền đệ tới đây thăm ta, ta đã biết rồi.

Sún Cao nói:

– Mai này bọn đệ trở về phục hồi Lĩnh Nam. Nếu Lĩnh Nam với Hán có chiến tranh, đại ca hành xử thế nào?

Đặng Vũ cầm đôi đũa bẻ làm hai nói:

– Ta thề có trời đất. Đặng Vũ còn sống ngày nào, không làm lợi cho LĩnhNam cũng không làm hại. Nếu ta sai lời chết dưới muôn ngàn mũi tên.

Sún Lé nhìn lên án thư của Đặng Vũ. Nó thấy có con gấu bằng đồng đengiống như con gấu nó lấy trong người Mao Đông-Các. Tò mò nó hỏi:

– Đặng đại ca! Con gấu này đại ca lấy được ở đâu?

Đặng Vũ nói:

– Hồi ở Trường-an, Kiến-Vũ thiên tử sai ta điều tra Trần Lữ, TạThanh-Minh. Ta khám nhà chúng, bắt được con gấu này. Ta đem theo bàychơi cho đẹp. Nếu hiền đệ thích, ta xin tặng.

Đặng Vũ lấy con gấu đồng đen, đặt vào tay Sún Lé. Sún Lé cảm tạ.

Trước khi rời thành Nam-dương, nó tặng cho Đặng Vũ một cặp Thần-ưng rồi dặn:

– Cặp Thần-ưng này tinh lắm. Đại ca giữ lấy để liên lạc với bọn đệ. Dùbọn đệ ở chân trời nào nó cũng tìm ra. Thôi đệ xin cáo từ.

Đặng Vũ ân cần cầm tay Lục Sún tiễn ra tới cửa thành.

Lục Sún trở về dinh Thục. Chúng tường thuật chi tiết cuộc hội kiến vớiĐặng Vũ cho Đào Thế-Kiệt, Đặng Thi-Sách, Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương-Dungnghe.

Đào Thế-Kiệt nói:

– Trần Tự-Sơn làm Lĩnh-nam vương của triều Hán, mà một lòng một dạ vớiđất Lĩnh Nam. Trong các quan triều Hán, không phải ai cũng ác độc, muốnchiếm Lĩnh Nam. Người cảm tình với chúng ta hiện thời có Hoài-nam vương, Tần vương. Các đại tướng có Đặng Vũ, Mã Vũ. Ta nên tìm cách mở rộngliên hệ với các quan triều Hán, như vậy có lợi cho mình. Đối với bọntham quan, thì dùng vàng bạc mua chuộc. Nhờ vậy nhất cử nhất động củaQuang-Vũ chúng ta đều biết hết.

Trưng Nhị gật đầu:

– Biết các quan người Hán nhiều nhất thì Trần Tự-Sơn, thứ đến Đô Dương.Vậy để Đô Dương đảm trách việc này, mọi truyện mới dễ thành công.

Lục Sún trở về lều của chúng. Sún Lé cầm hai con gấu, một của MaoĐông-Các, một của Đặng Vũ để trước án thư. Sáu đứa cùng ngắm nhìn.

Sún Hô nói:

– Tại sao hai con gấu này lại có tư thế khác nhau? Con của Mao Đông-Cáccó tư thế ngồi. Con của Đặng Vũ có tư thế đứng. Nhất định phải có gì bímật. Chúng mình cố tìm ra cho mới được.

Sún Cao cầm con gấu ngồi, rồi kéo chân cho dài ra, thành tư thế đứng. Nó kéo mấy cũng không nhúc nhích. Nó vận sức bẻ mạnh. Kẹt một tiếng, châncon gấu thẳng ra. Đồng thời bụng mở lớn.

Cả sáu đứa cùng reo lên. Sún Lé kéo chân mạnh hơn. Bụng con gấu mở lớnra. Trong bụng rơi xuống một ít cát. Lẫn trong đám cát, có tám mảnhđồng. Trên mảnh đồng khắc hình sông núi và chữ. Mảnh thì khắc chữ Nhất,mảnh thì khắc chữ Nhị thập tức là hai mươi. Cả tám mảnh có tới ba mươitám chữ số khác nhau.

Sún Lùn nói:

– Tao nghe Đào tam sư huynh kể. Trước người tìm thấy bộ Văn Lang vũ kinh trong cái gậy đồng. Trong gậy cũng có cát, có thẻ. Nên khi múa gậy,không nghe tiếng động. Không chừng trong bụng hai con gấu này cũng có võ học kỳ thư gì đây?

Chúng nó kéo, vặn con gấu còn lại. Khi vặn đầu, bụng con gấu cũng mở ra. Chúng cùng reo lên. Vì trong bụng con gấu thứ nhì cũng có tám thẻ đồngvới cát. Trên các thẻ đồng cũng khắc hình sông núi, chữ số khác nhau.

Sún Đen nói:

– Chúng mình thử xếp mười sáu mảnh này lại, xem là hình gì?

Sáu đứa ghép một lát, thành tấm bản đồ. Trên khắc hình bốn quả núi, có hồ, có sông nước.

Sún Lé ngơ ngẩn xuất thần:

– Tao thấy sao quả núi, đồ hình này có vẻ quen quá?

Sún Cao la lên:

– Tao tìm ra rồi. Hình này giống bản đồ trong trướng Công-tôn Thiệu, với Đặng Vũ đại ca. Đây là thành Trường-sa. Đây là sông Tương, đây là sôngThẩm-giang. Đây là núi Tam-sơn. Đây là hồ Động-đình.

Chúng cầm bút chép lại các chữ số, từ chữ số nhỏ nhất là Nhất tức một,tới chữ số lớn nhất là Lục thập tứ tức sáu mươi bốn. Chúng bàn cãi mộtlúc, không tìm ra ý nghĩa chữ số, cùng bản đồ.

Chán nản, Sún Lé bàn:

– A, trong người Mao Đông-Các có sáu cuốn sách. Không chừng trong sáu cuốn này có giải thích bức địa đồ cũng nên.

Nó mở sáu cuốn sách nhỏ ra. Trên bìa đánh dấu từ Nhất tới Lục. Ngoài bìa có bảy chữ viết theo lối chữ triện. Chúng đọc không được.

Sún Lé bàn:

– Chúng ta đem sáu cuốn này hỏi sư phụ. Không chừng trong sách dạy cách chế thuốc giải Huyền-âm độc chưởng cũng nên.

Sún Rỗ lắc đầu:

– Tao nghĩ, chúng mình đừng nói cho sư phụ biết., hãy cố mở ra đọc, rồichế thuốc cho tam sư huynh. Chúng mình làm thực bí mật. Khi sư huynhkhỏi rồi, mình mới nói ra, khiến cho sư tỷ Phương-Dung lé mắt một phen.Hôm ở Lạc-dương sư tỷ Phương-Dung hăm đánh đòn bọn mình hoài. Bọn mìnhcứu sư tỷ Hoàng Thiều-Hoa, làm sư tỷ Phương-Dung nể bọn mình. Bây giờbọn mình lại cứu sư huynh Đào Kỳ để sư tỷ Trưng Nhị bớt nực bọn mình vềvụ bí mật tha đại ca Công-tôn Thiệu.

Sún Cao tán đồng:

– Trong sáu cuốn, tao thấy cuốn một không có hình ở phía ngoài. Cuốn này để thằng Lé đọc. Còn cuốn có con rắn, chia cho thằng Đen. Tao lĩnh cuốn có hình con rết.

Sún Lùn cầm lấy cuốn có vẽ hình con bò cạp, nói:

– Tao lĩnh cuốn này. Cuốn có hình con nhện để thằng Rỗ. Cuốn có hình con tằm dĩ nhiên thuộc thằng Hô. Nào chúng mình cùng ngồi đọc.

Chúng im lặng đọc. Trong sáu cuốn, cuốn của Sún Lé dày nhất, trên sáumươi trang. Còn năm cuốn, đều năm mươi trang. Chúng đọc đi đọc lại mấylần, không hiểu gì. Chúng lăn ra ngủ. Đứa nằm trên giường. Đứa dựa ánthư. Đứa nằm dài dưới đất mà ngủ. Lát sau Đào Kỳ cho người gọi bọn chúng sang lều của chàng tập võ.

Đào Kỳ dặn bọn chúng:

– Ta không còn sống được bao lâu nữa. Tất cả võ công ta học gồm có: Võcông bản môn Cửu-chân ta không cần dạy. Sau này đã có sư phụ dạy các em. Kiếm pháp Long-biên ta cũng không dạy. Các em tìm học với sư tỷPhương-Dung. Những gì chép trong Văn Lang võ kinh ta cũng không dạy. Bộvõ kinh này hiện Thái sư thúc Khất đại phu, sư tỷ Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đặng đại ca mỗi người đều có một bản. Ta chỉ dạy các sư đệ những gì tanghiên cứu được mà thôi. Đầu tiên ta dạy các sư đệ nội công Âm-nhu củaphái Long-biên.

Nội công Long-biên chỉ có chín mươi câu quyết. Chia làm chín đoạn. Chàng đọc đoạn đầu mười câu, bắt chúng học thuộc. Bản chất Lục Sún vốn thôngminh., Đào Kỳ chỉ đọc một lần, chúng đã thuộc lòng. Chàng giảng chi tiết cách tập, rồi bắt chúng tọa công, thực tập.

Lối dạy học của Đào Kỳ xuất thân từ Đào Thế-Kiệt. Lục Sún đã học với Đào Thế-Kiệt thời gian qua, nên khi Đào Kỳ giảng dạy, chúng không bỡ ngỡ.Đào Kỳ thấy chúng hiểu mau. Chàng dạy chúng mười câu nữa. Chúng luyệnmột lần đã thành công.

Chàng ngạc nhiên tự nghĩ:

– Hồi trước, Nguyễn Phan nói rằng ông phải luyện trong ba năm mới xongmười câu đầu. Bốn năm tiếp theo mới luyện xong mười câu kế. Ông dạymình, mình cũng phải luyện trong ba buổi. Tại sao bọn này chỉ luyện mộtlát mà hiểu hết?

Nguyên nội công Long-biên là thứ nội công khó luyện nhất. Đòi hỏi ngườitập phải có trí thông minh tuyệt đỉnh, mới hiểu được. Nguyễn Phan, ĐàoKỳ, Phương-Dung, Phật-Nguyệt đều thông minh tuyệt thế, do vậy họ thànhcông. Lục Sún bị quăng ra đời quá sớm, được luyện tập sớm, trí thôngminh của chúng phát triển tối đa. Cho nên Đào Kỳ giảng chúng hiểu liền.

Đào Kỳ dặn chúng:

– Các sư đệ trở về lều. Tối nay tiếp tục luyện. Mai trở lại ta dạy tiếp.

Lục Sún về lều. Sún Lé nói:

– Chúng mày ạ! Tao thấy hai mươi câu quyết của tam sư huynh dạy chúng mình, sao giống trong cuốn sách của Mao Đông-Các quá.

Nó cầm cuốn sách thứ nhất đọc. Thì quả hai mươi câu đầu giống hệt hai mươi câu Đào Kỳ dạy chúng nó. Sún Đen nói:

– Đúng rồi chúng mày ạ. Hôm trước thái sư thúc Khất đại phu nói: nộicông Long-biên với Trường-bạch là một. Mấy trăm năm trước, Vạn-tín hầudẫn đệ tử sang đấu với võ sĩ của Tần Thủy-Hoàng. Ngài để lại một đệ tửtên Trần Mạnh-Chi. Ông Mạnh-Chi lấy vợ Trung-nguyên, lập ra pháiTrường-bạch. Mao Đông-Các xuất từ Trường-bạch, nội công của hắn giốngnội công Long-biên.

Sún Rỗ vỗ tay nói:

– Vậy chúng mình đem tất cả chín mươi câu học thuộc lòng. Tự luyện lấy.Ngày mai sư huynh dạy câu hai mươi mốt đến câu ba mươi, chúng mình làmbộ lắng tai nghe. Sư huynh đọc xong, chúng mình cùng đọc lại một lượt.Sư huynh tưởng chúng mình thông minh. Chắc vui lắm.

Sún Cao tính chân thực. Nó bàn:

– Nếu không có sư tỷ Phương-Dung, thì chúng mình giả vờ giả vịt được.Còn có sư tỷ đó, mà chúng mình giả vờ bị lộ ngay. Coi chừng ăn đòn.

– Nếu không có sư tỷ Phương-Dung, thì chúng mình giả vờ giả vịt được.Còn có sư tỷ đó, mà chúng mình giả vờ bị lộ ngay. Coi chừng ăn đòn.

Chúng ngồi im, nghe Sún Lé đọc tâm pháp ở cuốn thứ nhất. Chúng quyết tâm học, lại thông minh. Lát sau chúng thuộc lòng chín mươi câu. Học xong,trời về khuya. Chúng leo lên giường ngủ.

Sún Cao là đứa khó ngủ nhất. Nó cầm cuốn sách có con rết ra đọc. Trangđầu vẽ một người trong tư thức luyện công. Hai bàn tay ngửa ra. Đầu haingón tay cái có hai con rết cắn. Từ đầu ngón tay cái, có một đường chỉmàu trắng chạy ngược lên bàn tay, cùi chỏ, vai, nhập vào ngực, xuyên qua phổi, chạy xuống dưới ruột già.

Nó ngơ ngẩn tự hỏi:

– Hình này dạy cái gì đây? Tại sao nọc rắn lại đi theo đường chỉ này tới phổi con người? Ta thử đọc xuống dưới xem sao?

Nó đọc xuống dưới, ghi:

Vận khí từ Trung-tiêu xuống Đại trường. Đưa từ Đại trường lên Phế. Xuấtra ở hai huyệt Trung-phủ, đưa tới huyệt Hiệp-bạch, tới huyệt Liệt-khuyết thì chuyển khí làm hai, một thông sang Thủ-dương-minh Đại-trường kinh.Một tới huyệt Thương-dương. Sau đó dẫn ngược trở về Trung-tiêu theođường cũ.

Nó nhắm mắt vận khí thử. Quả nhiên chỉ hai lần, thì ngón tay cái rung động mạnh. Trong người cảm thấy khoan khoái vô cùng.

Nó luyện được hơn ba mươi lần, thì ngủ lúc nào không hay. Trong khi ngủ, tiềm thức làm việc. Nó mơ thấy hai con rết cắn vào huyệt Thương-dương.Nó vận khí chống lại, cái đau đớn mất. Trong giấc ngủ, nó luyện đi luyện lại. Bỗng có bàn tay vỗ vào vai nó. Nó giật mình thức giấc, thì ra SúnLé gọi nó sang lều Đào Kỳ luyện công.

Chúng nó tới lều Đào Kỳ, chàng đang bị lên cơn Huyền-âm độc chưởng.Chàng nghiến răng chịu đựng cơn đau. Bên cạnh, Đào Thế-Kiệt, Phương-Dung nước mắt chảy ròng ròng.

Sún Cao nghĩ:

– Đêm qua trong giấc mơ. Ta thấy hai con rết cắn ta. Ta vận khí hút nọcrết, thì ngón tay cái hết đau. Hay ta dùng ngón tay cái ấn vào ngón taycái tam sư huynh. Ta hút chất độc của tam sư huynh. Sau đó ta chết. Đểtam sư huynh sống. Võ công ta non nớt. Ta có sống cũng chẳng làm lợi ích gì cho Lĩnh Nam. Còn tam sư huynh võ công vô địch, tam sư huynh sống,nhất định người làm lợi cho Lĩnh Nam nhiều hơn.

Nghĩ là làm. Nó ngồi xuống cạnh Đào Kỳ, nhắm mắt vận công. Sau khi vậnhai lần, nó dùng ngón tay cái, và trỏ, nắm lấy ngón tay cái Đào Kỳ. Lậptức nó cảm thấy nội lực Đào Kỳ cuồn cuộn truyền sang người nó. Nó vậnkhí theo đồ hình học đêm qua, dẫn khí vào Phế, xuống Đại-trường, đưa lên Trung-tiêu.

Từ hôm Đào Kỳ bị trúng Huyền-âm độc chưởng. Cứ mỗi ngày chàng bị lên cơn một lần. Tim đập mau, ngực nghẹt thở. Sườn phải căng đau. Lưng nhức như búa bổ. Bụng đau như dao cắt. Vì bị độc chất rắn nhập tâm làm nhịp timđập mau. Nọc rết nhập Phế, làm phổi nghẹt thở. Nọc bò cạp nhập can, làmsườn căng nhức. Nọc tằm nhập thận làm lưng nhức như búa bổ. Nọc nhệnnhập tỳ làm bụng đau như dao cắt. Cơn đau ước khoảng hơn giờ.

Hôm nay cơn đau mới phát được nửa giờ. Chàng cố gắng vận công chịu đựng. Khi Sún Cao túm lấy ngón tay cái của chàng. Chàng không hay. Chỉ thấychân khí cuồn cuộn thoát ra. Lồng ngực bớt nghẹt thở. Một lát sau, chàng thở hít như thường. Trong người chàng khoan khoái không bút nào tảsiết. Chàng mở mắt ra nhìn, mới hay Sún Cao cầm ngón tay mình. Chàngkinh hoàng thu chân khí lại. Sún Cao cũng mở mắt ra. Chàng cầm tay sư đệ hỏi:

– Cao! Em có sao không?

Sún Cao lắc đầu:

– Không! Em thấy như thường.

Phương-Dung hỏi Đào Kỳ:

– Cái gì đã xảy ra?

Đào Kỳ nói:

– Anh đang ngồi vận công chống độc. Sún Cao nắm lấy ngón tay cái anh.Độc chất từ người anh bị Sún Cao hút vào người nó hết. Phổi anh thở hítdễ dàng. Gần như khỏi hẳn. Không biết Sún Cao có sao không?

Kinh nghiệm như Đào Thế-Kiệt, thông minh như Phương-Dung. Nội công, võ công cao như Đào Kỳ, mà cũng không hiểu được.

Tối hôm trước, Lục Sún đem sáu cuốn sách ghi chép Trường-bạch nội côngtâm pháp ra đọc. Chúng không hiểu gì. Vì trong sáu cuốn, thì cuốn thứnhất chép tổng quát nội công của Vạn-tín hầu. Năm cuốn sau, chép cáchluyện Ngũ-độc chưởng phái Trường-bạch. Vì chưa học tổng quyết nội côngÂm-nhu, do vậy chúng đọc mà không hiểu gì. Hôm sau chúng được Đào Kỳgiảng mười câu tổng quyết. Trở về chúng lấy cuốn thứ nhất của Sún Lé rađọc. Đó là cuốn ghi nội công Âm-nhu. Sau khi chúng thuộc, đi ngủ. Vì Sún Cao mất ngủ, nó đem cuốn của nó ra xem. Cuốn ấy dạy luyện độc công bằng nọc rết. Nó luyện suốt đêm. Trong giấc ngủ, tâm thức cũng luyện. Thôngthường, thì đệ tử phái Trường-bạch bắt rết cho cắn vào ngón tay cái, rồi áp dụng tâm pháp dẫn chất độc vào người hóa giải đi. Sún Cao khôngbiết, cứ luyện bừa. Chân khí sinh ra cực mạnh, mà không có chất độc đểhút. Khi nó túm vào ngón tay Đào Kỳ, ngón tay nó hút hết nọc độc rếttrong người chàng. Chàng hết nghẹt thở. Mà người Sún Cao cũng khoankhoái vô cùng.

Đào Thế-Kiệt cho gọi y sĩ đến bắt mạch Sún Cao. Y sĩ cũng luyện võ công. Y bắt mạch xong nói:

– Không có gì lạ cả. Song nội lực tiểu tướng mạnh ít thấy trên thế gian.

Sún Cao cười thầm:

– Ông thầy thuốc này là lang băm. Trong người ta đã hút hết nọc rết của tam sư huynh. Mà y không hay.

Đào Kỳ ngồi ngay ngắn lại. Chàng đem tổng quyết hai mươi mốt đến ba mươi dạy Lục Sún. Chàng ngạc nhiên, chỉ đọc một lượt chúng đã thuộc. Chàngđọc tiếp cho đến câu thứ năm mươi cũng chỉ một lần chúng thuộc. Chàngmuốn thử sức thông minh của chúng, chàng đọc đến câu chín mươi. Cũng chỉ một lần, chúng lại thuộc làu.

Chàng đưa mắt nhìn Phương-Dung:

– Này Dung. Hồi trước Dung học chín mươi câu trong bao nhiêu ngày?

Phương-Dung tính đốt ngón tay:

– Trong hai mươi lăm ngày.

Đào Kỳ lắc đầu:

–– Anh không ngờ Lục Sún thông minh đến như vậy. Hôm qua chúng học mườicâu, song phải khó nhọc lắm. Hôm nay chúng học tám mươi câu, dễ dàngquá.

Phương-Dung cau mày nghĩ:

– Không thể nào thế được. Lục Sún tuy thông minh, không thể thông minh quá đến như vậy.

Lục Sún sợ Phương-Dung khám phá ra điều bí mật. Chúng từ tạ trở về lều riêng, ngồi luyện công.

Sún Cao nghĩ:

– Ta hút hết nọc rết của sư huynh. Nhất định sư huynh sống. Ta chết. Đêm nay ta lấy cuốn của thằng Đen, có vẽ hình con rắn. Ta luyện. Mai ta hút nọc rắn cho sư huynh. Ta thử đọc lại yếu quyết cuốn có con rết xem sao?

... Phàm muốn luyện Huyền-âm độc chưởng. Trước phải học yếu quyết nộicông Âm-nhu. Sau đó bắt ba mươi sáu con rết. Mỗi ngày cho hai con cắnvào huyệt Thiếu-thương. Vận khí đưa vào Trung-tiêu. Chất độc doTrung-tiêu phân tán đi khắp cơ thể. Từ ngày thứ nhì, trong người có sứchút nọc độc loại rết rất mạnh. Mỗi ngày bắt hai con để lên bàn tay. Bàntay tự động hút nọc. Nọc rết vào người, thì mười ngày sau Phế bị xưnglên. Nghẹt thở. Đau đớn không thể tưởng tượng được. Muốn hóa giải thànhđộc chướng, phải được sư phụ truyền Tâm pháp độc công. Tâm pháp khôngchép thành sách, chỉ truyền khẩu cho đệ tử mà thôi.

Sún Cao nghĩ:

– Như vậy sau mười ngày ta mới lên cơn, đau đớn. Trong mười ngày ta phải luyện hết năm cuốn, hút chất độc cho sư huynh. Nếu để trễ, ta sẽ bị lên cơn, thì sư phụ biết. Sư phụ, sư huynh đời nào chịu cho ta chết thay sư huynh.

Đợi cho các Sún đi ngủ nó lấy cuốn của Sún Đen mở ra. Trang đầu vẽ hìnhngười ngồi luyện công. Hai ngón tay út bị hai con rắn cắn. Phía dướighi:

Dẫn khí khởi từ tâm, chuyển ra dưới nách, tới cườm tay, chia làm hai.Một xuất ra ở đầu ngón tay út, chỗ huyệt Thiếu-xung. Sau đó dẫn trở vềtheo đường cũ.

Nó nhắm mắt luyện. Mải mê luyện cho đến sáng. Phương-Dung dẫn y sĩ đến khám bệnh cho nó. Y sĩ khám một lúc, nhăn mặt:

– Kỳ thực. Mới từ qua đến giờ, mà công lực của tiểu tướng quân mạnh lên gấp bội. Không thể nào như thế được.

Phương-Dung cũng thấy thế: Mọi khi da mặt Sún Cao sạm đen rất xấu. Hômqua thì trắng nõn, bóng mịn. Hôm nay đỏ tươi. Nàng hỏi y sĩ:

– Theo y quan phải có nguyên do gì lạ lắm. Tôi cũng nghĩ thế.

Y quan nói:

– Bộ Hoàng đế nội kinh, chương Tạng phủ luận nói: Phế chủ bì mao. Có lẽtiểu tướng quân đã ăn uống thức gì lạ, bổ Phế. Cho nên da mặt đang đensạm, hóa trắng mịn, đẹp như tiên. Đêm vừa qua ăn thứ gì bổ tim. Y kinhnói rằng Hoa của tim là mặt. Bởi vậy hôm nay mặt mới hồng hào. Sún Lélắc đầu, cãi:

– Không có điều đó. Chúng em đều ăn uống giống nhau. Nếu do ăn uống, thì sáu đứa đều thay đổi một lượt. Chứ có đâu mình nó?

Đào Kỳ bước vào. Chàng hỏi Sún Cao:

– Từ qua đến giờ, em có thấy đau đớn gì không?

Sún Cao lắc đầu:

– Em ăn nhiều hơn mọi ngày. Có thế thôi.

Chàng cầm tay Sún Cao xem thử. Lập tức cả hai người cùng rung động mạnh. Đào Kỳ thấy nội lực mình cuồn cuộn tuôn vào người Sún Cao. Chàng vậnkhí đẩy ra, nhưng đẩy ra bao nhiêu, đều biến mất. Sún Cao sợ Đào Kỳ giật ra, nó cầm chặt tay sư huynh. Chỉ trong chốc lát, ngực Đào Kỳ đang đauđớn khó chịu... đều biến mất. Tay chàng với tay Sún Cao rời nhau.

Chàng hít một hơi, vận thử, chân khí trên Phế kinh, Tâm kinh, Tâm bàokinh, Đại-trường kinh, Tiểu-trường kinh, Tam-tiêu kinh thông như khikhông bị bệnh.

Đào Kỳ mời các anh hùng Lĩnh Nam, Thiên-sơn đến, tham khảo ý kiến. Thông minh như Phương-Dung, Trưng Nhị cũng ngơ ngẩn xuất thần.

Đào Kỳ thở dài:

– Thủ-thái-âm Phế kinh, Thủ-dương-minh Đại-trường kinh tương thông biểulý. Hôm qua Sún Cao hút hết độc chất trong Phế-kinh của tôi. Vì vậy Phếkinh, Đại-trường kinh đều thông. Hôm nay lại hút hết nọc độc trong Tâm.Tâm kinh, Tiểu-trường kinh tương thông biểu lý với Tam-tiêu. Khi nọc độc rút khỏi kinh Tâm-bào, cũng rút khỏi kinh Tam-tiêu. Bây giờ sáu kinhcủa tôi thông.

Công-tôn Thiệu đã được Lục Sún dùng đại nghĩa thả ông. Ông biết chúng hành sự bí mật. Ông nói:

– Này Sún Cao! Em phải nói thực. Em có luyện tập một thứ võ công kỳ lạ nào khác không?

Sún Cao nghĩ:

– Nếu mình nói thực, đời nào sư phụ để mình chết thay cho sư huynh. Mình phải bịa ra mới được.

Nó nói dối:

– Hồi ở Tây-vu em đã bị rắn cắn, rết, tằm, nhện, bò cạp cắn nhiều lần,mà cũng không sao. Khi em luyện tập nội công Âm-nhu của Đào tam sưhuynh, tự nhiên thấy trong người có sức hút kỳ lạ như vậy.

Y sĩ vỗ bàn đánh chát một cái:

– Như vậy phải rồi. Tiểu tướng quân có đủ Ngũ độc trong người. Bây giờluyện nội công Âm-nhu vào. Nội công Âm-nhu hòa lẫn với Ngũ-độc, thành ra trong người không sợ Ngũ-độc nữa. Cũng giống như người ta lên sởi, đậumùa, khi bị một lần, thì từ sau trở đi không bao giờ bị lại. Tôi nghĩ,Tiểu-tướng quân có thể hút hết chất độc cho Đào thiếu hiệp, mà khôngsao.

Trưng Nhị bàn:

– Có lẽ như vậy.

Cuộc họp giải tán. Trưng Nhị gọi Phương-Dung, Hồ Đề ra chỗ vắng bàn:

– Các sư muội nghĩ sao?

Hồ Đề nói:

– Em chưa từng nghe Sún Cao bị rắn, rết cắn bao giờ. Nó bịa ra đấy.

Phương-Dung bàn:

– Đêm nay chúng ta theo dõi xem Sún Cao có hành động gì lạ không? Phải khám phá ra điều bí mật này mới được.

Sún Cao trở về lều. Nó nhủ thầm:

– Mình khó mà qua mặt được sư tỷ Trưng-Nhị, Phương-Dung. Chắc đêm nayhai người sẽ rình, theo dõi mình đây. Chi bằng mình lấy sách đọc trước.Đêm ngồi luyện. Các sư tỷ có theo dõi cũng tưởng mình luyện công sưhuynh đã dạy.

Nó lấy cuốn sách vẽ con bò cạp, đọc thuộc lòng yếu quyết. Tối, cả sáuđứa ngồi nhắm mắt luyện công. Ngũ Sún thở hít vận khí theo nội côngLong-biên. Còn Sún Cao ngồi, thở giống hệt Ngũ Sún, nhưng dẫn khí, nódẫn theo Túc-khuyết-âm Can kinh. Chúng nó luyện tới khuya mới đi ngủ.

Hôm sau Đào Thế-Kiệt triệu bọn chúng tới chỗ Đào Kỳ dạy vận khí theokinh mạch, luyện Lĩnh-nam chỉ. Chúng luyện tập rất mau. Phương-Dung ngồi quan sát buổi học. Nàng nói riêng với Đào Thế-Kiệt:

– Hôm qua con với Trưng Nhị, Hồ Đề theo dõi các Sún, thấy chúng luyệncông như thường. Hôm nay theo dõi chúng luyện Lĩnh-nam chỉ, thấy cácngón tay Ngũ Sún rung động mạnh. Còn ngón tay của Sún Cao thì không.

Nàng nói đến đây, thì Đào Kỳ lên cơn. Lần này chỉ còn thấy đau ở mạnsườn, lưng bụng. Tim không đập mau, phổi không nghẹt thở. Chàng cởi áongoài, ngồi buông thỏng chân xuống vận công chống đau. Đào Thế-Kiệt,Phương-Dung đứng nhìn ngao ngán, không biết nói sao.

Sún Cao vào lều nói:

– Sư phụ! Để con bóp chân cho tam sư huynh, may ra sư huynh đỡ đau.

Nguyên khi luyện cuốn phổ vẽ con bò cạp, đồ hình vẽ hai con bò cạp cắn vào mu bàn chân, chỗ huyệt Thái-xung. Nó nghĩ:

– Vậy ta ấn chân vào huyệt này, hút hết nọc bò cạp trong Túc-khuyết-âmCan kinh của sư huynh. Đào tam sư huynh sẽ được hút độc trong Can kinh,Đởm kinh. Như vậy ta chỉ cần luyện hai cuốn nữa, là hút hết chất độc của Đào tam sư huynh, bấy giờ ta mới nói thực với sư phụ. Người có cản ta,cũng không kịp nữa.

Đào Kỳ đang lên cơn sốt. Sún Cao đề nghị bóp chân cho chàng. ĐàoThế-Kiệt chưa kịp phát biểu ý kiến, nó đã dùng ngón chân trỏ đặt vào mubàn chân Đào-Kỳ. Chàng rung động toàn thân, nội tức theo Can kinh truyền sang người Sún Cao. Chàng tự vận sức giật mạnh. Chân chàng vẫn dính vào bàn chân nó. Một lúc sau, tự nhiên chân hai người tách rời nhau. Baonhiêu cái đau đớn mạn sườn hết. Chàng vận khí, thấy Túc-khuyết-âm Cankinh, Túc-thiếu-dương Đởm kinh đều thông.

Chàng bảo Sún Cao:

– Sư đệ về lều nghỉ đi.

Đợi cho Sún Cao rời khỏi. Chàng nói với Hồ Đề:

– Nhất định Sún Cao có điều gì bí mật lắm. Không thể tự nhiên có sức hút độc. Hôm đầu, tôi cho rằng nó vô tình. Hôm nay tôi thấy Sún Cao dùnghuyệt Đại-đôn đặt đúng vào huyệt Thái-xung của tôi, tỏ ra lối hút độc có phương pháp hẳn hoi. Vậy chúng ta cần theo dõi nó thực kỹ mới được.

Hồ Đề ngẫm nghĩ nói:

– Chúng nó chơi chung với nhau từ nhỏ, làm gì cũng bàn cãi với nhau. Không lẽ lần này Cao lại bí mật làm riêng?

Phương-Dung gật đầu:

– Dù thế nào chăng nữa, chúng hành sự tỏ ra có bản lĩnh. Như vụ thaCông-tôn Thiệu. Chúng chỉ tha ra sau khi được thư của Đặng đại ca. Vụcứu Hoàng sư tỷ càng tỏ ra chúng có đởm lược, khéo léo hơn chúng mìnhhồi ngang tuổi với chúng. Sún Cao chân thật, vui, buồn hiện ra nét mặt.Khi nó hút chất độc cho tam ca, nét mặt nó tươi cười. Tỏ ra trong lòngkhoan khoái. Chắc chắn nó chủ tâm hút chất độc cho tam ca, chứ không cóác ý.

Sún Cao trở về lều. Nó nghĩ:

– Hôm nay ta không dấu được con mắt Đào tam ca nữa. Vậy ta phải họcthuộc yếu quyết cuốn phổ về con nhện và con tằm. Sau đó ta dấu sách đi.Như vậy mới không bị bại lộ.

Sau hai ngày, thì Sún Cao đã hút hết chất tằm độc trong Túc-thiếu-âmThận kinh. Nọc nhện độc trong Túc-thái-âm Tỳ kinh ra khỏi người Đào Kỳ.Đào Kỳ vận khí thì thấy mười hai kinh, Kỳ-kinh Bát-mạch đều thông. Chàng vận khí phát chưởng. Nội lực mạnh hơn trước khi mắc bệnh nhiều. Chàngnói với bố:

– Có thể nói, Sún Cao đã hút hết chất độc trong người con rồi. Khôngbiết trong người sư đệ có bị trúng độc không? Bây giờ phải theo dõi xemnó có bị đau đớn, như con bị không?

Chàng với Phương-Dung, Hồ Đề, Trưng Nhị theo dõi mấy ngày, cũng khôngthấy gì lạ cả. Đến ngày thứ tư, chàng cho đánh thức chúng dậy, luyện võ, thiếu Sún Cao.

Các Sún đều ngơ ngác. Chàng gọi Hồ Đề, Phương-Dung vào lều bọn chúng xem có dấu vết gì lạ không? Ngũ Sún há hốc miệng ra, vì hành, lý, ngựa củaSún Cao biến mất. Phương-Dung hỏi quân canh trại. Tên lữ trưởng tuầntiễu đêm qua thưa:

– Đầu canh hai, tiểu nhân thấy tiểu tướng quân cỡi ngựa ra khỏi trại,dặn rằng: Người nhận lệnh của Trưng quân sư đi có việc khẩn cấp.

Đặng Thi-Sách tinh tế hơn. Ông rủ mọi người về lều Lục Sún:

– Chúng ta trở về lều Tây-vu Thiên-ưng lục tướng, tìm xem có gì lạ không?

Phương-Dung, Đào-Kỳ, dẫn mọi người về lều Lục Sún. Phương-Dung đưa mắttìm kiếm, vật đầu tiên nàng thấy là năm cây cờ, năm màu, hai cái tù vàđể chỉ huy Thần-ưng. Trong đó có mẩu giấy:

Bọn Lé, Rỗ, Đen, Lùn, Hô, mấy cây cờ, và hai cái tù và này, tao để lại cho chúng mày xử dụng.

Nàng lục tới chuồng nuôi trăn, rắn, mấy con trăn của Sún Cao còn nguyên. Bỗng Đào Kỳ kêu lên:

– Đây rồi.

Chàng chỉ vào một bao thư treo trên nóc lều. Cầm lên xem, có hàng chữ:

Sư phụ là Đào tiên sinh khai khán.